TUYỂN TRANH VÀ TƯƠNG GỐM LÊ KÝ THƯƠNG
MƠ MÌNH THÀNH HỌA SĨ
1.- Tháng mười, tiếng ểnh ương giục người gặt
lúa. Cha lót ổ sau hè bên bụi chuối. Con từ nơi đó chào đời. Hương bưởi trong
vườn phảng phất lưỡi dao tre. Bà mụ già run tay cắt rún. Giọt máu đầu đời con
thấm sâu lòng đất ẩm. Biến thành những giấc mơ.
2.- Con lớn lên bằng nước cơm sôi và sữa mẹ
thất thường. Ngày thôi nôi con cha mẹ nguyện cầu tám hướng bốn phương. Xin ơn
Trên cho con chọn một nghề nhàn hạ. Chiếc nia bày những mẫu vật tượng trưng.
Con toét miệng cười sung sướng chộp nắm xôi.
Nắm xôi tròn ôm trọn một giấc mơ con.
3.- Con thích rong chơi với những bạn chăn bò.
Vô núi bẫy chim, ra đồng bắt dế. Chơi
những trò chơi trời cho dân dã. Có lần con được làm vua. Ngồi trên chiếc ngai
vàng làm bằng đôi cánh tay của hai “đô lực sĩ”. Nhưng con không mơ mình là
thiên tử. Con chỉ mơ luôn là “hoàng tử bé” của người lớn thôi.
4.- Hoàng tử bé thì rất thảnh thơi. Khi chán
học i tờ hay tập tô theo nét chữ (bài học vỡ lòng cha dạy với hy vọng con mình
lớn lên thành thầy thông thầy ký), con chạy ra đường ngồi trên trụ cây số trước
nhà. Ngóng chờ cha mẹ cày thuê gặt mướn đồng xa mau về. Thương cha mẹ con mơ
mình thành họa sĩ .
5.- Con thả giấc mơ lên bất cứ nơi nào có thể
được. Với cục than trên tay, con biến mái nhà tranh thành tòa lâu đài, bữa cơm
độn bắp khoai thành cao lương mỹ vị, chiếc áo lành cho cha, chiếc nón mới cho
mẹ. tán đường cho các em, những giọt nước miếng thèm thuồng thành những cây
kem... Con sung sướng thấy mình là ông Tiên... trong mơ.
6.- Con vẽ hoài, vẽ hoài những giấc mơ. Những
giấc mơ không xa đời thực. Đầu đã bạc nhưng giấc mơ của con chưa hề thành hiện
thực. Nên con cứ mơ hoài mơ hoài những giấc mơ...
LÊ KÝ THƯƠNG
Lê Ký Thương - Ngày thôi nôi, sơn dầu.
Lê Ký Thương, Mừng rỡ, sơn dầu,
65cm x 65cm
Lê Ký Thương, Thử thách đầu đời # 2, sơn dầu,
80cm x 80cm
80cm x 80cm
Lê Ký Thương, Thả giấc mơ bay, sơn dầu,
Lê Ký Thương - Hoàng tử bé, sơn dầu,
Lê Ký Thương, Trò chơi trời cho, sơn dầu,
120cm x 100cm
Lê Ký Thương, Thử thách đầu đời, sơn dầu,120cm x 100cm
Lê Ký Thương, Cùng vui với chi, sơn dầu, 90cm x 80cm
Lộc giao thừa, 80cm x 60cm
Đi và Đến, 80cm x 180cm
Chờ ngày bạn sinh, 80cm x 60cm
Gởi thiên thần, 80cm x 60cm
Hoa nhật nguyêt, sơn dầu, 80cm x 60cm
Ấn tượng đồng bằng, sơn dầu, 52cm x 52cm
NHỮNG HỌA PHẨM CHƯA TRIỂN LÃM
TUYỂN TƯỢNG GỐM - HỌ NHÀ CÓC
(Triển lãm năm 2007)
THE TOADS
Nhảy cừu
Cừu (tương đất nung - gốm Bầu Trúc)
Thầy Cả Chăm (tượng đất nung - gốm Bầu Trúc)
(Triển lãm năm 2007)
Với hình
hài xấu xí, cóc bị người khinh rẻ. Người vì lợi ích cá nhân ăn thịt cóc, thờ
cóc, còn tôn vinh “con cóc là cậu ông Trời”! Riêng tôi, ở một kiếp nào đó, kiếp
này mượn hình hài cóc để nói về mình.
THE TOADS
In ugly appearance, toads are despised. For self-interest, man eats,
worships, and even honoursthem as “God’s uncles”! Personally, I borrow toads’
figures to narrate myself in this kalpa because I used to be a toad in a
certain former one.
Bài thơ con cóc
Cóc lười (nằm chờ sung rụng).
Hoàng tử Cóc
Cóc thổi kèn
Cóc đánh trống
Đệ tử Lưu Linh
Đối ẩm
Cóc chơi đàn cò
Gia đình Cóc
Hoàng tử Cóc
Cóc khảy đờn bầu
Cóc ôm vò rượu
NHỮNG TƯỢNG GỐM KHÁC
Tình mèo
Nghĩa chuột
Chuột đọc sách
Chú gấu
Sống chung với lũ
Vượt sóng
Cóc ôm vò rượu
NHỮNG TƯỢNG GỐM KHÁC
Bầu sửa mẹ
Tình mèo
Nghĩa chuột
Chuột đọc sách
Chú gấu
Sống chung với lũ

Nhảy cừu
Thầy Cả Chăm (tượng đất nung - gốm Bầu Trúc)
1974 - TRIỂN LÃM LẦN ĐẦU TIÊN
TẠI TRUNG TÂM VĂN HÓA PHÁP ĐÀ LẠT
BÀI GIỚI THIỆU CỦA HOÀNG KHỞI PHONG:
TẠI TRUNG TÂM VĂN HÓA PHÁP ĐÀ LẠT
BÀI GIỚI THIỆU CỦA HOÀNG KHỞI PHONG:
Những cơn mưa cuối mùa bao giờ
cũng phủ phàng và hối hả, gió thổi mạnh và trời đầy một màu chì nằng nặng. Có
những tấm bích chương bị lật ngược. Cái gì rồi cũng qua đi. Cái gì rồi cũng
ngừng lại. Cái gì rồi cũng đổ vỡ.
Phòng
tranh của anh đã được khai mạc trong bối cảnh đó. Bối cảnh của buồn bả và u ám
của thị xã này. Nơi mà những biến động bị bỏ quên vì lý do này hay lý do khác.
Những thị dân ở đây đã oằn lưng chịu đựng những thử thách của thiên nhiên và
những đổi thay phủ phàng của thời nửa chiến nửa hòa.
Giữa
cái giá rét có những đứa trẻ chỉ có một manh áo mỏng, một chiếc quần đùi hở
rốn. Những đứa trẻ bụng to không phải vì no cơm và đang cần một liều thuốc xổ.
Ở đây những ngày cuối tuần, ngày lễ có rất nhiều xe du lịch đến từ mọi miền và
đổ xuống vô số những người hồng hào, thanh lịch. Họ đã đổ về đây để có một cơ
hội thụ hưởng, nhìn ngắm vẻ đẹp thiên nhiên đầy giả tạo của thành phố này.
Có
một cái gì buồn thảm trong đời sống ở đây. Có một cái gì đang manh nha thay đổi
nơi trái tim Sài Gòn, nơi khối óc của Huế, nơi bàn tay của Qui Nhơn và tại
nhiều nơi khác nữa.
Tại
sao anh không dùng màu lạnh?
Tại
sao anh lại dùng màu nóng?
Có
phải chăng màu nóng hôm nay được thể hiện nơi những mẹt khoai bày đó đây, nơi
những đầu ngỏ hẻm, hay giữa khuya, nơi những bếp than hồng mà ở đó cô hàng bắp
nướng đang ngồi co ro dưới những tàn cây u ám, và trời thì đang lấm tấm mưa. Có
phải chăng màu nóng còn được thể hiện trên những bích chương, biểu ngữ, trên
mỗi lá cờ mà hơi sương đã làm rực rỡ thêm lên và vì dầm nước nên cho dù gió có
thổi mạnh cũng không thể bay lên phất phới được.
-
Có phải chăng sự đổi thay đang bắt đầu nơi mỗi con người, và nghệ thể hiện nó
qua những tác phẩm để đánh thức đồng loại?
-
Có phải anh đã vẽ “NHẠN MÔN QUAN” trong sự biểu đồng tình?
Và
nơi anh là việc trong một căn hầm ngộp thở, chỉ có chút trời xanh qua khung cửa
nhỏ. Anh đang mơ về một nơi cao có cành chim hồng, chim nhạn mới đủ sức vượt
qua.
Sao
anh không là một cánh nhạn hồng?
HKP
Lê Ký Thương đứng trước tấm bảng chỉ đường lên TTVH Pháp-Đà Lạt và bande rôle
giới thiệu triển lãm.
Bác sĩ Thân Trọng Minh (Lữ Kiều) - người tổ chức triển lãm đứng trước bức tranh
- THIẾU NỮ HỒNG MAY MẮN - dành tặng Trần Thị Kim Cúc, vợ Lữ Kiều.
Với vợ con Lữ Kiều tại phòng triển lãm.
1998: TRIỂN LÃM CHUNG VỚI THÂN TRỌNG MINH
(LỮ KIỀU)TẠI TỰ DO GALLERY, 142 ĐỒNG KHỞI, Q.1
TỪ NGÀY 4-10 ĐẾN 16-10.
GIỚI THIỆU: VỀ TRANH LÊ KÝ THƯƠNG
Tranh Lê Ký Thương toát ra một vẻ
gì rất hồn nhiên, tươi tắn, dịu dàng, một thứ rất “chân quê” sáng trong bắt
nguồn từ ký ức ấu thơ. Những con trâu đằm thắm, cọng lau phất phơ nẳng sớm,
thuyền giấy lạc xa bờ, giấc mơ lung linh thời thơ dại… rồi người mẹ gánh con đi
chợ đường xa, rồi “bánh tráng tán đường” cúng ông Địa dưới ánh mắt thèm thuồng
của đứa trẻ với một thứ màu sắc và đường nét đọng lắng, thắm đẫm niềm hoài
niệm. Tất cả tạo cho ta một cảm xúc bùi ngùi khó phai.
Với
tôi, tranh Lê Ký Thương cũng như thơ anh, luôn giữ được một mùi thơm quen
thuộc, mùi thơm của bã mía nơi bếp lửa hồng ở chốn quê nhà…
ĐỖ HỒNG NGỌC
Cúi xuống lòng mình để lắng nghe
âm thanh vang vọng từ một thời quá vãng – ôi thiên đường đã mất: một ảo tượng
mịt mờ khói bụi thời gian! Từ trong cùng thẳm đâu đó vẳng đến tim ta những bước
chân đầu đời – chập chững, nhẹ nhàng – tuy vậy mà vương vấn không thôi… Hãy để
hoài niệm hiện bằng sắc màu vàng tươi của thời thơ ấu – và Lê Ký Thương muốn
nâng niu những hình bóng thân yêu để trở về cõi mênh mông của tháng ngày buồn
vui tuổi nhỏ. Những cuộc chơi mất mát mà không đắng cay. Những con thuyền cầm
bằng như đã chia lìa. Giấc mơ không đen ác mộng trên khuôn mặt rạng rỡ một màu
vàng. Hình bóng thân yêu của bà mẹ hiền, chút thơ ngây của niềm tin trước khi
chiêm nghiệm cuộc đời, đôi chân còn ham rong chơi vụng dại, tất cả bây giờ phải
chăng là hoài niệm vàng ánh thời hoa niên đủ san sẻ cho nhau cõi thật và lành
mà mỗi người trong chúng ta bị đời thường làm xao lãng.
CHÂU VĂN THUẬN
Đã
có thời, Lê Ký Thương thử nghiệm những mảng màu nóng, tương phản, “dã thú”, và
giờ đây, vẫn những mảng màu nguyên chất long lanh đó gợi về một tuổi thơ đã
qua.
Đã
qua nhưng vẫn còn đó. Chiếc thuyền giấy, con chim trong lồng, con trâu, đứa bé
là nhóc Thương thuở ấy, bà ngoại, tất cả thế giới kia được trình bày bằng một
nghệ thuật thật thà nhưng tinh tế, thông minh và hóm hỉnh, mở ra một hội ngộ
cho mọi người – bởi vì trong mỗi người lớn vẫn ẩn giấu một đứa bé, và đứa ấy
luôn muốn được cuộc đời an ủi.
Tôi
cũng được an ủi qua nỗi hoài cảm về tuổi thơ chung của chúng ta qua tranh Lê Ký
Thương.
CUNG NGHỊ
Thế giới tuổi thơ luôn hồn nhiên
và ngọt ngào. Hoài niệm về tuổi thơ luôn sâu lắng và linh hiển. Tưởng chừng như
nghịch lý – nhưng không – khi ta càng có tuổi thì ký ức về tuổi thơ càng ngu
ngơ hơn, càng sâu lắng hơn. Tôi thích từ và những tranh “thời thơ dại” của họa
sĩ Lê Ký Thương. Sắc màu của một thế giới của “THƠ” và của “DẠI”, rất riêng và
rất thiêng. Sắc màu của một thế giới đầy mê hoặc, đầy chìm đắm…
NGUYỄN LIÊN CHÂU
Mr. Boudewijn D.J. Van Rompu, người Hà Lan, TGĐ Hãng bia Heineken, Tiger và Bivina đã "gắn nơ đỏ" bức Thời thơ ấu 2 khi vừa khai mạc phòng tranh. Chủ Tự Do Gallery (người quay lưng) vui, cả nhà tác giả vui, bạn bè vui, tác giả vui. Mọi người cùng vui...
Hai cặp họa sĩ chụp chung với lẵng hoa của vợ chồng Lê Anh Dũng tặng.
KÝ ỨC THỜI THƠ DẠI TRONG TRANH LÊ
KÝ THƯƠNG
Nhà
thơ vẽ tranh thường tìm về với hoài niệm tuổi thơ của mình, Lê Ký Thương vẽ
tranh cũng như thơ anh “luôn giữ thơ anh được mùi thơm của bã mía nơi bếp lửa
hồng ở chốn quê nhà”.
Họa
sĩ Lê Ký Thương vẽ tranh trước khi làm thơ. Anh được thân phụ truyền cho nét
bút đầu tiên. Và chính quê nhà ấy là một vùng ngoại thành của Nha Trang. Cái
làng quê ấy đã là nguồn cảm hứng gần như bất tận trong tranh anh. Trong cuộc
triển lãm lần đầu tại Trung tâm Văn hóa Pháp – Đà Lạt (tháng 11 năm 1974) vớ 20
trang sơn dầu thì đã có khá nhiều tranh vẽ về chốn quê nhà ấy. Có thể bắt gặp
những mảng màu nóng gợi nhớ về tuổi thơ đã qua trong các bức tranh Lò gạch, Mùa gạch mới, Mùa gặt mới, Cá nóc,
Bướm đêm, Tỉnh vật 1, Câu chuyện đèn cầy, Nghĩa địa xương rồng, Em bé trước
hiên nhà… Và gần ¼ thế kỷ đi qua, Lê Ký Thương vẫn thủy chung với nguồn cảm
hứng sáng tạo ban đầu, đấy là ký ức thời thơ dại. Trong lần triển lãm mới đây
tại TP. HCM (tháng 10-1998) cùng với họa sĩ Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương – hội
viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, đã trình làng sau nhiều năm tháng lặng lẽ, một miền
ký ức thơ dại của mình. Gần như những chiếc thuyền giấy, con chim trong lồng, ổ
rơm, cái bánh tráng, cục đường, con gà đất, trái ớt…, những hình ảnh chăn bò, bẫy
chim, tát cá, ông Địa… đã “ngủ quên” nay “bừng dậy”. Tranh Lê Ký Thương có rất
nhiều ký ức thời thơ dại. Và hoài niệm đã trở về cùng với sắc màu và đường nét
lắng đọng, gợi nhớ mùi hương dân dã đằm thắm ở chốn quê nhà. Bức tranh Trăng non với bầu sửa có cái ấm áp của
rơm rạ và gợi nhớ một thời nghèo khó và thiếu thốn. Phút linh cầu (cúng ông Địa) có chi tiết ấn tượng, toát lên vẻ tươi
tắn, dí dỏm và hồn nhiên. Tranh của Lê Ký Thương còn mang lại cảm giác rất an
lành, đấy là chùm tranh Thời thơ dại
(như các bức tranh Thời thơ dại 1, 2,
7) với các chi tiết khá độc đáo: thằng bé ngồi trên cột mốc cây số ở Nha Trang,
cái cối xay, thằng bé cầm cờ lau… trông thật dễ thương. Chính nét đẹp hồn
nhiên, tươi tắn đó là một phần hình ảnh về một miền quê Việt Nam, đã thực sự thu hút người xem
tranh (kể cả người nước ngoài) khi muốn tìm lại tuổi thơ của mình. Thế giới
tuổi thơ trong tranh Lê Ký Thương có sự mất mát mà không đắng cay, được trình
bày bằng nhiều mảng màu nóng, hơi thiên về những khối tam giác, thứ màu sắc đơn
giản và lạc quan. Mỗi bức tranh là một câu chuyện kể về tuổi thơ và kỷ niệm,
nhưng “style” của anh thì hoàn toàn thay đổi cho phù hợp với đề tài. Anh đã vẽ
bằng niềm say mê ấp ủ trong lòng. Thế giới tuổi thơ dại ấy chỉ mới là một phần
nhỏ trong hành trình sáng tác của một nhà thơ - họa sĩ. Đến một lúc nào đó, anh
sẽ chuyển sang một vài mảng đề tài khác. Nhưng niềm đam mê hội họa ban đầu vẫn
không cạn cạn nguồn.
Mỗi
người có một tuổi thơ riêng, nó ăn sâu trong cuộc đời. Với họa sĩ Lê Ký Thương,
đấy là những nét dí dỏm, đầy ắp những chi tiết sống động và cụ thể, và đấy cũng
là niềm hạnh phúc của riêng anh – một sự bình an khi vươn tới mục đích của nghệ
thuật trước cuộc sống.
DƯƠNG VÂN
Trần Hữu Lục (Dương Vân) đang giới thiệu hai họa sĩ trong lễ khai mạc triển lãm.
Bác sĩ Trương Thìn đang giới thiệu những người tham dự "cuộc chơi" trong buổi khai mạc.
1999: TRIỂN LÃM CHUNG VỚI RỪNG, TRƯƠNG THÌN,
BÀN TRÒN CỦA PHÒNG TRANH 5 NGƯỜI
Họ
là 5 người bạn thân: họa sĩ Rừng, bác sĩ Thân Trọng Minh, bác sĩ Trương Thìn,
họa sĩ Lê Ký Thương và Hồ Thanh, hiệu trưởng Trường Văn hóa Nghệ thuật TP. HCM.
Những người bạn thân lâu ngày ấy muốn bày ra cuộc chơi… và họ đã rủ nhau chơi
tranh.
Cuộc
nói chuyện bắt đầu từ họa sĩ Rừng. Anh không nói về mình mà nói về người ngồi
kế bên: Hồ Thanh. Rừng đã phát hiện ra Hồ Thanh trong một lần anh có ý kiến về
một tờ lịch mà Rừng cho rằng có tư duy nghệ thuật… Bây giờ qua kỹ thuật thì
Rừng cho rằng Hồ Thanh đã là một họa sĩ thật sự. Có ý kiến hỏi anh có quá khen
không, như một lần anh khen Phạm Mạnh Hiên đang có tranh bày ở Gallery Tự Do…
Rừng nói không phải ai anh cũng khen. Nhưng, Hồ Thanh chỉ nhận đây là sự rong
chơi thư giản của mình, một cách để giải tỏa cuộc sống công chức hàng ngày.
Lê
Ký Thương cũng nhận là vào cuộc này có sự “xúi bảo” của họa sĩ Rừng. Anh vẫn
giữ vẻ thơ ấu, mô-típ quen thuộc trong tranh anh. Đúng là họa sĩ Rừng là người
dẫn cuộc chơi, vì ngay BS Trương Thìn, người vẽ thường xuyên, bày kín mấy căn
phòng ở Viện Nghiên cứu Y học Dân tộc, cũng nói họa sĩ Rừng đã giúp anh nhiều
lắm. Nhưng, anh không chịu người ta gọi mình là họa sĩ, bởi anh vẽ với tư cách
bác sĩ. Anh trình bày quan niệm về hai loại y-thể-xác và y-tâm-hồn. Kể nhu âm
nhạc, hội họa, thi ca là một loại thuốc cho tâm hồn. Anh vẽ cho người xem thấy
sung sướng, dễ chịu.. BS Thân Trọng Minh chêm vào: qua y học, các bác sĩ đều
thuộc môn cơ thể học, đều biết cái đẹp của thịt xương, nhưng bên trong thịt
xương, còn là cái đẹp tâm hồn và cái đẹp ấy sẽ cứu chữa thế gian.
Đột
nhiên Hồ Thanh lại nói ngược những ý trên: anh vẽ cho anh, chẳng vì ai cả,
thích cái gì vẽ cái nấy, hoàn toàn là cuộc chơi. Tranh của anh có vài bức đẹp,
hoàn chỉnh. Những khối, những hình tròn quyện lấy nhau. Một nhà báo lại nhìn ra
những đường cong đàn bà trong tranh của anh làm cho Hồ Thanh ngạc nhiên như một
phát hiện về tranh của mình! Anh nói khi anh vẽ không nghĩ đến phụ nữ. Như vậy
đúng là anh vẽ cho anh, mà không vẽ cho nhà báo kia…
Họa
sĩ Rừng lại nói cảm tưởng rất thật của anh, sau khi xem tranh của các họa sĩ
tay ngang: “Tôi biết các cha vẽ được thế này, thì tôi không đi học mỹ thuật mất
công 10 năm. Tôi khuyên các bạn nào thích vẽ thì cứ nhảy dù vào, không được thì
nhảy ra”.
DIỄM CHI
* Phòng tranh sơn dầu khai mạc
ngày Chủ nhật 8-8 tại Phòng Triển lãm – Trưng bày 92 Lê Thánh Tôn, Q.1, TP.
HCM.
Lê Ký Thương chụp trước mảng tranh của mình trong cuộc triển lãm.
2001: TRIỂN LÃM CÁ NHÂN TẠI GALLERY TỰ DO,
53 HỒ TÙNG MẬU, Q. 1.
LÊ KÝ THƯƠNG
TÌM LẠI TUỔI THƠ
Năm
1974, Lê Ký Thương đã có tranh triển lãm cá nhân đầu tiên tại Trung tâm Văn hóa
Pháp (Đà Lạt). Năm 1998 và năm 1999, ông triễn lãm tranh chung với các họa sĩ
Rừng, Thân Trọng Minh, Hồ Thanh, Trương Thìn. Vào ngày 7-7, ông triển lãm tranh
tại Gallery Tự Do (53 Hồ Tùng Mậu, Q. 1, TP. HCM) với chủ đề Trò chơi trời cho,
vẽ các trò chơi của trẻ em.
Các
họa sĩ trường phái Naïve (Hồn nhiên) thường vẽ tranh với sự tưởng tượng của trẻ
em. Henri Rousseau là đại biểu của trường phái này. Lê Ký Thương không vẽ tranh
bằng sự tưởng tượng của trẻ em mà bằng hoài niệm về tuổi thơ êm đềm. Đấy là
những lần tham gia bài chòi ngày Tết, chơi trốn tìm, nhảy lò, quay vụ… Nhớ lại
thôi nôi chọn một đồ vật tượng trưng cho nghề nghiệp tương lai, nhớ ngôi nhà
ngoại với chiếc mo cau, nhớ đêm trăng trên tàu lá chiếu thả ước mơ bay… Và thử
thách đầu đời là trò chơi nhảy bao bố, đi cà khêu ngã nhào. Thế giới tuổi thơ
thần tiên ấy an cũng đã trải qua, nhưng cuộc sống mưu sinh tất bật làm người ta
quên đi. Với sắc màu vui tươi và đường nét ngộ nghĩnh, Lê Ký Thương đã giúp
người xem nhớ lại và mỉm cười.
Cũng
như các nhà văn viết về tuổi thơ, Lê Ký Thương vẽ tranh về tuổi thơ để mong tìm
gặp cái-tôi-thơ-ấu. Cái tôi ấy đã được nhìn lại bởi cái-tôi-tri-thiên-mệnh, nên
sự ngây thơ không còn mà đã có sự từng trải của người nếm nhiều hương vị đắng
cay của những cú ngã đau hơn cú ngã đi cà khêu thử thách đầu đời. Người ta
không thể tắm hai lần trong một dòng sông, nhưng với hoài niệm, người ta có thể
thấy lại mình tắm lần đầu trong một dòng sông. Tranh của Lê Ký Thương mang
những hoài niệm đó.
NGUYỄN THANH TRỊNH
Người lao động Chủ nhật, từ 6-7 đến 8-7-2001
Vai diễn, sơn dầu, 65cm x 60cm

Thủ bút của Luật sư Lê Công Định
Thủ bút của Nhà thơ Inrasara.

Thủ bút của Họa sĩ Đinh Cường
Với Họa sĩ Đinh Cường và Họa sĩ Bửu Chỉ.
Thủ bút của Lữ Kiều
Với Lữ Kiều
Thủ bút của Nhà văn Phan Triều Hải.
CHÚ LÊ KÝ THƯƠNG
THỜI TRẺ THƠ TRONG TRANH
Như
con kiến cần cù sống và thở với tranh, cứ gom được mớ tranh nào đắc ý nào đó từ
những ngày lao động ở xưởng vẽ riêng là Lê Ký Thương lại mở cuộc triển lãm. Khi
thì với người bạn “chí cốt” với bác họa sĩ – bác sĩ Thân Trọng Minh mở phòng
tranh “song ca” (1998), lúc hợp xướng với bác Trương Thìn, Thân Trọng Minh,
Rừng, Hồ Thanh (1999), và năm nay (2001), chú độc diễn với một phòng tranh chủ
đề “Trò chơi trời cho”. Tranh sơn dầu của chú Lê Ký Thương làm mọi người ngạc
nhiên khi chú hóa thân vào một thế giới lung linh kỳ ảo của tuổi thần tiên
chúng mình. Những tác phẩm hội họa duyên dáng thơ ngây đã được những nét cọ đã
ở tuổi 54 như chú thể hiện thật trong sáng, hôn nhiên. Làm sao để một tâm hồn dạn
dày sương gió, một đời người lận đận thăng trầm lại có thể quay về với những ký
ức tuổi thơ như chú? Ký ức tuổi thơ, có lẽ đó là những ký dễ thương (như chính
tên anh) về một miền cổ tích, một miền chỉ có chung quanh là niềm vui và tiếng
cười, sự khỏe khoắn và hạnh phúc.
Với
Hoàng tử Bé, nơi đó sự hồn nhiên tươi
tắn được thể hiện dưới bút pháp thật bay bổng như một cảm hứng bất ngờ, reo
vui. Một Mèo đi dạo là một chú mèo
tinh nghịch (…). Mèo con đi đã vào thế giới thơ ngây như hình với bóng. Chú Lê
Ký Thương đã thả hồn về với chiều sâu thăm thẳm của thời thơ ấu xa xôi, bềnh
bồng với tác phẩm Thả giấc mơ bay, nơi ấy có người ngồi ngẩn ngơ ngắm vầng
trăng bạc. Giấc mơ của tuổi thơ chẳng biết bay về đâu cũng như những cánh diều
tuổi thơ đã chẳng biết bay về chốn nào?
Những
trò chơi Trốn tìm, Cú nhảy, Cùng vui với
chị nhé, Thử thách đầu đời mô tả lại những trò chơi của thời đầu còn ba vá.
Trò chơi trốn tìm, nhảy trừu nhảy ngựa, nhảy lò cò, nhảy bao…, những trò chơi
đang hiếm dần. Hình như bây giờ trò chơi Quay
như con vụ chẳng còn trẻ em nào
chơi nữa.
Đến
với phòng tranh của chú Lê Ký Thương, chúng mình như được bay trong một con tàu
siêu ánh sáng trở ngược về quá khứ, như thấy mình cũng đang là những chú nhóc
tinh nghịch của ngày xa xưa. Trở lại trò Thử
thách đi cà kheo, nhảy lò cò, bịt mắt bắt dê, đóng “vai diễn” hát tuồng đời
con nít.
Ở
chú Lê Ký Thương, cái tình thơ ấu của thời đã qua cũng bùng lên dữ dội. Trong
mơ tôi thấy mình là diễn viên xiếc, Ngày thôi nôi, Nhớ ngoại. Ngày thôi nôi kỷ
niệm một năm tuổi đầu đầu đời, để dự đoán tương lai con sau này ra sao, người
ta bày cho nó đủ thứ bá ban thập vật: cái kéo, cục xôi, cái lược, cái kèn, cuốn
sổ, cây bút… để xem con chọn món gì hầu đoán mai sau cái nghề của nó, cuộc đời
của nó. Ở Nhớ ngoại, tranh như một khúc hát ngậm ngùi về dấu chân xưa, về chiếc
lá vàng úa cuối mùa Thu tuổi ngoại.
Tròi chơi trời cho mang dậm sắc màu dân
tộc những chốn quê hương điền dã bình dị. Đó là cuộc quay về của những mái đầu
bạc trở lại những những giấc mơ xưa của trẻ thơ.
TRƯƠNG ĐẠM THỦY
Tuần báo GIÁC NGỘ số 76, ngày 11-7-2001
Thủ bút và chữ ký của Nghê Dũ Lan (Lê Anh Dũng)
Mr. McLeod chụp chung với họa sĩ trước bức Thôi nôi
Thư của ông Mark W. McLeod. PhD. và bà Nguyễn Thị Diệu cám ơn về bức tranh "làm vui cả nhà".
Thủ bút của Họa sĩ Rừng
Thủ bút của Họa sĩ Huỳnh Phương Đông
Với Họa sĩ Huỳnh Phương Đông
Mr. McLeod chụp chung với họa sĩ trước bức Thôi nôi
Thư của ông Mark W. McLeod. PhD. và bà Nguyễn Thị Diệu cám ơn về bức tranh "làm vui cả nhà".
Thủ bút của Họa sĩ Rừng
Thủ bút của Họa sĩ Huỳnh Phương Đông
Với Họa sĩ Huỳnh Phương Đông

Thủ bút của Luật sư Lê Công Định
Thủ bút của Nhà thơ Inrasara.

Thủ bút của Họa sĩ Đinh Cường
Với Họa sĩ Đinh Cường và Họa sĩ Bửu Chỉ.
Thủ bút của Lữ Kiều
Với Lữ Kiều
Nhà thơ Kim Tuấn - người đứng ngoài cùng, bên phải.
Thủ bút của Nhà văn Trần Duy Phiên
Trần Duy Phiên đang chăm chú ngắm bức "Mừng rỡ".
Thủ bút của Nhà văn Phan Triều Hải.
2007: TRIỂN LÃM CÁ NHÂN TẠI GALLERY TỰ DO,
53 HỒ TÙNG MẬU, Q. 1.
TỰ BẠCH: NHƯ
CÓ NHƯ KHÔNG
Những
đường nét này những màu sắc này như một dòng chảy liên tục hiện, liên tục mất
không những ngay trong giây phút này mà từ vô lượng kiếp như có như không.
Hạnh
phúc thay! Cơ duyên hội đủ để thành hình hài.
Và
cũng hạnh phúc thay! Cơ duyên hội đủ để cùng gặp nhau.
Khi
vẽ tôi về với tôi
Và
rồi tôi quên tôi.
AS
BEING AS NONBEING
As being as nonbeing these strokes and these colours
seem like a current that unintermittently appears and unintermittently
disappears not only at the very moment but also in innumerable kalpas...
How happy it is! Essential conditions have been
satisfied for creating art painting
And how happy it is! Essential conditions have been
satisfied for getting together
While painting I am returning to myself
And then I forget myself...
HỌ NHÀ CÓC
Với hình
hài xấu xí, cóc bị người khinh rẻ. Người vì lợi ích cá nhân ăn thịt cóc, thờ
cóc, còn tôn vinh “con cóc là cậu ông Trời”! Riêng tôi, ở một kiếp nào đó, kiếp
này mượn hình hài cóc để nói về mình.
THE
TOADS
In ugly appearance, toads are despised. For self-interest, man eats,
worships, and even honours them as “God’s uncles”! Personally, I borrow toads’
figures to narrate myself in this kalpa because I used to be a toad in a
certain former one.
LÊ KÝ THƯƠNG – TRANH VÀ CÓC
Không có vẻ
“sỉ”, ăn mặc xuềnh xoàng, Lê Ký Thương ngồi ở quán Du Miên với đám đông người đương
đại càng nổi bật như một kẻ đã quá thời. Ông có dáng dấp của một thấy ký dễ thương,
đúng với cái tên. Nhiều người đã rất quen với những bức sơn dầu trong loạt
tranh Ký ức tuổi thơ. Cuộc triển lãm tác phẩm của Lê Ký Thương tại phòng tranh
Tự Do (khai mạc 14-10-2007) hơi lạ lẫm về sự thay đổi.
Nhưng hãy nghe họa sĩ nói về đầu đời vẽ của mình…
LKT: Cha tôi là một nhà nho, chữ đẹp. Thường khi người
ta đến nhờ ông viết sớ thì ông bắt tôi mài mực. Cầm thỏi mực to đùng, cứng ngắc,
mài cả tiếng đồng hồ rất mỏi tay và chán nản. Bù lại, tôi được xem ông múa bút
và rất thích thú với đường nét bay lượn của những con chữ. Ý thức hội họa về của
tôi có lẽ bắt nguồn từ những giờ phút mệt mỏi và thú vị ấy...
PV: Ký ức tuổi thơ cũng nảy sinh từ ấy?
-
Không. Ở nhà tôi luôn bị kèm cặp học hành. Chỉ có một thời gian dài ở với bà
ngoại, tôi mới được gần đám bạn bè chăn bò, lội sông, thả diều và các trò chơi
lêu lỏng… Thời gian không dài, chỉ quảng hai năm nhưng đã thành những kỷ niệm
ăn sâu vào tiềm thức để sau này thành tác phẩm…
Tự
học vẽ?
-
Mê vẽ ngay từ ngày mài mực. Cha tôi cũng tạo điều kiện, mua bút mực màu mè cho
vẽ. Về sau, thư pháp Trung Quốc, Nhật Bản cũng ảnh hưởng rất nhiều đến nghề vẽ
của tôi. Tôi cũng cám ơn thầy dạy vẽ những năm học cấp II. Bốn năm trời với những
tiết vẽ hàng tuần, tôi có được những kiến thức cơ bản. Tôi cũng thích văn chương,
thơ phú, sau này gặp được Nhóm Ý Thức – chuyện vẽ của tôi cũng được phát triển
nhờ tham gia nhóm này!
Tôi nhìn thấy sự thay đổi khá rõ: từ Ký ức tuổi thơ
ông đã “nhảy” sang Phật, sang Thiền. Dùng nhiều ẩn dụ. Màu đỏ rực rỡ và những
màu nguyên của ông đã biến mất để màu trắng pha loãng tất cả. Về hình, ông đã
nhập trường phái “tối giản”… Có chuyện gì xảy ra vậy?
- Tôi có một cuốn sách hội họa Pháp rất cũ, từ 50
năm trước, mối ăn nhiều trang. Có một trang bị mối gặm nhắm thành hình một
nhánh cây khô, cũng giống một nhánh hoa. Thế là trong tôi nảy sinh ý tưởng cho
bức tranh Lộc giao thừa mà tôi đã dùng làm bìa vựng tập triển lãm… Tiếp theo là
những bức Hoa nhật thực, Hoa nguyệt thực, Trăng mơ, Ấn tượng đồng bằng… theo
cùng một lối vẽ.
Phong
cách “Mối ăn” đã thành “Tối giản”. Thế còn ông Bồ đề Đạt ma?
-
Vâng, bức Đến và Đi lấy cảm hứng từ vị tổ sư Thiền học, ngồi diện bích chín
năm, ra đi chỉ có một chiếc dép. Quả thật tôi thích nghiên cứu Phật học, Thiền
học, thích thơ Haiku, trà đạo… Tôi vẽ loại tranh này để thể hiện tâm tưởng…
Bình thường tôi thích sự giản dị, hiền hòa, không muốn có sự rắc rối thế sự…
Ông
cũng phải nói về mớ gốm mỹ thuật Họ nhà Cóc chứ. Tại sao là cóc mà không phải
là ngựa, chó, mèo?
-
Lại phải trở về Ký ức tuổi thơ: Bọn
trẻ con chúng tôi ngày ấy có hôm bắt được một con cóc, cho cóc ngậm thuốc lá.
Thế là cóc say thuốc, quay mòng mòng. Chúng tôi được một bữa cười thỏa thích.
Ngẫm lại thấy có tội trong việc hành hạ một sinh vật. Hình ảnh ấy chẳng khác gì
những kẻ thủ ác đối với con người… Năm nay tôi đã ngoài 60 mà vẫn ám ảnh đến
chuyện đó. Tôi bày Họ nhà Cóc để xin được xá tội. Vả lại tôi cũng thích một câu
dân gian “Cóc cắn ba năm trời gầm mới nhả” – sự quyết liệt trong một hành động
mà tôi luôn phải học tập…
PHAN
VŨ
Doanh nhân cuối tuần, 21-10-2007
DIỄM CHI
CÕI AN NHIÊN
Hơn 30 năm cầm cọ, nhiều cuộc
triển lãm cá nhân và nhóm, họa sĩ Lê Ký Thương vẫn mê thích chất liệu sơn dầu
và tranh đậm chất thơ ngây khi trở về với những “Kỷ ức tuổi thơ”. Lần này, với
20 bức tranh sơn dầu chủ đề “Như có như không”, nhưng Lê Ký Thương đã gây bất
ngờ thú vị cho người xem tranh anh. Anh đã vẽ với một phong cách mới: cả đường
nét lẫn màu sắc đều tinh giản tối đa, không còn là những màu nguyên rực rỡ mà
là một màu trắng pha loãng với đôi nét chấm phá tinh tế.
Những bức tranh mang tính huyễn
mộng, ẩn dụ, phảng phất tư tưởng Thiền và Lão Trang nhưng vẫn rất đời và gần
gũi, dễ cảm đối với người xem: Hoa nhật
thực, Cây trong mơ, Biển no trăng, Chuồn chuồn trong mơ, Đi và Đến, Thí pháp,
Khát, Nhẹ tựa lông hồng, Sương cũng là kinh… Sử dụng chất liệu phương Tây
để diễn đạt tinh thần phương Đông, tranh sơn dầu Lê Ký Thương đẹp nhẹ nhàng
thanh thoát và tạo được một không gian mở để người thưởng ngoạn tự do cảm nhận…
“Khi vẽ, tôi về với tôi. Và rồi tôi quên tôi…”. Đúng như lời tự bạch ấy, khi vẽ
Lê Ký Thương đã trở về với nội tâm của mình và anh đã tìm thấy một cõi an nhiên
để từ đó “những đường nét, những sắc màu như một dòng chảy liên tục hiện ra,
liên tục mất đi như có như không…”
Một mảng khác trong cuộc triển
lãm này là 20 tác phẩm gốm mỹ thuật, trong đó 16 tác phẩm tập trung đề tài “Họ
nhà Cóc”. Với màu men xanh da lươn điểm trắng và tạo hình mang phong cách dân
gian, những con cóc đã hiện hình thật gần gũi, thân quen và cũng rất hóm hỉnh: Nụ hôn, Lực sĩ Cóc, Hoàng tử Cóc, Bài thơ
con cóc, Đệ tử Lưu Linh, Có lười, Trạng Cóc, Cóc thổi kèn… Lê Ký Thương
giải thích vì sao anh lại chọn con cóc làm đề tài cho những tác phẩm gốm của
mình: “Con cóc mang hình hài xấu xí nhưng hiền lành và quyết liệt. Tôi thấy
mình cũng giống cóc ở những điểm này. Có lẽ ở một kiếp nào đó tôi là cóc, kiếp
này mượn hình hài cóc để nói về mình… Ngoài ra, tôi vẫn bị ám ảnh vì một lần
thuở còn con nít đã cùng với lũ bạn hành tội một con cóc: bắt ngậm thuốc lá
khiến nó say thuốc, quay mòng mòng… Lúc đó, tôi và lũ bạn cười thỏa thích nhưng
về sau ngẫm lại thấy mình thật ác. Chọn cóc làm đề tài cũng là một cách chuộc
lỗi với cóc…”
Với tranh cũng như gốm, Lê Ký
Thương đã “tôi về với tôi”. Sự trở về an nhiên đó đã tạo nên cái đẹp cuốn hút
và rung cảm người xem.
DIỄM CHI
Phụ nữ Chủ nhật,
21-10-2007.
“TÔI VỀ VỚI TÔI”
TRẦN NHÃ THỤY
THUY NGUYEN
THE ARTIST’S WORDS
ĐỖ HỒNG NGỌC
XEM TRANH LẠY TẠ CỦA LÊ KÝ THƯƠNG
“TÔI VỀ VỚI TÔI”
Người nghệ sĩ sau những chặng
đường tìm kiếm, khám phá là chặng quay về. Trở lại chứ không phải dừng lại theo
nghĩa nghỉ ngơi, mà là tìm về khám phá thế giới nội tâm của chính mình. Sự khám
phá cái tôi cũng không phải lần đầu tiên, mà lần đầu tiên không vọng động, bung
xung… Âm thầm “tôi về với tôi” một cách triệt để. Nhưng cũng không phải là đã
tìm ra chân lý, hay cái gì đó to tát cả, Lê Ký Thương tự sự: “Khi vẽ tôi về với
tôi. Và rồi tôi quên tôi”… Nhớ và quên, có và không, “như có như không” là
những ý niệm đời sống gắn kết với tác phẩm hội họa được được họa sĩ Lê Ký
Thương trình bày khá ấn tượng trong triển lãm lần này.
Với khoảng 20 bức tranh sơn dầu,
19 tượng gốm men xanh chủ đề “Họ nhà Cóc”, “Mèo và chuột” triển lãm của Lê Ký
Thương thoạt qua tưởng như một cuộc chơi kỳ khu, ngẫu hứng. Nhưng không hẳn
vậy, cả tranh sơn dầu và gốm mỹ thuật là cả một sự ám ảnh khôn nguôi về “hình
hài cóc” của chính ông. Những con cóc bị bắt làm “tù binh” ngậm điếu thuốc cháy
đỏ say mòng mòng, xung quanh những tiềng hò reo tuổi thơ là nỗi ám ảnh có thật.
Khi hiểu được thiện ác thì giật mình về những lỗi lầm không cứu vẫn. Nhưng con
cóc trong hội họa của Lê Ký Thương cũng không phải là hình ảnh mang tính biểu
tượng gì cả, mà nó như một đối tượng để người họa sĩ trình bày cảm xúc và mở ra
cuộc đối thoại từ tâm, như một dạng công án thiền mà bức tranh Sương cũng là kinh là một minh chứng.
Tranh của Lê Ký Thương có thể nói
ngắn gọn một từ: đẹp. Với tay nghề vững vàng công với sự lĩnh hội kỹ thuật hội
họa phương Tây nhuần nhuyễn, tranh của ông tạo
nên sức hút thị giác khá mạnh. Tuy sử dụng kỹ thuật và chất liệu phương Tây,
nhưng tranh Lê Ký Thương lại thể hiện tinh thần phương Đông. Từ đề tài đến cách
sử dụng màu sắc với những đường nét tinh giản khiến tác phẩm trở nên gần gũi,
có hồn. Gần gũi với cả huyễn mộng, như: Cây
trong mơ, Chuồn chuồn trong mơ, Trăng mơ… Gần gũi với cả ký ức xa xăm, như:
Mưa tháng Năm, Chờ ngày bạn chào đời, Gởi
thiên thần… Gần gũi với cả những chú cóc xấu xí, như: Thí pháp, Khát, Sương cũng là kinh…
Còn những tượng gốm men xanh “Họ
nhà Cóc”, có thể nói Lê Ký Thương khiến người xem thật sự thú vị trước một cuộc
chơi ngẫu hứng trong một “thế giới cóc” xùi xì mà lấp lánh sự thân thương. Hoàn
toàn không có ý “làm khó” người thưởng ngoạn, họa sĩ Lê Ký Thương trình bày tác
phẩm với tất cả sự giản dị, để mọi người có thể nghĩ: “Như thế này thì tôi làm
cũng được”.
TRẦN NHÃ THỤY
Tuổi trẻ chủ nhật, 14-10-2007.
LE KY THUONG’ART WORKS ON SHOW IN
TOWN
An exhibition featuring two
collections of oil paintings and pottery by artist Le Ky Thuong will be on
display until October 27 at the Tu Do Gallery, 53 Ho Tung Mau Street, District 1.
The theme of the painting
collection is called, “As Being as Non Being”, while the pottery on display is
named “The Toads”.
Thuong uses oil mixed with an
Asian style of painting and calligraphy from China
and Japan
in his colletion. Using minimum strokes and colors, the artist is able to
express a very Asian and Zen spirit. Pieces such as “Enso”, “Donate Dharma”, “A
dew is Sultra” and “Arrive and Go Away”
highlight this Zen style of art.
Thuong entiled his painting
collection “As Being as Non Being” because he believes that the strokes and the
colors in the paintings are likea current that intermittently appears and
disappears not onlyat the pesent moment, but also in innumerable kalpas
(incarnations) and while he paints, he returns himself and then forget himelf.
Thuong’s collection of pottery
consists of hand-made green enamel ceramic statues of toads from folk tales
such as the “Prince Toad”, Toads in a Vietnam eclogue, village herald
toad and toad playing first dotoral cadidate under feudal dynasty.
The toads depict closeness, humor
and folk art.
With his collection of toad
statues, Thuong want to burrow the toans’s figures, despite being ugly and man
eats, worships and honors them as “Good’s uncle” in Vietnamesse folk art, to
narrate himself in this kalpa “because I used to be a toad in former one”.
Artist Le Ky Thuong was born in
Nha Trang and a member of the Fine Art Association of Vietnam and of HCMC. He
had showcased three solo exbihitions and two group exbihitions in Vietname.
THUY NGUYEN
The Saigon
Times Daily – Tuestday, Oct. 16, 2007.
“TÔI CẦM TINH CON CÓC”
Như có như không
Họa sĩ Lê Ký Thương sinh năm 1946 tại Nha Trang
– Khánh Hòa, hiện sống trong một con hẻm ở quận Phú Nhuận – TP.HCM. Ông có
triểm lãm tranh cá nhân khá sớm, năm 1974 tranh của ông đã bày tại Trung tâm
Văn hóa Pháp (Đà Lạt). Nhưng mãi đến mấy chục năm sau ông mới xuất hiện trở lại
bằng cuộc triển lãm chung với Thân Trọng Minh (1998), với Rừng, Trường Thìn, Hồ
Thanh, Thân Trọng Minh (1999), năm 2001 ông triển lãm cá nhân đầu tiên (tất cả
đều ở Gallery Tự Do) sau mấy chục năm im lặng để sáng tác. Và nay là Như có như không và Họ nhà Cóc.
Như có như không gồm 20 tác phẩm được diễn đạt bằng
nhiều gam màu thể hiện những cung bậc cảm xúc khác nhau. Nhưng cảm giác của
người xem mách bảo rằng: “Tất cả nhẹ nhàng nhưng mảng màu và đường nét vẫn cứ
đeo bám xung quanh như gió như sương”. Họa sĩ Lê Ký Thương không có ý định làm
triết lý, song như cách tự bạch đầy chất thơ: “Những đường nét này những sắc
màu này như một dòng chảy liên tục, hiện ra và mất đi không những ngay trong giây
phút này mà từ vô lượng kiếp như có như không... Hạnh phúc thay! Cơ duyên hội đủ để thành hình hài. Và hạnh phúc thay!
Cơ duyên hội đủ để cùng gặp nhau. Khi vẽ tôi về với tôi. Và tôi quên tôi...
Có lẽ khi viết những dòng tự bạch trên, họa sĩ
Lê Ký Thương đã hoàn thành xong mảng màu cuối cùng cho bức tranh cuối cùng cho
triển lãm. Bởi theo nhưng gì ông nhìn lại một chặng đường công việc vừa qua,
thể hiện rằng khi ông cầm cọ thì giữa ông và sự sáng tạo hòa làm một. Người
nghệ sĩ và tác phẩm đang hiện hữu đấy nhưng cũng biến mất trong dòng chảy liên
tục của cuộc sống. Nhẹ nhàng như có như không.
Vinh danh Họ nhà Cóc
Nhiều người hỏi họa sĩ Lê Ký Thương sao ông lại
dùng gốm nặn thành hình hài con cóc? Ông trả lời rằng: “Vình hài xấu xí, con
cóc bị người đời khinh rẻ. Người đời lại vì lợi ích cá nhân ăn thịt cóc, thờ
cóc, còn tôn vinh “con cóc là cậu ông trời”! Riêng tôi, ở một kiếp nào đó tôi
là cóc, kiếp này mượn hình hài cóc để nói về mình”.
Vậy họa sĩ Lê Ký Thương đã “nói về mình” như
thế nào thông qua hình tượng con cóc? Xem 16 tác phẩm “gốm cóc” của ông, thấy
rằng cóc hóa thân thành nhiều hình hài đã được dân gian “phong” cho. Lúc thì
cóc làm hoàng tử, lúc làm quan trạng, lúc đánh trống thổi kèn, lúc say rượu. Bài thơ con cóc (con cóc trong hang/con
cóc nhảy ra/con cóc nhảy ra/con cóc ngồi đó/ con cóc ngồi đó/con cóc nhảy đi)
có người bằng lập luận của mình bảo đây là bài thơ hay nhất Việt Nam, nhưng
nhiều người lại ví những bài thơ tệ nhất trần đời là thơ... con cóc?!
Những vinh quang và bất hạnh của con cóc nào có
liên quan gì đến con người đâu nhỉ? Vậy mà có đấy! Họa sĩ Lê Ký Thương bất giác
hỏi tôi: “Cậu sống ở nông thôn hay thành phố?”. Câu hỏi của ông cũng chính là
câu trả lời cho phần đông người dân sống ở nông thôn nước ta. Con cóc quen thuộc
đến độ, hiền lành đến độ dù được dân gian gán ghép cho bất kỳ hình tượng, địa
vị xã hội nào cũng muốn gởi gắm những yêu thương, mơ ước của lớp người cần lao
chân lấm tay bùn. Vậy là cóc chưa bao giờ xấu xí dù làm quan trạng hay “ngồi
đáy giếng”, cóc chỉ là “cái cớ” để người nhắc nhở người về sự hiện diện của cái
đẹp trong lớp vỏ xù xì. Và cóc của họa sĩ Lê Ký Thương cũng vậy!
Thi sĩ Lê Ký Thương
Họa sĩ mãi mãi là công việc và niềm yêu thích
của Lê Ký Thương, nhưng ông được biết đến nhiều với danh xưng nhà thơ. Trước
năm 1975, tên tuổi Lê Ký Thương gắn liền với nhiều bài thơ tranh đấu (...). Tác
phẩm hội họa của Lê Ký Thương vì vậy mà nhuốm màu thi ca. Sau năm 1975, Lê Ký
Thương về sống tại Nha Trang và bạn bè của ông tại thành phố biển này đa phần
là các nhà thơ. Có thể thấy rõ điều đó trong hai tự bạch Như có như không và Họ nhà Cóc của ông ở trên.
Tiếp xúc với nhiều người làm nghệ thuật thế hệ
Lê Ký Thương, tôi thấy rằng thế hệ ông lãng mạn một cách “nhỏ nhẹ, hiền lành”
chứ không như thế hệ của tôi hoặc trước đó một chút “ồn ào và giậm dựt”. Những
tranh, những gốm của ông làm lặng lẽ cho đến ngày triển lãm chứ không tuyên bố
tác phẩm sẽ như thế này thế nọ như một vài cây bút trẻ vẫn hay to giọng như bây
giờ. Im lặng sáng tạo là vậy, nhưng công việc vẫn chưa thỏa ý mình. Họa sĩ Lê
Ký Thương dự tính làm 100 tượng gốm về cóc nhưng vì ngoại cảnh tác động nên ông
chỉ mới hoàn thành được 16 bộ gốm cóc. Không thể hình dung ra một người đàn ông
ngoài 60 tuổi, ngồi “nghịch đất” nặn “cóc cọt” thay vì như thường thấy họa sĩ
phải dựng tượng đài. Phải chăng đó cũng là một hành động mà chỉ có ở nhựng tâm
hồn thi sĩ, ông muốn dựng “tượng đài” cóc mang “gương mặt” của mình chăng?
TRẦN HOÀNG NHÂN
Thủ bút: Hồ Thanh Ngạn và Nguyễn Thị Dung.
Thủ bút của họa sĩ Lê Triều Điển.
Thủ bút của Bùi Minh Sơn, Nguyễn Trọng Chức và Huỳnh Như Phương.
Thủ bút của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu.
Thủ bút của Tôn Nữ Thu Thủy.
Thủ bút của nhà văn nữ Liêm Trinh.
Thủ bút của nhà thơ Võ Quê (Huế).
Thủ bút của nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng.
2009: TRIỂN LÃM CÁ NHÂN TẠI GALLERY TỰ DO,
53 HỒ TÙNG MẬU, Q. 1.
TỰ BẠCH - 2009
Mỗi ngày tôi tập Thiền bằng
cách vẽ, giống như người ta ngồi Thiền. Đơn giản vậy thôi. Tôi vẽ để tìm về Tâm
tôi. Tâm là Nhà. Tôi tìm về Nhà tôi sau bao năm lưu lạc. Tôi tìm về Nhà tôi như
con nhái bén trong ao sen trong một sát-na bất
chợt nhận ra Nhà mình không phải là chiếc lá sen quen thuộc mà chính là đóa
Hoa Sen trước mặt, mà lâu nay không nhận ra vì mải mê mờ vui chơi, nên mạnh dạn
quay về.
Quay về nhà mình để được bình
an.
Bất chợt như Thiền sư – họa
sĩ Hakuin Ekaku (1686-1768), một trong
ba cột trụ Thiền Nhật Bản, một hôm đi khất thực, đến trước một căn nhà, không
nghe tiếng quát tháo xua đuổi từ bên trong vọng ra, vì tâm ý đang ngập tràn
chuyện sống chết của một kiếp người. Người chủ ngôi nhà là một bà lão, thấy Sư
cứ đứng lì một chỗ như bị trời trồng, bèn lấy cây chổi tre đánh vào đầu Sư. Sư
bất tỉnh. Và khi Sư tỉnh dậy thì tất cả các công án Thiền đã hành hạ tâm ý Sư
lâu nay bỗng bừng sáng. Sư vui mừng hét lên vì đã Ngộ. Nhiều năm sau, Hakuin đã
vẽ một cây chổi tre với phụ đề: “Đây là cây chổi đã quét sạch những thứ giác
ngộ rẻ tiền!”.
Xúc cảm tận tâm can về câu
chuyện Thiền này, tôi đã vẽ bức tranh Lạy
tạ I.
Lại bất chợt vào một buổi
sáng, ngồi trong phòng làm việc nhìn ra khoảng sân rộng có cây phong ba trước
mặt, tôi thấy chiếc lá khô đang rơi, không cưỡng lại được cảm xúc của mình, tôi
liền cầm bút nguệch ngoặc vài nét và viết:
“Lạy tạ lá khô rơi
Chết vui cho cành nẩy lộc”. (Tranh
Lạy tạ II)
Tôi không chọn trước chủ đề
cho phòng tranh này. Chủ đề đến với tôi một cách tự nhiên như nó vốn có trong
cuộc sống. Đơn giản vậy thôi.
LÊ KÝ THƯƠNG
9-2009
THE ARTIST’S WORDS
Every day, I practise Zen by
painting like those who practise Zen with sitting meditation. That’s simple!
Painting is a means to come back to my Mind.
My Mind is my final destination. After years of
wandering around, now I come to my final
destination like a small frog living in a lotus pond, which finds out suddenly in a ksana that its Home is not the familiar lotus leaf
but the lotus flower blooming in front of it. Being attracted by delusional
pleasures, the small creature has never realized this fact, so now it decides
to go Home with determination. Home is a place of peace.
All this happens unexpectedly
as in the case of the Zen master – artist painter Hakuin Ekaku (1686 – 1768),
one of three pillars of Japanese Zen. One day on his way to mendicate, he stood
still in front of a house, not hearing the loud yells to drive him away, as his
mind was overwhelmed by the vital questions of humanity. Seeing him still
standing quite motionless, the owner of the house quickly hit him unconscious
with a bamboo broom. When he recovered, all the koans that the Zen master had
been working hard on for a long time became clear to him. He attained
Enlightenment at once, and he yelled with delight. Many years later, Hakuin
painted a bamboo broom with a legend: “This is the broom that swept away all
cheap enlightened experiences.”
Being affected deeply by this
Zen story, I painted Prostrating to give
thanks I.
One morning another
unexpected moment came to me while I was in my office. Looking out at the large garden where stands
a tropical almond tree, then I saw a dead leaf falling. I couldn’t hold in my
emotion, so I sketched it on a piece of paper right away, and wrote:
“Prostrating to give thanks
to a falling leaf
That happily died for its
branch to bud”.
(Painting: Prostrating to give thanks II)
I didn’t choose in advance
the subject for this paintings exhibition. It comes to me naturally, as it is in real life. That’s simple!
LE KY THUONG
Sept. 2009
Hình như Lê Ký Thương bị ám ảnh
bởi một búp sen. Có lẽ từ những ngày còn thơ anh đã nghêu ngao Trong đầm gì đẹp bằng sen / Lá xanh bông
trắng lại chen nhụy vàng… Thế rồi khi dấn bước vào đời anh đã quên bài học
ngày xưa, mải mê tìm kiếm một búp sen rực rỡ hào quang ở cuối chân trời nọ, cho
đến một hôm giật mình ngó lại: thì ra cái lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
kia rốt cuộc chỉ là nhụy vàng bông trắng lá xanh đó thôi. Mà chợt ngộ một điều
cốt lõi: gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi
bùn!
Và vậy đó, khi đã biết, đã “tri
kiến” thì người ta chỉ còn mỗi cách sụp lạy cúi đầu (Quách Thoại)… trước một
điều “bất khả thuyết”. Nó vậy đó. Nó như thị. Nó như lai. Lá xanh bông trắng
lại chen nhụy vàng lăng xăng vậy cũng chỉ để rồi nhụy vàng bông trắng lá xanh… thôi.
Đừng tìm đâu cho mất công. Gia trung hữu bảo hưu tầm mích. Cái đóa sen đó cứ
xòe ra rồi khép lại, khép lại rồi xòe, từ nghìn xưa cũ, đóa sen của thiên thu
lung linh giữa gió và nước, như tủm tỉm cười, tỏa ngát hương thơm… Nó tuyệt vời
bởi nó giản đơn, nó chung thủy, nó chẳng vì ai để tỏa hương nhưng cũng đủ làm
cho cái mùi bùn kia trở nên nhu mì, yểu điệu…
Đóa sen giúp người họa sĩ từng
bước trong hành trình khai thị nhập ngộ đó vậy. Khai là mở, là xòe ra cho thấy,
thấy để biết, biết để ngộ và ngộ để nhập. Nếu ngộ là sửng sốt, giật mình, thì
nhập lại là lặng thinh, cúi đầu, lạy tạ.
Tạ chiếc lá rơi, bởi lá rơi là
nguồn sống. Tạ cây chổi chà, bởi chổi chà là quét tước, dọn mình. Tạ bù nhìn,
bởi bù nhìn nhắc nhở thuở ra sân khấu không làm rộn (Ưng Bình). Tạ chén cơm
manh áo, bởi to be or not to be. Tạ con đò bởi đáo bỉ ngạn…
Lúc đầu tôi hơi dị ứng nhưng sau
thì tôi hiểu. Tôi hiểu nỗi ám ảnh của chàng ngày xưa, nỗi ú ớ nói không được
của chàng hôm nay. Cái hình ảnh cúi đầu lạy tạ lặp đi lặp lại là cả một cuộc
hành trình ra đi và quay về. Đúng vậy. Phải lạy tạ ngàn lần búp sen để búp sen
khai thị, mở ra điều kỳ bí, như chàng Đoàn Dự si tình kia sụp lạy ngàn lần
trước tượng giai nhâ “thần tiên nương tử”(Kim Dung) trong thạch động của núi đá
Vô lượng ngày nào.
Nhưng khai thị là để ngộ nhập.
Nhập về đâu? Về Như Lai, dĩ nhiên. Nhưng không chỉ có vậy. Nhập còn nhập thế.
Đóa sen không chỉ nhập vào Như Lai mà còn nhập vào bùn! Gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn. Lê Ký Thương hình như đang trên con đường của sự trở về đó. May
thay, chàng còn có những phút giây bên giá vẽ. Ở đó chàng có thể trộn nhụy vàng
với bông trắng là xanh…
ĐỖ HỒNG NGỌC
Phòng tranh của Lê Ký Thương,
2009.
Bán nguyệt san Văn hóa Phật giáo, 15-10-2009
Bán nguyệt san Văn hóa Phật giáo, 15-10-2009
XEM TRANH LẠY TẠ CỦA LÊ KÝ THƯƠNG
Qua sông, sơn dầu, 65cm x 80cm.
Có người bảo Lê Ký Thương có dáng dấp của một người thầy dễ
thương, rất thích hợp với cái tên. Thế nhưng ông không phải là một thầy ký. Ông
là một nghệ sĩ, có làm thơ, và có vẽ tranh. Kể ra thì người Việt Nam ai
mà chẳng là nhà thơ, và có mấy ai phải vào học trường làm thơ đâu? Nhưng hồi
cuối tháng Tư năm 2009, Lê Ký Thương có thơ sáng tác từ hồi 1968 được đăng
trong tuyển tập “Cùng một lứa bên trời lận đận”, cho thấy thơ của ông đã gây
được cảm xúc cho người đọc. Tuy nhiên, vẽ tranh hẳn phải có sự rèn luyện. Vậy
mà, mặc dù không xuất thân một trường lớp mỹ thuật nào, trong vài thập niên
qua, cũng có thể nói tranh của Lê Ký Thương đã trở nên gần gũi với người thưởng
ngoạn qua một số cuộc triển lãm, khi thì chung với một số họa sĩ khác, khi thì
“một mình một chợ”.
Trung tuần tháng Mười này, Lê Ký Thương lại cho bày những
bức tranh mới sáng tác tại phòng tranh Tự Do, 53 Hồ Tùng Mậu, quận Nhất, thành
phố Hồ Chí Minh, để giới thiệu với những người yêu thích tranh vẽ. Có vẻ như càng
đi sâu vào hội họa thì Lê Ký Thương lại càng đến gần với Thiền. Ông cho biết
mỗi ngày ông tập thiền bằng cách vẽ,
giống như người ta ngồi thiền. Phải chăng vì thế mà trong lúc bôi màu lên
bố, ông đã bất chợt ngộ được rằng con
nhái bén trong ao sen phải mạnh dạn lao tới đóa Hoa Sen trước mặt nó để quay về? Phải chăng ông cũng cảm thấy
xúc động mạnh bởi câu chuyện Bạch Ẩn bị một chổi vào đầu mà đạt tới trạng thái
“satori” nên ông đã cho vị thền sư cúi đầu lạy tạ chiếc chổi!
Quả thật, tranh của Lê Ký Thương đã gây được ấn tượng người
xem. Ông thích sử dụng một thứ ánh sáng khá lạ lẫm với bố cục rạch ròi. Có vẻ
như trong không gian tĩnh lặng của tâm, ông vẫn thể hiện cái động của thức, cho
thấy một cách khiêm tốn rằng mình chỉ là người đang tập thiền trong thế giới ta bà. Cái ngộ của ông chỉ đủ cho ông
đang nỗ lực quay về. Trên Đường về,
bên cạnh vị thiền sư như đã hòa vào cảnh giới thiên nhiên, con chó theo chân vị
thiền sư cho thấy vẫn còn có cuộc sống tinh khôi. Trong Thọ trai cũng vậy, vị thiền sư chia sẻ bát cơm tín thí của mình với
con chó thể hiện cuộc đời không chỉ ở trong cái ngã. Không gian bao la sương
khói trong Trầm tư trước khói lam chiều
cũng có những đốm lửa đốt đồng nơi tâm chưa định của kẻ trầm tư, muốn gạn hết những
lăng xăng của ý thức mà vẫn còn vọng tưởng.
Dù sao đi nữa, người xem tranh cua Lê Ký Thương cũng có được
một khoảnh khắc lắng động tâm thức. Không gian trầm mặc với những hình khối
tĩnh lặng miêu tả cảnh vật hay con người qua sự thể hiện của màu sắc nhợt nhạt
có tác dụng làm cho chuyển động như chậm lại. Ngay cả hình ảnh mạnh dạn quay về
của con nhái bén cũng là lững thững.
Khi được hỏi ông muốn gởi gắm những gì trong các tranh vẽ
của mình, Lê Ký Thương trả lời một cách hiền lành rằng ông nhận thấy rằng cuộc
đời đã có quá nhiều phiền trược và lại là người không kham nổi thế sự đa đoan,
ông chỉ muốn mang lại cho những người xem tranh của ông một vài giây phút thư
giãn. Tự nhận có chịu ảnh hưởng của thư pháp và họa pháp của Trung Quốc và Nhật
Bản, Lê Ký Thương mong mỏi thể hiện phần nào cái thần của thư họa của Trung –
Nhật bằng vải bố và sơn dầu. Ông cũng cho biết ý thức về hội họa của ông có lẽ
đã nảy nở từ những giờ phúp mệt mỏi và thú vị khi mài mực tàu cho ông bố viết
chữ Nho đẹp mỗi khi cụ viết sớ đối cho người khác đến nhờ, lúc Lê Ký Thương còn
là một chú học trò tiểu học.
Là một người thích nghiên cứu về Phật học, Thiền học, thích
thơ haiku, thích trà đạo, Lê Ký Thương đã đưa vào thơ và họa của mình chất liệu
của những gì mà ông thích. Một người khi mới ngoài hai mươi tuổi đã nhắn với
bạn bè “Một mai tôi chết giữa rừng / Các
anh mở tiệc ăn mừng hộ tôi” thì có lẽ
mỗi cuộc triễn lãm của Lê Ký Thương, năm nay đã ở cái tuổi nhĩ thuận, đều là một khoản “hời” của ông trong lúc ông còn ở lại
nơi “tưởng là cõi thật”. Có phải vì thế mà ông lạy tạ chăng?
CHU ĐẰNG GIANG
Bán nguyệt san Văn hóa Phật giáo, 15-10-2009
CHÚT KỶ NIỆM VỚI HỌA SĨ LÊ KÝ THƯƠNG
XEM TRANH LÊ KÝ THƯƠNG
Đường về, sơn dầu, 100cm x 120cm
Họa sĩ Lê Ký Thương đã nhiều lần
triển lãm tranh , tiếc rằng tôi không có cơ hội xem , nên chẳng biết trước đó
họa sĩ vẽ theo khuynh hướng nào. Nhưg
lần này ( thứ 6) tôi dược xem thì rõ ràng Ký Thương đã Quay về…để tìm về Tâm, Tâm là Nhà sau bao năm lưu lạc ..Nôm na là
K.Thương đã vẽ theo khuynh hướng Thiền, phòng tranh bày ở 53 Hồ Tùng Mậu, quận I TP.HCM, mang chủ
đề “ Lạy Tạ” thuần thành như một hoa sĩ Thiền tông chân chính.
Ý hướng Thiền hay tranh mang tính chất thiền để dành cho
những người giác ngộ, những tu sĩ hay
phật tử rành vế Thiền luận bàn. Ở đây tôi chỉ là người thưởng ngoạn tự do, thử
múa rìu hoang qua mắt bao người, tìm hiểu tranh của Ký Thương vậy.
Tranh của Ký Thương như lời tự bạch
là Quay về …, nhưng với con mắt trần
của chúng ta thì cũng có thể nói là họa sĩ đã vẽ theo tinh thần hiện đại, nghĩa
là không vẽ những cảnh vật hay sự kiện ở
trước mắt , ở quanh ta mà biểu hiện những tình cảm nội tâm. Hay nói theo sách
vở nghệ thuật hiện đại là không phải diễn tả biểu hiện sự vật tầm thường mà là
sáng tạo, Họ cho ta xem cái gì mới mà trước đó chưa có, đúng hơn là họ tạo hình
thay vì phản ánh, nôm na là họ tạo ra
một thế giới màu sắc hình ảnh riêng cho họ mà cũng chính là cống hiến
cho mọi người. Thế giới đó mang tính thuần nghệ thuật, nó ẩn kín sâu xa, nó là chân lý, tìm hiểu tác phẩm là tìm cho ra cái chân lý, điều mà tác giả đã
gởi gắm vào đó trong khi sáng tác. Đó
cũng là thế giới sinh tồn của con người, nên
vô tình đã trở thành như một nhu
cầu thích tìm đến mà chúng ta không hay biết đó thôi. Chân lý không phải cái gì
sâu xa khó tìm, mà chính là trong cuộc sống
trong sinh hoạt tình cảm chúng ta; nó chỉ có thể biểu hiện qua màu sắc,
hình ảnh, âm thanh,v..v… nói chung là nghệ thuật.
Tranh của Ký Thương đã đạt được
phần nào những ước vọng mà tôi vừa phác họa. Trong tự bạch tác giả đã gợi ý
nghĩa của Lay tạ I , Lạy tạ II, và Quay về. Tôi xin thêm , Lạy tạ I như sơ
khởi của ý hướng giác ngộ, nhà sư Nhật
Bổn vẽ cái chỗi, còn đây tác giả lại lạy tạ cái chỗi nên người người
cũng như tôi không thích lắm, bởi dù sao nó chì là công cụ để quét, cái chỗi
đánh vào dầu mới là động tác hành vi quan trọng. Lạy tạ II mới đáng kể, từ động tác lạy, chiếc lá, cách bố cục
đến màu sắc của tranh rất độc đáo. Có thể nói nó là tiêu biểu cho ý hướng sáng
tác của Ký Thương trong kỳ triển lãm này: Nội dung súc tích chứa đựng trong một
hình thức cực kỳ đơn giản như một bầu trời an bình thanh thản. Hình (
dessin) không rườm mà ngây ngô như trẻ
thơ, riêng về màu thì có ba bức là Lạy tạ
II, Cúng dường và Nguồn thiền là tuyệt vời, công sức và tâm tư tác giả đã
đổ vào đó không biết là bao nhiêu. Sức sống
thần bí của Lạy tạ II nằm ở
trong khung màu của đất của nền trời,
còn hình trong Nguồn Thiền là sức sống sung mãn rạt rào, màu vừa mát vùa tươi,
có đối chọi nhưng rất hòa hài; đến bức Cúng dường phải nói là chua chát đắng
cay, chân lý ở đây như chập chờn khắp bức tranh, ý nghĩa biểu hiện của tranh
không nói ra mà chỉ phô bày, nhưng nó vẫn thoát ra ngoài sự biểu hiện, nó chứa
đựng cả nổi đau của tác giả, rõ nhất là
trong bức Đường về. Đất trời đỏ tươi, nhưng cái không gian hiện hữu trên
đường về sao mà u ám đến thế, chủ nhân hay tác giả đứng ỳ ra đó
với nỗi cô đơn, chỉ có con chó là bạn dồng hành hay đón mừng. Có đối chiếu với bức Quay về, mới thấy rõ, cùng
một tác giả mà hai trạng thái tâm hồn khác nhau. Cảm xúc của Quay về, tác giả
tự cho mình giống như con nhái giác ngộ…, tôi phàm tục nên nghĩ rằng cuộc sống
có giá trị và ý nghĩa là cuộc sống vượt lên trên phàm tục, cũng như cái ngã được xác định bởi bản chất vấn đề
tồn tại của nó {Le moi est déterminé par l’essence de sa problèmatique
existentielle – ai đã nói câu này tôi cũng chẳng nhớ). Nghệ thuật không thể
thoát ly cách biệt với cuộc sống, trái lại nó là cơ sở sinh hoạt chân thực đáng tin nhất.
Với tính cách một bài viết ngắn,
tôi chỉ tìm hiểu một số tranh của Ký Thương, dù không nhiều cũng đủ gợi ý để các bạn tự tìm có lẻ
thú hơn, ẩn ý của tác giả theo nhận định của riêng mình, chưa chắc ai đã là
đúng hơn ai… nhưng điều đó không quan trọng vì mỗi người có thể có những nhận xét khác nhau,
Riêng đối với chủ để của phòng
tranh là Lạy tạ cũng đúng thôi vì có đến 9 bức trong tổng số là 21 mang nhan đế
là Lạy tạ, trong khi những bức khác mang tên khác vẫn có hàm ý là Lạy tạ. Đây
chính là điểm tôi không tán đồng với tác giả , vì hành vi lạy tạ tỏ ra quá
khiêm nhường đến yếu đuối; một điểm nữa cũng nên nhắc nhở tác giả là trong 7
bức lạy tạ thì đã có đến 4 bức, hình dáng lạy tạ giống nhau. Nhưng nói như thế
có vẻ là cầu toàn quá chăng, thật ra nhìn chung phòng tranh vẫn đem lại
nhiều thành quả đáng xem.
KHỔNG ĐỨC
(Nguồn:
http//www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?...
Ngày 13 tháng 10 năm
2009).
TẠ ƠN NGƯỜI, TẠ ƠN ĐỜI
Dù
đến dù đi, tôi cũng xin tạ ơn người, tạ ơn đời…
Trịnh
Công Sơn
Với chủ đề “Lạy tạ”, phòng tranh
của họa sĩ – nhà thơ Lê Ký Thương mới đây tràn ngập một tình cảm biết ơn. Biết
ơn nhật nguyệt mỗi ngày soi chiếu. Biết ơn chiếc lá khô “chết vui cho cành nẩy
lộc ơn nhật nguyệt mỗi ngày soi chiếu. Biết ơn chiếc lá khô “chết vui cho cành
nẩy lộc ơn nhật nguyệt mỗi ngày soi chiếu. Biết ơn chiếc lá khô “chết vui cho
cành nẩy lộc ơn nhật nguyệt mỗi ngày soi chiếu. Biết ơn chiếc lá khô “chết vui
cho cành nẩy lộc ơn nhật nguyệt mỗi ngày soi chiếu. Biết ơn chiếc lá khô “chết
vui cho cành nẩy lộc. Biết ơn con bù nhìn canh lúa trên đồng vàng. Biết ơn
chiếc chổi tre làm sáng bừng tâm thức.
Vô ơn là nguồn gốc của mọi tội
lỗi trên đời này. Đứa con bất hiếu vì vô ơn. Người học trò bất nghĩa vì vô ơn.
Người cán bộ tham nhũng vì vô ơn với những người đã đào hàm cưu mang mình những
năm đen tối.
Kêu gọi tạ ơn là kêu gọi phản
tỉnh, là khơi gợi tính thiện của con người.
Sống trên đời là mang nợ, nợ hình
hài, nợ áo cơm, nợ kiến thức. Dẫu anh có giận hờn ai mà từ bỏ xã hội này ra đi
làm kiếp Robinson trên hoan đảo, anh vẫn mang theo tấm vải che thân mà đồng
loại đã dệt cho anh. Dẫu trên đảo hoang,
anh vất bỏ cả áo quần chỉ đóng khố bằng lá khô và vỏ cây, anh vẫn cần cái bật
lửa hay một que diêm để nhóm bếp sưởi ấm và nướng thịt thú rừng. Dẫu anh vất
luôn hộp diêm và bật lửa mà chỉ ghè hai hòn đá để làm ra lửa, thì điều đó chính
là nhân loại đã dạy cho anh, đâu phải tự anh nghĩ ra được.
Một số tộc người có tập quán rất
đẹp: trong ngày hợp hôn, hai người nam nữ chắp tay vái lạy cha mẹ rồi vái lạy
người phối ngẫu để tạ ơn nhau. Tạ ơn anh, tạ ơn em đã cho mình hạnh phúc này.
Tạ ơn cha mẹ đã ban phát hình hài này để bây giờ mình thuộc về nhau. Tạ ơn trời
đất đã se duyên cho mình gặp nhau dưới một mái nhà trên đường đời vạn dặm.
Phải chăng ta đang chứng kiến một
phần nhân loại vô ơn? Vô ơn nên mới phát thải khí nhà kính vào thiên nhiên một
cách vô tội vạ. Vô ơn nên mới ngăn dòng chảy của sông ngòi làm thủy điện khiến
nguồn cá cạn kiệt. Vô ơn nên mới chặt phá cây rừng bỏ vương vãi và trôi bạt
ngàn khi mùa lũ đến.
Lạy tạ là một cách đi ra khỏi con
người vị kỷ của mình, là hướng đến tha nhân và tạo vật. Nhưng đi xa mà cũng về
gần; qua phút cúi đầu lạy tạ, ta như bừng tỉnh về sự hiện hữu của chính mình, ý
thức trọn vẹn về thân phận, số kiếp và ý nghĩa của đời sống.
Không phải ngẫu nhiên mà Lê Ký
Thương cảm xúc một cách sâu sắc về câu chuyện của họa sĩ-thiền sư Hakuin Ekaku
(1686 – 1768), một trong ba cột trụ Thiền học Nhật Bản: “Một hôm Hakuin Ekaku
đi khất thực, đến tước một căn nhà, không nghe tiếng quát tháo xua đuổi từ bên
trong vọng ra, vì tâm ý đang tràn ngập chuyện sống chết của một kiếp người.
Người chủ ngôi nhà là một bà lão, thấy sư cứ đứng lì một chỗ như trời trồng,
bèn lấy cây chổi tre đánh vào đầu sư. Sư bất tỉnh. Và khi sư tỉnh dậy thì tất
cả các công án Thiền đã hành hạ tâm ý sư lâu nay bỗng bừng sáng. Sư vui mừng
hét lên vì đã ngộ”.
Du khách đến đất nước Triệu Voi
có những phút giây lắng đọng khi chiêm ngưỡng, trên một đường phố thanh bình
buổi sáng tinh mơ, những người dân lặng lẽ chờ sẵn để cùng dường cho đoàn sư
khất thực chân trần chầm chậm bước qua. Cúng dường đâu phải chỉ là cho, cúng
dường cũng chính là nhận, nhận những hạt giống thiện của lòng biết ơn gieo
xuống tâm thức mình. Như những hạt mầm rồi sẽ mọc lên cây xanh trong mùa xuân
đang tới.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG.
Nguyệt san Giác Ngộ, Xuân Canh Dần - 2010.
GIỮA SÀI GÒN
Tôi may mắn có dịp gặp gỡ và
cộng tác với nhiều tác giả tên tuổi, là đàn anh, đàn chị trên văn đàn; đối với
một người viết trẻ ở “ vùng sâu - vùng xa”như tôi, quả thật vinh dự. Cũng vì
được sự quan tâm đặc biệt đó từ quý bạn bè, thân hữu ở Sài Gòn, nên trong quá
trình chuẩn bị in GIẤU ANH VÀO CỎ XANH, tôi quyết định nhờ họa sĩ Lê Ký Thương
- một họa sĩ có tiếng ở TP.HCM vẽ bìa và trình bày tập thơ thứ hai này. Trong
hàng chục tập sách anh trình bày mà tôi đã có dịp xem qua, tôi ấn tượng nhất là
tập thơ chọn lọc NGUYÊN ĐÁN TÌNH YÊU - nhiều tác giả, do NXB Đồng Nai ấn hành
đầu năm 2004. Một tập thơ quá công phu và xinh xắn, nếu ai đã có dịp nhìn thấy,
không thể không thích được.
Bây giờ, tôi viết những dòng
này về họa sĩ Lê Ký Thương trong một tâm trạng ngậm ngùi, bởi sức khỏe anh đang
trong giai đoạn hết sức nguy kịch sau một cơn tai biến dẫn đến đột quỵ khi về
thăm quê nhà ở Nha Trang hồi cuối tuần trước. Tôi cứ nhớ mãi dáng đi nhanh nhẹn
của anh lúc hai anh em hẹn gặp nhau trong một quán cóc trên đường Lê Đại Hành
cắt Nguyễn Chí Thanh gần bệnh viện Chợ Rẫy khi tôi đưa ông bố đi SG tái khám để
anh giao bản thảo đã trình bày, bìa và film cho tôi. Khi gặp nhau, tôi nói với
anh là anh trình bày tập NGUYÊN ĐÁN TÌNH YÊU đẹp quá; anh bảo anh đã chẳng biết
Tết là gì khi phải vùi đầu vào tập sách đó cho kịp tiến độ của NXB. Vậy mà giờ
đây anh đã bị liệt nửa người bên phải, cộng thêm bệnh phổi sau mấy mươi năm lao
lực làm việc, theo bác sĩ ở bệnh viện 115 Gia Định, bệnh phổi thì trong một
thời gian điều trị, nhất định sẽ khỏi; riêng hậu tai biến liệt hai chi bên phải
như thế, chưa có dấu hiệu khả quan gì, nếu thật may mắn, sau khi phục hồi sức
khỏe, chân phải vẫn bị “ đơ”, tay phải thì sẽ trong tình trạng “ đòng đưa”. Đây
là thông tin mới nhất về diễn biến sức khỏe của họa sĩ Lê Ký Thương mà bạn bè
Sài Gòn vừa báo cho tôi hồi chiều hôm qua. Buồn thật!
Họa sĩ Lê Ký Thương đã có rất
nhiều cuộc triển lãm tranh chung và riêng gây ấn tượng mạnh trong giới hội họa.
Gần đây nhất là cuộc triển lãm cá nhân lần thứ năm của anh ( kể từ năm 1974 ) gồm
21 bức mang chủ đề LẠY TẠ ở gallery Tự Do, số 53 Hồ Tùng Mậu, Q1,TP.HCM hồi
trung tuần tháng 10 năm 2009. Ở tuổi trên 60, đã đi qua chặng đường dài trong
cuộc sống với đầy đủ cung bậc cảm xúc, do vậy, sự chiêm nghiệm của cuộc sống
cũng đã thể hiện rõ nét trong từng bức vẽ. Chủ đề LẠY TẠ lấy ý tưởng THIỀN làm
chủ đạo nên khi xem 21 bức trong cuộc triễn lãm này, ta có cảm giác tĩnh lặng
và bình yên hơn như các bức: QUAY VỀ, THỌ TRAI, THIỀN ĐỊNH, LẠY TẠ II …
Đó là một Lê Ký Thương trong
hội họa. Có thể bạn chưa biết, ngoài vẽ, họa sĩ Lê Ký Thương còn “ lấn sân”
sang lý luận phê bình và sáng tác thơ nữa. Ở mảng phê bình, tôi chỉ mới đọc vài
bài của anh nên chưa dám có ý kiến gì, còn thơ, tuy không nhiều người biết bằng
tranh, nhưng nói đến Lê Ký Thương, văn nghệ sĩ SG ai cũng bảo, đó là một họa sĩ
vẽ tranh bằng thơ. Một cách gọi thú vị mà bạn bè đã quý mến dành cho anh, thật
trân trọng!
Chút kỷ niệm nhỏ với họa sĩ Lê
Ký Thương giữa SG hồi giữa tháng ba vừa rồi. Chắc có lẽ đây là lần gặp đầu tiên
và duy nhất giữa tôi và anh để bàn những công việc mà anh cùng hợp tác cho tập
thơ tôi. Tình trạng hiện tại của anh, tôi chưa có hy vọng gì ở lần cộng tác
tiếp theo, chỉ mong tôi gặp lại anh lần nữa với tay bắt mặt mừng chứ không như
bây giờ, không ăn - không nói được. Xót quá. Nhớ bữa hẹn gặp anh, cả anh và tôi
đều chưa biết nhau nhưng rất dễ dàng để nhận ra nhau, thường chắc văn nghệ sĩ
hay “ dị hợm” hơn, nên không có sự e dè, không có khoảng lạ lẫm là thế đó. Vừa
ngồi xuống, chưa kịp trò chuyện nhiều với anh, tôi phải đi gởi hồ sơ bệnh án
của ông bố cho thân nhân ở SG để chiều lấy thuốc gởi về Cà Mau, tôi nói với anh
chờ tôi chút, tôi chạy sang cổng bệnh viện Chợ Rẫy rồi quay lại liền; vì áy
ngại chuyện để anh chờ, tôi vừa đi vừa nhắn tin trở lại, “ Anh thông cảm chờ em
một phút”, anh trả lời tin nhắn của tôi như sau “ Ngàn phút cũng chờ”. Đọc tin
nhắn mà tôi phải phì cười vì sự hóm hỉnh và cách pha trò đúng lúc của anh. Khi
nói đến công việc, tôi bị xúc động mạnh vì anh đã dành một sự trân trọng đặc
biệt cho bản thảo tập thơ tôi, điều này anh không chỉ nói với riêng tôi, sau đó
được bạn bè kể lại, anh nói với những người bạn quen biết của tôi rằng HTK là
một tác giả trẻ nhưng thơ đã quá chững chạc và đầy tự tin, HTK không làm thơ mà
đã trải lòng cho những con chữ. Họa sĩ Lê Ký Thương đã nói bạn bè về tôi như
thế đó, anh không chỉ vẽ bìa và trình bày sách, mà anh còn đọc thơ tôi với tư
cách của một độc giả cầm bút. Chính điều này đã làm cho tôi day dứt hơn khi hay
anh bệnh nặng. Một lần gặp duy nhất với 15 phút để bàn công việc là quá hiếm
hoi. Chính sự hiếm hoi đó, nên có những điều mà tôi phải trao đổi lại thêm với
anh về bản thảo tập thơ qua email. Anh nói với tôi anh sẽ làm hết sức khi nào
tôi thật ưng ý với bìa và cách trình bày thì thôi. Nói nghe đơn giản vậy, nhưng
khi ý tưởng của tôi và anh “ chênh nhau”, thì không dễ dàng chút nào; tôi thuộc
dạng “ cứng đầu và ương bướng” nên về sau, anh có vẽ bớt hứng thú. Tập GIẤU ANH
VÀO CỎ XANH rồi cũng được hoàn thành và ra mắt bạn đọc; lúc nhận được tập thơ
tôi gởi tặng, anh đã nói với tôi, một khi tôi ưng ý về tập thơ, thì mọi vấn đề
mà anh em đã tranh luận trước đây đều là chuyện nhỏ. Hồi giữa cuối tháng 7 này,
sau khi trở về từ trại sáng tác ở Bến Tre, tôi đã gấp rút đưa ông bố đi SG tái
khám cho đúng lịch; trên đường trở lại Cà Mau, tôi có nhắn tin cho anh, nói
rằng mình đang từ SG về, anh bảo tôi lúc nào cũng vội hết, thôi, hẹn lần sau
gặp, sẽ “oánh nhau” giữa chợ vậy.
Nói thêm một chút chuyện ngoài
lề. Thơ tôi được trưởng thành từ phong trào sáng tác của tuổi học trò mà nhà
văn Đoàn Thạch Biền - người có giấc mơ toàn màu trắng làm chủ xị ( chủ biên
tuyển tập Áo Trắng, một sân chơi bổ ích và là nơi ươm mầm cho những cây bút trẻ
phát huy niềm say mê cầm bút ). Cũng như Kiều Mây, tôi đã gởi “ thành quả” mới
của mình cho người “ gieo trồng” làm tặng phẩm.
Nhà văn Đ.T.B nhắn tin cho tôi bảo rằng đã nhận được sách, tôi nói thêm
với anh là nhớ góp ý cho tập thơ mới này của tôi nhé; anh OK và hỏi thêm “ Họa
sĩ Lê Ký Thương - người đã vẽ bìa tập thơ này của em bị đột quỵ, đang nằm điều
trị ở BV 115, em hay chưa?” Tôi trả lời nhà văn Đ.T.B là tôi đã hay rồi, tôi
còn nói thêm, đã nhờ bạn bè chuyển lời hỏi thăm của tôi đến gia đình họa sĩ,
khi nào đưa ông bố đi SG tái khám, tôi sẽ tranh thủ ghé BV 115 thăm họa sĩ Lê
Ký Thương sau. Tôi đã gởi tin nhắn đi trong ngậm ngùi và buồn biết mấy…
Như hôm qua, nhà báo Nguyễn
Khoa Chiến điện thoại cho tôi trong xúc động khi đọc bài VỀ BẾN TRE SAY TRONG
HƯƠNG NẤM MỐI, anh nói thêm anh thích bài TẢN MẠN VỚI NGƯỜI GIÀ, NGƯỜI SỒN SỒN VÀ
NGƯỜI TRẺ của tôi, và thích hơn nữa là bác Khổng Đức, bao giờ lên SG, anh sẽ
lục tung SG để tìm thăm bác. Trời ạ! Một sự xúc động có phản ứng dây chuyền từ
bài viết, là tác giả, tôi cũng thấy mình có ích khi đã phát đi tín hiệu và nhận
được tần số rung cảm sẻ chia. Anh Chiến bảo đã comment chậm vì mới trở về từ Đà
Nẵng, phải tiễn biệt thêm một người bạn, thật quá đau lòng. Tôi có nói qua với
anh Chiến về tình hình sức khỏe của họa sĩ Lê Ký Thương, anh em cùng nói một
câu giống hệt nhau: Buồn thiệt là buồn!
Nhất định khi đi SG, tôi sẽ
ghé thăm họa sĩ Lê Ký Thương, hy vọng anh không phải mừng khi gặp lại tôi trong
tình trạng nằm một chỗ như hiện tại, không phải thể hiện sự vui mừng bằng ánh
mắt nhấp nháy yếu ớt. Và trên hết, tôi phải gạt bỏ khỏi suy nghĩ của mình về
chân bị “ đơ” và tay phải “ đòng đưa” của anh. Thiệt tình, tôi không bao giờ muốn
mình phải chứng kiến điều đó…
HUỲNH THÚY KIỀU
Cà Mau, 10-9-2010
TRỞ
VỀ NGUỒN
(Bài viết của Khuất Đẩu khi xem tranh của
Lê Ký Thương)
Vẽ
là chơi với sắc màu đường nét.
Trong
một lần triển lãm chung với Trương Thìn, Hồ Thanh và Thân Trọng Minh, Lê Ký Thương
gọi cuộc chơi ấy là hát rong. Anh bảo anh chỉ muốn nghêu ngao kể lại bằng sắc màu
những tháng ngày bé dại của mình. Nghĩa là anh chỉ muốn nguệch ngoặc vẽ chính
anh.
Nhưng,
tôi lại nhìn thấy tôi không quần áo nằm dài bốc quả trứng trong ngày lễ thôi nôi.
Tôi
nhìn thấy tôi ngồi chàng hảng ôm cái trụ cây số cách Nhatrang 6 km, trước ngực
lủng lẳng một cái ná bắn chim
Tôi
nhìn thấy tôi đầu cạo trọc chỉ chừa ba cái vá ngộ nghĩnh lấy lá sen làm dù đi dưới
những cơn mưa dầm.
Tôi
thấy tôi chơi đánh đáo, bong vụ, trốn tìm.
Tôi
thấy tôi úp vỏ bưởi lên đầu giả làm vua.
Tôi
thấy tôi cùng với con chó con mèo.
Tôi
thấy tôi cô đơn chi lạ nhưng không hề cô độc.
Tôi
và anh, những đứa bé nhà quê chẳng có tàu hoả xe tăng, chỉ có những đồ chơi tự
làm lấy là những viên bi nặn bằng đất sét, những chiếc cối xay làm bằng hột xoài…
Người
lớn ai cũng có một thời là bé con, nên xem tranh của anh không riêng gì tôi, chắc
nhiều người cũng thấy mình bé bỏng, thơ dại đáng yêu trong đó. Nếu gọi cuộc triển
lãm trên là cuộc hát rong, thì chúng ta đã rất nên hạnh phúc khi được nghe những
bài đồng dao tuy có hơi ngây ngô vụng về nhưng rất gần gũi ấm áp. Được như vậy
là nhờ anh có một tâm hồn rất chi thơ dại, cái nhìn ngộ nghĩnh thơ dại và nét cọ
cũng rất thơ dại hồn nhiên.
Như
khi anh vẽ cậu bé mặt nửa xanh nửa đỏ ngồi trên trụ cây số là vẽ nỗi cô đơn thui
thủi một mình. Chơi một mình nên vui cũng một mình. Chỉ có trời xanh mây trắng
và nắng đỏ là hiểu được cách chơi của cậu.
Nhớ
ngoại là bức vẽ đơn sơ nhưng tôi lại thấy nỗi nhớ của cậu sao mà bất ngờ, nhỏ
nhẹ đáng yêu đến vậy. Nhớ cái bàn chân bà in trên đất có một ngón cái muốn giao
vào nhau như người Giao chỉ. Nhớ cái mo cau co quắp. Nhớ cái đèn có bốn mặt bằng
kính bà thường xách trong đêm. Chỉ vậy thôi, còn hình bóng bà chìm trong quần áo
bạc màu nổi lên một miếng vá đen thẩm.
Bức
Chơi với chị em nhé lại là một ngạc nhiên thích thú. Vì cái tựa đề, vì hình ảnh
chị cõng em chơi nhảy lò cò ( đánh chuông ) và vì màu sắc đơn giản mà tươi vui.
So với bức Chơi ô ăn quan nổi tiếng của Nguyễn Phan Chánh, thì bức ấy buồn thảm
quá. Chẳng những màu sắc buồn mà các cô bé cũng buồn.
Đến
con chó, con mèo, cây cau, ngôi nhà…dưới mắt nhìn của cậu cũng ngược đời khác lạ.
Con mèo một mắt, con bò vàng với những chiếc vú còn đọng những giọt sữa trắng,
cây cau nằm ngang và ngôi nhà chúc đầu xuống đất.
Mỗi
một bức vẽ như một thiên truyện ngắn, tưởng dễ nhưng rất khó. Từ ý tưởng đến phối
màu, đường nét, bố cục. Lại càng khó hơn khi viết và vẽ về trẻ con. Khó, nhưng
anh làm được vì anh là đứa bé trong một xác thân không còn bé.
Sinh
vào giữa thế kỷ trước ở một miền quê ven đô nên anh cũng như bao đứa trẻ cùng
thời đã trải qua một tuổi thơ không một chút bình yên. Xe tăng, đại bác ầm ầm
chạy qua trước hiên nhà. Rồi người chết, nhà cháy, những cảnh bồng bế nhau chạy
loạn, những giọt nước mắt, những chiếc khăn tang, những người cụt chân với đôi
nạn gỗ…Nhiều lắm. Nhưng lạ thay, ta không hề thấy xuất hiện trong tranh của
anh. Không như Trịnh Công Sơn chiều đi qua bãi dâu hát trên những xác người.
Anh không muốn hay tự nhận mình không đủ sức dùng nghệ thuật để phản kháng thét
gào như Bửu Chỉ.
Nếu
bảo rằng anh nhút nhát một chút cũng không sao bởi vì anh không phải là một nghệ
sĩ dấn thân, lại càng không phải là một người xiển dương nghệ thuật cho một lý
tưởng, một chủ nghĩa xa lạ. Bảo rằng anh chạy trốn hiện thực cũng được bởi những
cuộc chiến tranh mà bản chất của nó phi nhân chắc chắn là không phù hợp với
anh. Anh trốn, đúng vậy. Có điều anh trốn vào tuổi thơ của mình. Khi S. Exupéry
vẽ những con trăn khép mở cái bụng và những ngôi sao là trốn cái thực tại nhàm
chán đi về. Trốn vào tuổi thơ là cách trốn ngây ngô nhất, cũng như lấy lá sen để
ngửa mà che đầu trong khi trời thì mưa dầm. Ừ thì dại cũng đâu có sao, ta dại ta tìm nơi ướt át, người khôn người
đến chốn khô queo.
Nói
thì nói vậy, chứ thực ra không tuổi thơ nào che nổi cái thực tại, nhất là cái
thực tại ngàn năm có một sau 75. Những que diêm của cô bé bán diêm cuối cùng cũng
tắt ngúm, hoàng tử bé cũng bị rắn sa mạc cắn chết. Tuổi thơ khô quắt như lá sen
khô và tuổi chớm già như cỏ dại lớn nhanh hơn thổi.
Lá khô, lá rụng
xuống đất.
Người già khô héo
thì rụng về đâu?
Giờ thì không hát
được nữa rồi. Anh ngồi trầm tư nhìn khói đốt đồng che mờ cả đất trời trong bóng
hoàng hôn. Dường như anh lẩm nhẩm những câu kệ. Anh lại tìm ra cách trốn thực
tại bằng cách học thiền với sắc màu.
Tôi thấy anh bưng
bình bát cùng con chó ngày xưa đã từng đón anh đi học trường phủ trở về đứng
giữa bầu trời đỏ rực.
Tôi thấy anh thọ
trai giữa ngọ vẫn cùng con chó ốm.
Tôi
thấy anh lạy tạ cây chổi chà, thằng bù nhìn.
Tôi
thấy anh ngồi đợi trước một cánh cửa đóng kín.
Tôi
thấy anh biến mình thành con nhái bén nhảy về chiếc lá sen cũ.
Nhiều
người bảo anh là thiền sư. Có nhà báo đã hỏi anh tu ở chùa nào!
Nếu
những bức tranh trong cuộc triển lãm tháng 10/ 2009 được treo dưới một mái hịên
chùa, chắc đã có rất đông Phật tử đến chiêm bái. Huỳnh Như Phương cảm động thấy
anh biết lạy tạ. Đỗ Hồng Ngọc bảo anh ám ảnh về sen tức là có cơ duyên với Phật.
Tôi
thì, qua những bức tranh đúng như anh nói, là anh đang học thiền. Có điều là học
chưa giỏi. Đó chỉ là những bài tập minh hoạ một vài công án nổi tiếng của các
thiền sư Trung Hoa và Nhật Bản. Thiền sư Hakuin Ekaku ngộ rồi mới lạy tạ cây chổi
chứ không phải nhờ lạy cây chổi mà ngộ. Trở về lá sen cũ cũng chưa phải là ngộ
vì làm sao bình an khi dưới nước có con cá đang chờ và trên không có con chim đang
đợi. Về trong lo sợ chỉ là cách trốn chạy mà thôi.
Cho
dù có vẽ hằng trăm bức lạy tạ, hàng nghìn bức quay về anh cũng không ngộ được
khi chưa tự mình tìm ra được đường về.
Thế
rồi,
Có
thể đó là một buổi sáng.
Có
thể đó là một buổi trưa, một buổi chiều.
Có
thể đó là một buổi tối có trăng hay không trăng, có mưa hay không mưa
Một
buổi tối nào đó trong kho báu thời gian ít ỏi còn lại, anh bất chợt trông thấy
một khoảng ngực của người mẹ đang vạch áo cho con bú.
Có
thể đó là của mẹ anh khi anh còn bé xíu.
Có
thể đó là của vợ anh khi các con anh mới sinh
Cũng
có thể đó sẽ là của con gái anh, của con dâu anh.
Một
khoảng ngực với hai bầu vú căng đầy là biểu hiện đương nhiên của tình mẫu tử,
nhưng với anh lúc này, khác thường hơn, kỳ diệu hơn khi anh nhận ra trong cõi
trầm luân dâu bể này không một nơi chốn nào có thể thơm tho hơn, trong sạch hơn,
ấm áp hơn, an lạc hơn là khoảng ngực của người mẹ. Đó cũng chính là Niết Bàn của
mỗi người.
Như
Tất Đạt trong “Câu chuyện dòng sông” khi nghe được tiếng UM đã lĩnh hội ra chân lý. Như người khách thao thức trong “Phong
kiều dạ bạc” nghe tiếng chuông của chùa Hàn Sơn liền tỉnh mộng. Lê Ký Thương cũng
nghe ra mình đã ngộ sau khi đã vẽ xong bức Nguồn Thiền.
Một
bức tranh bình dị quá, đơn sơ quá đến nỗi khách tham quan hờ hững đi qua, các
nhà phê bình cũng làm lơ không ngó tới. Đó cũng là tính cách chung của nhiều người
khi cư xử với mẹ của mình.
Nhưng
Đạo là gì nếu không phải là những hình ảnh bình thường nhất bỗng sáng lên như bắc
cực quang trong tâm tưởng. Cây chổi sáng lên được trong H. Ekaku thì sao cái bầu
ngực kia không sáng lên được?
Người
mẹ ngồi an nhiên, hai tay khoanh vòng tròn trên hai chân cũng xếp bằng tròn, như
Đức Phật mà không giống Đức Phật vì vòng tròn gọn hơn, lại ngồi trên nền đất chứ
không phải trên toà sen. Chiếc áo nâu sẩm để hở khoảng ngực mênh mông với hai bầu
vú màu đất mà hai núm mở to như hai con mắt đang âu yếm nhìn con bú.
Bức
tranh rất tĩnh vì dáng ngồi đường bệ và bằng an của mẹ nhưng lại rất động. Bởi
tác giả hóm hỉnh vẽ một vú nhỏ đang cạn sữa và một vú to còn đầy sữa. Nên ta
nghe ra như có tiếng chùn chụt của đôi môi bé, tiếng rì rào dịu ngọt của sữa chảy
qua miệng bé. Và thêm nữa, những chấm nâu đen xung quanh mẹ, là gì nếu không phải
là hàng triệu người mẹ đen có, trắng có, vàng có, đỏ cũng có đang ngồi cho con
bú.
Không
lộng lẫy đồ sộ như những bức tụng ca người nữ của hoạ sĩ Rừng, nhưng bức Nguồn
Thiền đẹp một cách kín đáo và lặng lẽ như nụ cười của một người biết mình đã Tìm Ra
Được Đường Về.
KHUẤT ĐẨU
01/2010
No comments:
Post a Comment