Monday, 22 April 2013

THƠ



CHỚM YÊU

Hai trái tai em đeo đôi bông tai
Nỗi sầu riêng em đeo trong ngực
Khi trái tim thốt lên lời thổn thức
Hai tai em nghe tiếng thở dài
Và đôi bông tai rung hồi chuông thánh thót
Yêu ai
            yêu ai
                        yêu ai
                                    yêu ai!


TAY LƠI MÁI TÓC

Nắng đổ tràn sân lấp dáng em
Tay lơi mái tóc hất Thần men
Hồn ai đo ván trên trần thế
Thương kẻ say tình, nắng nắng lên.

TRĂNG THẸN

Mảnh trăng chèn song cửa
Phập phồng hơi thở thơ
Nửa mảnh trăng còn đó
Nửa kia khuất bóng tự bao giờ?

LKT

Sunday, 21 April 2013

TỪ TRONG DI SẢN

 GIỚI THIỆU

Phổ thông bán nguyện san, số 3, năm thứ nhất, ra ngày 1er Février 1937, đăng nguyên tập truyện ngắn MỘT ĐÊM VUI của Ngọc Giao. Theo lời giới thiệu: "Những truyện ngắn mà ông Ngọc Giao hợp lại trong tâp Phổ thông bán nguyện san này, đều đã có đăng trong Tiểu Thuyết Thứ Bảy". Tập truyện gồm những truyện: Lòng mẹ, Dĩ vãng, Đôi mắt đẹp, Bỏ giấc mơ hoa, Lệ vui, Hà thành, Chim lồng, Đời nó thế, Chợ chiều, Những đoạn tình. Ngoài ra còn có những tiểu phẩm như: Đạp đổ, Vẹt tiên sinh, Một bài tựa, Một bức thư. Khổ sách 13,5cm x 20cm dày 186 trang tính luôn bìa. Đặc biệt trang bìa có tranh minh họa của họa sĩ Tô Ngọc Vân.


ĐẠP ĐỔ HỀT

            Đạp đổ hết, ấy là khẩu hiệu của những người muốn hoàn toàn theo mới, những người thấy cái mới mạnh mẽ, rực rỡ thì hăm hở theo ngay, lại ngước một con mắt khinh rẻ trông về cái cũ, mà họ cho là hủ lậu, mà họ lấy làm xấu hổ, nên muốn đạp đổ đi hết.
            Họ từng nghe ca tụng cái hay cái đẹp của nền lễ nhạc khi xưa, nhưng cái hay cái đẹp ẩn náu ở chốn nào, ngày nay họ không còn nhìn thấy nữa. Trông lại quanh cảnh văn minh cố hữu, họ chỉ còn nhận ra cái búi tóc hôi, bộ móng tay dài, đôi vai so, khung ngực lép… Họ chỉ còn nhận ra những điều lễ phép phiền phức như khom lưng, cúi đầu, ăn nói dè dặt; những bó buộc của gia đình như phải vâng lời cha mẹ mà ăn học, mà lấy vợ lấy chồng, không được tự do muốn làm gì thì làm, muốn yêu ai thì yêu.
            Những điều hủ lậu ấy, dưới con mắt mới, đều là những điều quái gở, quái gở cũng như cái quan niệm của thày Khổng, ăn thịt thì miếng thịt phải vuông vắn mới bằng lòng ăn!
            Nếp nhà cổ bây giờ trông lụp xụp lắm rồi. Người ta kéo nhau vào, giật những hoành phi câu đối xuống, bỏ bàn thờ cửa võng đi, đem bát hương vất ra đường, phá hết rui mè.
            Trông thấy lòng sốt sắng, ai chẳng mừng thầm. “Ừ, phải có những tấm nhiệt thành này, những sức lực mạnh bạo trẻ trung này thí cái nhà cũ kỹ kia mới có ngày trở nên một lâu đài, có bao lơn, có sân gác, có phòng khách, phòng ăn, hợp với cuộc sống văn minh được chớ!”
            Bỏ đi cho hết, đạp đổ lung tung, rồi đem mới lại, thế thì còn gì bằng nữa, vì ưa mới, ghét cũ, là thói chung người đời.
            Nhưng, cái mới ấy phải là hay, là đẹp thì mới đáng mừng, đáng yêu. Chớ nó chỉ như kiểu áo mới, kiểu bàn ghế mới, chỉ có vẻ lộng lẫy trong ít lâu rồi lại hư hỏng ngay, thì sự đổi mới chưa ắt đã nên chuộng.
            Bởi vậy, ta mong rằng những ai rắp chí xây lại cái nhà cổ Việt Nam, sẽ xây nên được một tòa nhà có nền móng vững bền. Đừng có làm như chú láng diềng (sic) Trung Hoa, ngày nào đem quẳng thày Khổng ra đường, thấy dâm phong ngày càng tệ, lại ra đường rước thày vào, đặt trên vệ, tỏ lòng thờ kính hơn xưa. Để cho thày mỉm cười với học trò “Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù!”

LÃNG NHÂN (Ích Hữu)


VẸT TIÊN SINH

            Chẳng biết vô tình hay hữu ý mà thiên hạ lại mệnh danh cho tiên sinh là “Vẹt tiên sinh”.
            Đi đâu, tiên sinh cũng sính cắp một sách rất dày mà chưa bao giờ tiên sinh đọc hết lấy 10 dòng và cố làm để có nét mặt đầy vẻ “học giả”.
            Tiên sinh tự phụ rằng trong lúc người đời đua nhau Âu hóa, tiên sinh vẫn đủ nghị lực để giữ lại quốc túy, quốc hồn bằng chiếc áo the đã bạc màu với chiếc khăn xếp.
            Từ khi Nhà nước mời tiên sinh từ Côn Đảo về thì tiên sinh vẫn tin rằng tiên sinh đã đủ “vốn” để làm một nhà “ái quốc”, rồi tiên sinh gọi những người không bị tù như tiên sinh là những kẻ không có nhiệt huyết, và đi đến đâu, tiên sinh cũng đem mấy năm ở Côn  Đảo ra mở đầu câu chuyện bằng một cách hợm hĩnh, kiêu căng.
            Mượn được mấy tập Nam phong cũ, học thuộc lòng những danh từ khó trong mấy bài khảo cứu về triết học và tâm lý học, tiên sinh đã nhận mình là một nhà bác học thâm thúy, chẳng kém gì ông Quỳnh.
            Tiên sinh cho hết thảy các nhà văn khác là bọn văn sĩ non, cái bọn “tiểu tốt vô danh”, không ai buồn đếm xỉa đến.
            Vừa “ngấu nghiến” quyển đầu bộ Nho giáo Trần Trọng Kim, tiên sinh đã vội đến hiệu kim hoàn thửa “tức tốc” một đôi kính trắng.
            Sau khi đã “thắng yên” cho nó lên trên sống mũi, tiên sinh cố học thuộc lòng mấy câu chữ nho của Khổng, Mạnh để “lòe” những người không biết chữ Hán hoặc chưa đọc sách Khổng, Mạnh như tiên sinh.
            Tiên sinh rất phục mình là người có tên tuổi trong văn giới, báo giới Việt Nam.
            Có ai quen biết rục rịch đem bản thảo một cuốn sách nào đưa in là tiên sinh “” ngay đến tận nhà người ta nằng nặc đòi đề tựa giúp cho quyển sách.
            Vô phúc cho người nào phải lắng tai nghe tiên sinh đọc cho nghe những văn do tiên sinh soạn.
            Tiên sinh đọc, đọc lia lịa, đọc đến sầu bọt mép bằng một giọng du dương trầm bỗng như một cô đào tốt giọng kể sa mạc để khoe tiếng với quan viên.
            Vấn đề gì tiên sinh cũng cho mình là am hiểu hết, rồi có lúc tiên sinh giậm chân, vung tay thuyết lý để lấy điệu bộ một diễn giả… hùng hồn.
            Có bao nhiêu sở học, tiên sinh “tuôn” ra cả một lần để tỏ mình là con người học rộng.
            Giữa đám đông người, tiên sinh không bao giờ chịu ngồi im lấy vài phút.
            Tiên sinh cười to, nói lớn, cướp lời người này, nói át người khác để người ta im cho tiên sinh hùng biện một mình.
            Dù việc không biết, tiên sinh cũng nói dựa hay nói bịa để che dốt chớ không khi nào chịu ngồi yên.
            Tiên sinh quả quyết nói thủ tướng Hít-le có mấy mụn nốt ruồi ở cằm và sang năm Tưởng Giới Thạch sẽ đem Tống Mỹ Linh sang ở hẳn bên Thụy Điển.
            Tiên sinh thường tóm tắt thời cục thế giới bằng một câu gọn lỏn:
            - Chiến tranh! Rồi phải chiến tranh mới xong!
            Đoạn làm ra mặt “thức thời”, tiên sinh lau đôi mắt kính, thong thả cặp tập sách đứng lên.
            Rồi, muốn “lòe” những người chưa biết rõ cái giá trị thực của tiên sinh, tiên sinh lại đem những câu chuyện vừa nói xong đi nói hàng trăm nghìn lần ở trăm nghìn chỗ khác.

LINH PHƯƠNG (Ích Hữu)



MỘT BÀI TỰA



            Trong tình trạng hỗn độn của xã hội Việt Nam hiện tại ủ trong lòng nó một hiểm tượng.

            Một phần đông thanh niên, bị văn minh vật chất cám dỗ, bị giáo dục gia đình kìm kẹp trong lý tưởng vinh thân, bị thành kiến hủ bại của xã hội đúc theo khuôn trưởng giả, đã nhãng quên cả khí làm trai, thiên chức của tuổi trẻ và danh dự làm người.

            Lăn lóc mãi trong vực thẵm của khoái lạc đê hèn, ngụp lặn mãi trong bùn nhơ của phồn hoa hỗn tạp, cắm cúi theo mãi vết chân đẫm máu của “con bò vàng” họ đã đàn áp hết lượng năng, rầy séo lên tất cả những tình cảm thiêng liêng của cõi lòng.

            Đối với họ, tổ quốc là một ngụy ảnh, nghệ thuật là một hư ngôn, danh dự là một phiếm ngữ, tình yêu là một vô ý nghĩa, tình bạn là một cái sơ mướp.

            Họ chỉ còn tận tụy thờ một thần tượng: thần khoái lạc; họ chỉ còn tin một luân lý: tìm khoái lạc; họ chỉ còn nghe một mệnh lệnh: hưởng khoái lạc; họ chỉ còn chọn một châm ngôn: rầy séo lên tất cả để tìm và hưởng khoái lạc.

            Tiểu thuyết Một người này viết ra để ghi cuộc cách mệnh tinh thần của một bạn trẻ đã bị quyến dũ bở những luân lý, mệnh lệnh, thành kiến, lầm lạc và khốc hại ấy.
            Vai chính của câu chuyện là một thanh niên trụy lạc, đã trong một phút giác ngộ phi thường, đã hoàn toàn khôi phục được thiên lương bị hoàn cảnh làm lung lạc, đã can đảm từ chối những vinh hoa phú quí hèn hạ để xây dựng lại cuộc đời tinh thần đầy danh dự.
            Đây là hình ảnh cuộc đời niên thiếu đầy ánh sáng, đầy chiến đấu, đầy tình cảm thanh cao, đau khổ mà vẫn nổ lực tiến thủ, thất bại mà vẫn tin ở đắc thắng hoàn toàn hy sinh cho Nghệ thuật và Tổ quốc, gạch nó ra trên mặt giấy, tôi chỉ thiết tha ao ước tất cả mọi người đều thâm tín rằng cái sinh lực súc tích linh thiêng, và nhất là cái khí phách làm người mà những hỗn độn của tình thế chỉ làm mờ ám trong chốc lát, chứ không thể làm tiêu diệt được.

           
 LÊ VĂN TRƯƠNG


MỘT BỨC THƯ
            
             Phú viên ngày 16-11-36


            Anh Lê văn Trương,
            Tôi vừa đọc bản thảo chuyện Một người của anh. Tôi thành thực cám ơn anh đã đem lại cho tôi một lạc thú tinh thần hiếm có. Bằng một nghệ thuật mãnh liệt và nhuần nhị, anh đã gợi trong lòng tôi nhiều tình cảm cao quí và thuần khiết.
            Trong bốn tiếng đồng hồ, ngòi bút thần diệu của anh đã hoàn toàn quyến dũ tôi và đắm đuối tôi vào một thế giới tinh nguyệt trong trẻo trong đó tôi không còn phải nhìn thấy những khói mù vẩn đục của thế tình. Tôi quên hết những lời chua chát người ta thường dùng để nhạo báng Ái tình, Bằng hữu, Lương tâm, Danh dự, Lý tưởng.
            Tiểu thuyết Một người của anh là một nguồn sống rạt rào nhưng yêu, thương, hăng hái và nỗ lực. Xem xong, tôi thấy tâm hồn mở rộng thêm, sẳn sàng đón tiếp những tình cảm và tín ngưỡng. Tôi tin ở tình bạn. Tôi tin ở danh dự, nghệ thuậttổ quốc. Tin ở Thành công.
            Đặt quyển chuyện xuống bàn, tôi khoan khoái, cảm động và thỏa mãn – thỏa mãn vì đã gặp Một người, một người mà , cách đây mấy nghìn năm nhà hiền triết Diogène thắp đèn giữa ban ngày đi tìm cũng không thấy. Môt nhà văn không thành thực và mạnh mẽ tin, yêu không thể nghĩ, cảm, viết được một chuyện hào khí như tiểu thuyết Một người.
            Nếu tôi không nhầm, viết nó, anh chủ tâm thức tỉnh những tâm hồn đang chìm đuối trong ao tù trưởng giả lấy ăn chơi làm tôn giáo, lấy khoái lạc làm thần tượng, lấy trụy lạc làm lẽ sống.
            Đi ngược lại một dòng sinh hoạt đang xô đẩy mọi người phản động thời thượng đang sùng mộ vật chất, anh đã tỏ ra một nhà văn độc lập về tư tưởng và có can đảm của ngòi bút.
            Hẳn anh cũng buồn rầu với tôi rằng ở cái hình trạng hoàn toàn hỗn độn của xã hội Việt Nam bây giờ, giữa lúc người ta hùa nhau chạy theo “quỉ Satan” và “con bò vàng”, nói đến danh dự chỉ là mua một nhún vai của kẻ hoài nghi, nói đến nghệ thuật chỉ là chuốc lấy một bĩu môi của kẻ bi quan, nói đến tổ quốc chỉ là hứng lấy tiếng cười giễu cợt của kẻ xu thời.
            Nhưng một nhà văn biết trọng ý kiến mình, quý ngòi bút, thờ Danh dự và Lý tưởng, không khi nào vì những đá chởm ấy mà nản chí.
            Lúc này giống nòi Việt nam đang cần mạnh để sống, cần hăng để tiến, cần liều để thắng. Lúc này mỗi bạn trẻ phải là một nghị lực, mỗi thần dân phải là một ý chí, toàn quốc phải là một lực lượng để phụng sự một tương lai mà chúng ta có quyền, có bổn phận tin là rực rỡ.
            Lúc này hoài nghi là nhu nhược, bi quan là hèn mạt, xu thời là phản bội.
            Đã là người, chúng ta không có quyền nhu nhược. Đã là nhà văn, chúng ta không có quyền hèn mạt. Đã là dân nước, chúng ta không có quyền phản bội.
            Máu trong tim chúng ta còn sôi nhưng hoài bão gân cốt trong người chúng ta còn ứ những sức mạnh. Chúng ta phải nỗ lực chiến đấu vì nghệ thuật, vì chủng tộc. Chúng ta phải dùng hết tâm trí sống một cuộc đời thật đầy đủ, thật nguy nan. Sống không có lý tưởng không còn ý nghĩa gì? Đời sống không có gian lao còn có hứng thú gì?
            Chúng ta cứ nhằm Đắc thắng mà tiến bước. Nếu có phải vì héo tim, mòn óc, thua một Định mệnh, tàn ác mà ngã gục trên đường Nghĩa vụ, chúng ta cũng phải ngã một cách danh dự với mãn nguyện trong lòng – mãn nguyện vì đã là Một người.
            Với tiểu thuyết Một người, anh đã ném một hòn đá tảng tảng đầu tiên vào cái nền xã hội Việt nam mà tất cả chúng ta cần phải gây dựng thật mau chóng, thật siêng năng và chu đáo nếu chúng ta không muốn nhìn cái thảm họa Diệt vong của giống nòi.
            Dù ảnh hưởng của câu chuyện Một người không hẳn được như lòng mong mỏi, chủ tâm của anh cũng còn đáng quý gấp trăm nghìn những thái độ ươn hèn, đác tội của bọn hoài nghi, bi quan, xu thời kia.
            Hành vi của anh sẽ được người thức giả hoan nghênh. Tôi sung sướng nói với anh như thế.


***


            Anh Lê văn Trương,
            Đã bao nhiêu lần, sau những câu chuyện tâm sự, chúng ta nói với nhau nỗi lo sợ hồi hộp của chúng ta khi cầm bút ký thác lên trang giấy những chất tim, chất óc của mình. Muốn tránh những những trách móc của lương tâm, muốn tránh những thịnh nộ của bao nhiêu người đã chết trong lòng dãi đất Việt nam này, chúng ta cần phải hoàn toàn thành thực khi phát biểu ý kiến, phải hành văn hoàn toàn theo mệnh lệnh của trái tim.
            Trái tim! Chỉ có một trái tim mới là nguồn sống và động lực của tiến bộ.
            Viết quyển Một người, anh đã nhìn thấu chân lý tuyệt đối ấy. Tôi thành thực mừng anh và mong anh sẽ viết được nhiều tiểu thuyết giá trị hơn thế nữa.


            Bạn anh

            TRƯƠNG TỬU

TRÒ CHUYỆN VỚI HỌA SĨ LƯU CÔNG NHÂN


Thủ bút của Họa sĩ LƯU CÔNG NHÂN


Lưu Công Nhân
-         Sinh năm 1931 ở Việt Trì, Vĩnh Phú.
-         Học trò của họa sĩ Tô Ngọc Vân (1948 – 1954)
-         Tác phẩm trưng bày trong tất cả những Triển lãm Mỹ thuật Việt Nam ở trong nước và ngoài nước.
-         Đã trưng bày nhiều phòng tranh riêng tại Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Varsovie, Lublin (Ba Lan).
-         Nhiều giải thưởng toàn quốc (1959 – 1960) và quốc tế - Viên (Áo) 1959.
-         Tác phẩm được bảo tàng tại các viện bảo tàng: Hà Nội, Maxcơva, Budapest, Paris và các bộ sưu tập riêng trong và ngoài nước.
-         Hiện là họa sĩ tác gia của Hội Nghệ sĩ Tạo hình Việt Nam. Xưởng vẽ ở Thành phố Hồ Chí Minh.

            Ngồi trên ban-công tầng hai của Nhà Sáng tác Đồng Đế, Nha Trang (thuộc Bộ Văn hóa) nhìn ra: Biển, bãi cát vàng, những chuỗi dài bọt biển trắng. Sáng sớm mùa hè, biển lặng xanh lơ, mặt trời chưa lên. Ngoài khơi, vài cánh buồm đen hiện lên, màu mây trắng chớm hồng nhạt: cảnh sắc bức tranh màu nước trên giấy dó của họa sĩ Lưu Công Nhân đang vẽ.
            Lưu Công Nhân năm nay 56 tuổi, người cao lớn, tính vui vẻ, cởi mở. Anh đi nhiều, sống nhiều. Đến đâu anh cũng vẽ, vẽ say mê. Nơi nào nhiều cảm hứng, anh ở lại lâu để vẽ. Hồi năm 1983, anh đã sống và vẽ ở Hội An (Quãng Nam – Đà Nẵng) cả năm trời. Năm nay, hưởng ứng “Năm Quốc tế hòa bình”, anh thực hiện một chuyến đi dài xuất phát từ Sài Gòn đến các tỉnh miền Trung, ra Hà Nội rồi về lại Sài Gòn, xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long để vẽ phong cảnh đất nước và con người Việt Nam hòa bình.
Nhà Sáng tác và An dưỡng Đồng Đế chưa có xưởng vẽ, nhưng với Lưu Công Nhân điều này không ảnh hưởng đến công việc sáng tác của anh. Chuyến đi này anh vẽ màu nước. Những tờ giấy dó Việt đựng trong chiếc cặp vẽ đen, một hộp màu nước, vài cây bút lông đủ để anh vẽ bất cứ chỗ nào anh thích. Tôi hỏi anh:
            - Tranh màu nước so với tranh sơn dầu, sơn mài, lụa,… loại tranh nào có giá trị nghệ thuật hơn.
            Anh cười to, trả lời thẳng:
            - Vương Duy đời Tống chỉ dùng độ đậm nhạt của mực đen để diễn tả màu sắc của vạn vật. Ông là thủy tổ lối vẽ “thủy mặc” phái Nam Tông. Rồi những tranh của Hàn Cán, Tào Bá, Mễ Phế, Mã Viễn, Trạch Đoan, Vương Hy Mạnh… đều là những đại tác phẩm. Không ai chia các trường phái hội họa theo chất liệu. Giấy, mực nho hay sơn dầu, hay dát vàng, kim cương thì cũng như nhau. Chỉ là phương tiện để vẽ…
            Anh nhìn tôi, tay rút một điếu thuốc châm lửa hút. Anh không ghiền thuốc, chỉ khi nào hứng thú trong câu chuyện anh mới dùng hơi thuốc làm “nền” cho ý tưởng của anh.
            - Tất nhiên mỗi chất liệu đều có cái hay riêng. Tùy theo tư chất của mỗi họa sĩ thích dùng thứ này hay thứ khác. Nhưng đối với những họa sĩ phương Đông, Việt Nam – sơn mình làm ra rất kém chất lượng, nhưng giấy dó lại rất tốt, rẻ thì cái ý nghĩ đó vô cùng to lớn. Tôi nghĩ rằng với thỏi mực tàu, hộp màu nước, tờ giấy dó ấy cộng với tài năng là quá đủ để bạn trở thành một họa sĩ tên tuổi.
            Anh cười, nói tiếp, giọng sôi nổi:
            - Bạn lại có thể vẽ được rất nhiều bằng chất liệu ấy, hàng vạn bức tranh trở lên, trong khi đó nếu bạn vẽ lụa, sơn dầu thì khó có thể mơ ước đạt được một số lượng lớn như thế. Trong hội họa không thể vẽ ít mà thành công nhiều.
            - Nhưng anh ơi, nếu tôi chỉ hợp “gu” vẽ sơn dầu, thèm vẽ quá, vẽ bừa sơn cửa, thì có nên không?
            - Tôi xin nói với bạn như thế này nhé! Nếu muốn thỏa mãn cơn khát vọng thì xin mời bạn hãy mạnh dạn cầm tờ giấy dó và thỏi mực tàu, hoặc hộp bột màu lên. Hai chất liệu ấy thì đến Picasso cũng chỉ vẽ như bạn thôi. Không có họa sĩ nào thỏa mãn khát vọng bằng cách dùng sơn cửa thay sơn dầu. Với sơn dầu, nếu dùng những loại hạng bét thì nó cũng phá hoại không thương tiếc con mắt của các anh. Có thể so sánh với một người học đánh piano mà lại dùng một cái piano tự tạo, sai hoàn toàn âm sắc.
            Anh cười và tôi cũng cười với sự so sánh ngộ nghĩnh này.
            - Và cũng xin anh lưu ý. Sơn dầu trong thế kỷ 20 được các hãng công nghiệp chế tạo có nhiều màu và tiện lợi hơn thời của Van Eyck, Véronèse, Léonard de Vinci nhưng chất lượng lại sém hẳn. Những tranh vẽ bằng hóa chất mới này, trong một vài chục năm bị mất màu rất nhanh. Chỉ có vài “mác” trên thế giới có được đủ tín nhiệm cho các họa sĩ vẽ, đáng tiếc thay lại rất đắt. Chúng ta phải mua bằng vàng.
            - Còn tranh của các họa sĩ sống ở đây, anh đã có dịp xem và thấy thế nào. Xin anh phát biểu thẳng thắn.
            - Tôi có gặp một vài bạn than phiền hoàn cảnh làm việc ở cơ quan, không có thì giờ vẽ, vật liệu lại thiếu thốn… Các anh chỉ trông chờ các đợt sáng tác. Tôi nghĩ các anh nên có một quan niệm cho phù hợp. Sáng sáng anh có thể tranh thủ vẽ một chút trước khi đi làm.
            Anh nhắc đến trường hợp họa sĩ Tô Ngọc Vân vẽ tranh Chị cốt cán hiện treo ở Viện Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Ông phải tranh thủ vẽ trong đợt công tác phát động quần chúng giảm tô. Anh nói thêm:
            - Nếu tranh thủ như thế thì mỗi năm anh có nhiều tranh vẽ và tranh vẽ của anh có hơi thở của cuộc sống.
            - Theo tôi nghĩ tình hình sáng tác của anh em họa sĩ ở đây thiếu tính cách quốc tế hay thậm chí tính cách của một nước. Muốn thoát khỏi mặc cảm đó, theo ý phải khắc phục bằng cách nào?
            - Trong lịch sử mỹ thuật hiện đại có một họa sĩ người Ý tên là Moraldi, ông này chưa hề bước chân ra khỏi một ngôi làng nhỏ ở miền Nam nước Ý, thế mà tranh vẽ của ông đã chinh phục được giới phê bình hội họa và làm rung chuyển cả thành phố Paris vào đầu thế kỷ 20 này. Đến ngoài 60 tuổi Moraldi mới đến Paris, gặp các đại họa sĩ ở đây mà không hề “nhà quê” tí nào. Ông này chuyên vẽ tỉnh vật. Tôi đã được xem một bức tỉnh vật vẽ chai lọ của ông ở Viện Bảo tàng Puskin: tuyệt vời! Còn Cézanne cũng là họa sĩ của một tỉnh nhỏ ở miền Nam nước Pháp, ông chỉ đến Paris trong một thời gian ngắn rồi về lại quê nhà Aix-en-Provence vẽ cho đến cuối đời. Nhưng ông ta vẫn là cha đẻ của mọi nghệ thuật hiện đại. Như thế, tôi nghĩ các họa sĩ ở tỉnh này… có thể trở thành một họa sĩ có tầm cỡ quốc tế mà không nên mặc cảm gì cả. – Anh nhấn mạnh – Trọng tâm vấn đề là ở các anh chứ không phải ở Nha Trang hay ở một góc phố nào khác.
            Anh nhắc lại lịch sử mỹ thuật của nhân loại không bao giờ tính đến những họa sĩ bậc thầy vẽ bằng chất liệu gì. Sự hiện diện của những danh họa vĩ đại ấy trong lịch sử khiến cho nhân loại phải nghiêng mình kính phục là ở trí tuệ, vũ trụ, tâm hồn, ánh sáng toát ra từ người đó. Vẽ là “una cosa mentale” (công chuyện tinh thần) như Léonard da Vinci đã nói.
            - Thế thì vừa qua trong điều lệ thu tranh dự triển lãm Á-Phi, tại sao Ban Tổ chức chỉ nhận tranh lụa và sơn mài?
            - Tôi nghĩ đó là phía Ban Tổ chức của chúng ta. Xưa nay chúng ta cứ nghĩ chỉ có đàn bầu mới ra quốc tế được. Nếu đem tranh ra nước ngoài dự thi mà phải lụa và sơn mài chứ không thể thứ gì khác thì cũng là biến dạng của “tư tưởng đàn bầu” thôi. Những nước khác không có lụa và sơn mài thì sao? Tôi nghĩ điều lệ của Ban Tổ chức quốc tế không qui định chất liệu mà chỉ qui định khuôn khổ.
            - Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi làm thế nào đạt được tính cách quốc khi nằm lì ở một tỉnh như Phú Khánh này?
            Anh vừa cười vừa trả lời:
            - Tất nhiên nếu được ra nước ngoài thì nhất rồi. Nhưng các bạn nên nhớ, chúng ta đang ở vào thời đại mà lượng thông tin rất phong phú, cho nên trước hết chúng ta phải thay thế một phần cái tận mắt thấy bằng sách báo quốc tế. Điều thứ hai, chúng ta nên hàng năm đến Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố khác. Cái này ở trong tầm tay của chúng ta. Vấn đề là khi đến các nơi đó chúng ta có nhìn ra cái gì hay không? Những cuộc gặp gỡ giữa một họa sĩ ở tỉnh với các danh sĩ ngành nghề thủ đô trong những buổi cà-phê, trò chuyện, thưởng lãm tác phẩm nhất định phải đem lại hơi thở quốc gia và quốc tế cho các bạn ở tỉnh. Điểm thứ ba: Nha Trang là một thành phố du lịch, chính đây là điều kiện vô cùng thuận tiện để chúng ta có thể gặp gỡ học tập những văn nghệ sĩ của cả nước và nước người. Vấn đề là chung ta có chịu gặp, chịu học hay không?
            Nhìn cuốn tập san Văn Nghê Nha Trang anh hỏi:
            - Anh có thấy cái bìa và các minh họa của các anh đây... rất là tỉnh nhỏ không, tuy cũng màu, mảng, mô-đéc... đủ cả.
            Tôi ngồi im lặng. Đúng là cũng có lúc mình chưa thoát ra khỏi cái “mặc cảm tỉnh nhỏ”. Anh nói với giọng tâm sự:
            - Tôi thường băn khoăn tranh của tôi có tỉnh lẻ không? Ôi, than ôi, hai phần ba đời tôi ở nông thôn, làng xóm, rừng rú. Tôi luôn luôn tự hỏi: Kiến An, Thác Bà so với Hà Nội là “tỉnh nhỏ”, thế thì Hà Nội so với Paris, New York có phải là “tỉnh nhỏ” không? Và mục tiêu của tôi không phải chỉ có Hà Nội... Trong các bảo tàng nước ngoài, thì cái ám ảnh thường ray rứt tôi trước tiên là khi nhìn tranh của các đại danh họa rồi so với tranh mình nó như thế nào! Bài học “nhà quê” và quốc tế ấy bao giờ cũng hiện lên trong khi đứng trước bức tranh.
            - Các họa sĩ cần xem những bức tranh nổi tiếng của các nhà danh họa dù là phiên bản, cũng giống như các nhà văn bắt buộc phải có những tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng mình thích trong tủ sách của mình...
            - Đúng quá. Thật đúng. Vô cùng đúng! Tôi không có tranh nguyên bản của các họa sĩ nước ngoài, nhưng bản thân tôi có sưu tập nguyên bản tranh của Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái. Tôi vừa mới mua hai bức tranh của họa sĩ Nguyễn Trọng Kiệm. Tôi thường xuyên xem và học tập từ tranh của các anh ấy.
            - Còn tranh của anh, anh có thường xem lại không? Anh có thích nó không? Và xin hỏi thêm ngoài tranh anh có đọc sách gì không?
            - Tôi đặt ra một kỷ luật là hàng tháng phải xem lại toàn bộ tranh vẽ, phác họa, ký họa của tôi một lần. Một năm dứt khoát tôi phải để ra một thời gian xem toàn bộ số sách hội họa tôi hiện có, và tôi có đầy đủ những sách hội họa cần thiết do công việc yêu cầu. Tôi đọc sách văn học cũng nhiều, đặc biệt rất mê thơ...Anh nói với tôi: - Tôi cứ tự hỏi làm thế nào trong hội họa có thể vẽ được cái trừu tượng như âm nhạc và thơ.
            - Tôi nghe nhiều người nói anh chơi cũng dữ mà làm việc cũng gớm. Thế chìa khóa thành công của anh chỗ nào?
            Anh cười sảng khoái:
            - Nếu anh nghĩ chơi và làm việc không dính dáng gì với nhau thì chơi chả được bao nhiêu và làm việc cũng chả được mấy. Đối với nghề vẽ tôi cho rằng trong chơi là làm việc. Vấn đề là do ý thức...
            Lúc này mặt trời từ biển đang mọc lên, đỏ rực. Những đường ánh sáng nhảy múa trên mặt biển xanh. Biển biến sắc từ màu xanh thành màu hồng điểm những vệt ngang đỏ tươi. Anh chuẩn bị về phòng lấy giấy bút để vẽ cảnh mặt trời mọc trên biển. Tôi xin phép anh được hỏi một câu chót, có tính ước lệ nhưng cần thiết:
            - Dưới con mắt của một họa sĩ du lịch, cảm tưởng của anh thế nào khi đến vẽ và ở Nha Trang?
            - Khi đến một thành phố lạ, tôi có thói quen tìm hiểu những hoạt động về lãnh vực văn hóa, một nhu cầu tinh thần đối với con người, ở thành phố đó. Trong những ngày đầu tiên đến Nha Trang, ở nhà anh Trần Anh Vinh, nằm trên gác, tôi đọc hết các sô Văn nghệ Nha Trang, Văn nghệ Phú Khánh, tập bút ký Nha Trang mười năm... Khi xuống phố, tôi tìm thăm các cửa hàng mỹ nghệ, của hành kinh doanh vàng bạc... Tôi đã để một ngày đi xem các bảng đề tên đường, tên phố của Nha Trang, thấy có cái rơi, cái mờ đọc không ra chữ. Tôi thắc mắc nếu như thế sao gọi là thành phố du lịch được nhỉ? Anh có tự ái về nhận xét của tôi không? Ai đến một thành phố du lịch nào việc đầu tiên là phải mua một bản đồ để tìm tên phố một cách dễ dàng. Còn ở đây không được thế. Tôi vẽ phố mà không có bản đồ, không biết tên phố. Nha Trang là một thành phố có cảnh sắc thiên nhiên, nhưng chúng ta cũng đã phá hoại không ít cái đẹp của thiên nhiên. Chẳng hạn như ở bãi biển, Tháp Bà... Tôi nhớ rằng khi tôi đi qua những thành phố du lịch của châu Âu, vẻ đẹp của họ được chăm sóc những người du lịch như tôi đều phải thốt lên: “Quả thật, ông thị trưởng của thành phố đó có đầu óc thẩm mỹ của một họa sĩ bậc thầy.

LÊ KÝ THƯƠNG
Nha Trang, 6-1986.
  Ký họa chân dung người viết do họa sĩ Lưu Công Nhân vẽ năm 1986



TIẾNG VẠC KÊU MƯA - TẬP 1





Tiếng vạc cong lưng trời
Canh khuya thao thức bóng
Trút lên cao lồng lộng
Khẳm tiếng kêu hụt hơi.

(Tiếng vạc kêu mưa)
LKT





PHẦN MỘT

CẦU TRE LẮT LẺO


                1

               Gần tới nhà Bảy Diện, bà Năm Xoan đứng lại dưới bóng bụi tầm vông, xỏa hai ống quần xuống trước khi kêu cửa. Nhà Bảy Diện nuôi nhiều chó, nghe đâu tới bốn năm con rất dữ. Có một con chó cái mới đẻ cách đây ba bữa. Chó đẻ thì ham con, đã dữ càng dữ hơn. Bảy Diện phải sai thằng cháu nội viết một tấm bảng yết ngay trước ngõ: ''Nhà có chó đẻ, coi chừng!'' Tấm bảng bằng giấy thùng, chữ viết bằng than, nét tròn trịa dễ đọc. Nhưng bà Năm Xoan lại mù chữ, không biết Bảy Diện treo cái ''bùa'' gì. Nhà giàu sợ ma trêu quỉ ám thường treo bùa, bà nghĩ. Để phòng chó cắn càn, bà Năm Xoan tìm một cục đất, nắm chặt trong lòng bàn tay. Theo người xưa thì gan chó được ông Trời nặn bằng đất, nắm chặt cục đất coi như bóp gan nó, nó đau, không dọa người. Bà mở miệng kêu to:  
               - Có ai trong nhà coi giùm chó!      
               Nghe tiếng người lạ, cùng một lúc bầy chó bốn con nhảy xổ ra, sủa long cả óc. Bà Năm Xoan thất vía hồn kinh, lùi xa cánh cửa ngõ. Theo bản năng tự vệ, bà giữ chặt cục đất và bóp mạnh hết sức nhưng bầy chó vẫn hung hăng không chùn bước. Chúng nhảy chồm cả hai chân trước lên cánh cửa ngõ bằng kẽm gai, nhe răng gầm gừ, muốn tìm cách chạy ra ngoài dày xé người lạ mặt cho hả dạ. Bà Năm Xoan sợ líu lưỡi, cố la thật to để tự trấn an:         
               - Chó, chó!... 
               Một đỗi lâu, thằng cháu nội của Bảy Diện chừng chín mười tuổi mới chạy ra, nạt lớn:
               - Tô, Nô, Bi, Ki... Cút!         
               Bầy chó nghe lệnh thằng nhỏ, gầm gừ thêm mấy tiếng để thị uy rồi mỗi con bỏ đi một ngả. Chúng quay về vị trí riêng đã được chủ phân công, những đôi mắt đỏ ngầu vẫn đằng đằng sát khí, mở trừng trừng.
               Bà Năm Xoan hỏi thằng nhỏ:
               - Có ông nội ở nhà không con?        
               - Bà hỏi nội con làm gì?       
               - Chậc, cái thằng! Có chuyện tao mới hỏi. 
               - Bà chờ chút.
               Thằng nhỏ thủng thẳng vô nhà. Bà Năm Xoan tưởng nó đi lấy chìa khóa mở cửa ngõ. Nhưng không, nó chạy ra vườn báo cho Bảy Diện biết có người muốn gặp. Đương ngon trớn nhậu với Tiến Hơn, chủ thầu bơm nước ruộng trong làng, Bảy Diện biểu thằng cháu:
               - Con mẹ Năm Xoan đó, ra mở cửa cho mụ vào đi. Nói tao đi họp chưa về. Mụ ấy muốn gì thì nói chuyện với bà mày nhé! À, nói bà mày ra đây tao dặn.          
               Bà Năm Xoan nắm chặt cánh tay thằng nhỏ như khi nắm cục đất, nhưng yên tâm hơn, bước theo nó vô sân.        
               Thằng nhỏ nói:          
               - Bà chờ đây, tui đi kêu bà nội tui.  
               - Đứng đây có sao không mày? Chó đâu rồi?         
               - Đừng sợ. Con nào về chỗ nấy rồi. 
               Bà Năm Xoan đứng dựa lưng vô cây cột trước hiên nhà, vẫn còn sợ mấy con chó nên cứ liếc mắt qua lại ngó chừng.        
               - Chị Năm hả? Mời chị vào nhà xơi nước ạ.           
               Bà Bảy Diện chào bất ngờ khiến bà Năm Xoan giựt mình. Đã giựt mình thì bà nói lịu: 
               - Chị Năm hả. Ờ chị Năm... chị Năm... xơi nước... xơi nước... Chị Năm xơi nước... Chị... Năm... xơi... nước...   
               Bà Bảy Diện nghe phát cười. Thằng nhỏ khoái chí hinh hích cười theo. Nó lén đập vô lưng bà Năm Xoan, chọc thêm:        
               - Chị Năm. Xơi nước!          
               - Ờ, chị Năm xơi nước... Mồ cố tổ nội cha mày chớ xơi nước…
               Mắng thằng nhỏ xong, bà Năm Xoan tỉnh người. Biết mình quá lời, bà cười giả lả. Thằng nhỏ thì sợ bị đòn, vụt chạy mất.        
               Bà Bảy Diện mở cửa nhà dưới, bưng cơi trầu để trước hiên, mời mọc:
               - Vào đây chị Năm, vào xơi miếng trầu với em.     
               Bà Bảy Diện cầm lá trầu chưa têm dúi vô tay bà Năm Xoan. Bà Năm Xoan giữ lấy một cách thờ ơ rồi để xuống.   
               - Chị cứ để đó mà... Tui mới ăn ở nhà.        
               Bà Năm Xoan muốn đi thẳng vô chuyện liền, nhưng mọi ý tứ bà đã sắp sẵn trong đầu mấy bữa nay, khi không nó bay đâu hết. Đầu bà trống không như cái gáo dừa khô móc trên cọc, bà cảm thấy lạt miệng. Cuộc đời bà đã lắm lần đi hẹn nợ, nhưng chưa lần nào hẹn nợ với người như Bảy Diện. Dẫu sao giữa bà với Bảy Diện cũng đã quen biết từ thuở xa lắc xa lơ, hồi bà mới về nhà chồng. Hồi đó, chồng bà làm tá điền cho ông Chánh tổng Ban, thường gọi là Chánh Ban, cha của Bảy Diện. Tới mùa gặt, sáng sáng Chánh Ban đội nón chóp đồng quai xuyến, áo gấm có đính thẻ bài, quần lãnh trắng, giày da, cỡi ngựa rảo một vòng khắp cánh đồng, ra roi thị uy đám con mót xong mới đi làm việc làng. Công việc ngoài đồng do chính mấy người con của ông trông coi. Hồi đó, Bảy Diện là trai tơ, ăn nói lắm lúc như phang côn bửa củi, nhưng được cái tánh xuề xòa, dễ dãi, nhứt là với mấy cô thợ gặt vừa trẻ vừa xinh. Ông không mấy để tâm tới chuyện coi gặt, ngày chí tối theo hát hò với mấy cô thợ gặt chưa chồng từ làng khác đến. Các cô cũng không phải tay vừa, xúm nhau mời ông ăn trầu, có lúc vờn ông như mèo vờn chuột. Chờ ông lơ đãng, các cô tha hồ tuồn lúa cho con mót là người nhà... Bây giờ Bảy Diện là bí thơ xã nhưng vẫn còn phảng phất nét của anh ''công tử nhà quê''. Vẫn nhai trầu luôn miệng, vẫn bận quần py-gia-ma trắng rộng ống, màu cháo lòng, guộn lưng. Có khác chăng, thay vì đội mũ cối trắng, bận áo py-gia-ma trắng, ông lại đội mũ bộ đội, bận áo bộ đội và thay đôi guốc mộc bằng đôi dép cao su đúc. Cách ăn nói của ông cũng giống như thời trai trẻ, chỉ hơi khác là ông thường chêm tiếng ngoài Bắc vô lời nói, lại chuyện gì cũng xen “chánh trị” vô được. Đó là nhận xét chung của bà con trong làng, trong xã.         
               Thiệt ra tới năm bảy lăm, vài tháng sau biến cố lịch sử, cả làng mới dám chắc rằng Bảy Diện đi làm “cách mệnh” thiệt. Xưa kia, có người  phao tin ông sống tận bên Tây, giống như người anh cả của ông là Hai Thể. Ở cương vị một bí thơ xã và là người của xã, Bảy Diện lần lượt đi thăm từng nhà những người quen biết, những tá điền, những người làm mướn và cả những người đã từng ở đợ cho gia đình ông ngày trước. Có nhà đón ông tận ngõ, có nhà dè dặt không muốn tiếp. Ông tới thăm gia đình bà Năm Xoan. Ông Năm Xoan bị bệnh liệt nửa người đã mười năm, ăn nằm một chỗ cũng rán sai thằng Đính, đứa con út, đỡ ông ngồi dậy để tiếp “cậu Bảy”. Cũng giống như khi tới thăm những nhà khác, Bảy Diện thăm hỏi cặn kẽ cách làm ăn sinh sống của gia đình bà Năm Xoan trước kia. Bà tình thiệt kể hết ngọn ngành. Sau đình chiến năm tư, chồng bà làm thợ đốt lò gạch. Nhờ nghề này, gia đình cũng đủ sống. Lần lần hai ông bà xin được một rẻo đất làng, khéo dành dụm nên cất được cái nhà ngói vừa đủ chỗ ở, vừa đủ chỗ thờ ông bà…
               Tình trạng kinh tế gia đình của bà Năm Xoan đương lúc ngặt nghèo. Bà không thường xuyên buôn thúng bán bưng như trước, phần vì khó kiếm đồng lời đủ mua gạo trong ngày, phần khác bà cũng sợ bị ''cải tạo''. Mỗi lần đi họp xóm, họp thôn mấy ông cán bộ đều hô hào: “Bàn tay ta làm nên tất cả. Có sức người sỏi đá cũng thành cơm (1)”. Ai cũng phải trồng lúa, trồng khoai, rau đậu, nuôi heo, nuôi gà... cho nhiều. Buôn bán là một hình thức người bóc lột người. Ai cũng phải tăng gia sản xuất, lao động để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Ai chây lười không chịu lao động là những người ăn bám xã hội, sẽ đưa đi cải tạo lao động! Bà trưởng ban thôn - chẳng phải ai xa lạ, người đã từng ngồi chợ với bà Năm Xoan - còn mạt sát những người buôn thúng bán bưng là những ''kẻ lết chợ''. Bà Năm Xoan nghe mà xót ruột, tủi thân. Muốn làm ruộng cũng không có ruộng để làm. Trong xã đã phân chia ruộng đất cho người nghèo, nhưng gia đình bà Năm Xoan không thuộc diện được cấp phát. Lúc bình xét, bà con nêu lý do là nhà bà xưa nay không sống bằng nghề nông. Con Trang và thằng Định phải bỏ học, theo người trong xóm, lên tận Hòn Dựng phát rẫy trồng bắp, trồng mì.
               Phải chăng vì lòng tốt mà Bảy Diện muốn giúp đỡ gia đình người tá điền cần cù, chất phác của cha ông ngày xưa? Ông nói: 
               - Ta làm rẫy có giỏi lắm cũng chỉ được vài mùa thôi. Ông bà mình đã nói làm rẫy thì bái dài kia mà, khó ăn lắm! Còn buôn bán riêng lẻ thì không hợp với xã hội ta nữa rồi chị Năm à. Tôi thấy chị nên sống lại với ruộng đồng đi. Tôi biết xưa kia chị cấy gặt có tiếng, bằng sức đàn ông chớ có thua đâu. Nói thật với anh chị, tôi còn hai sào ruộng Gò Chùa của ông bà để lại. Xưa nay thì thằng cháu nó làm nó ăn. Khi tôi về, nó giao lại. Anh chị cũng biết, tôi thì bận họp hành, bận trăm công ngàn việc, không có thì giờ ăn ngủ có đâu thì giờ nghĩ đến chuyện trồng cây lúa, cọng rau. Vợ tôi ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa là dân biển, chẳng biết gì chuyện ruộng đồng. Xã ta ruộng thì ít, chẳng lẽ mình bỏ ruộng hoang? Bỏ ruộng hoang không khéo bà con sẽ cười vào mặt ông bí thơ chớ chẳng đùa đâu. - Bảy Diện cười hà hà, hết sức cởi mở. - Chị và các cháu muốn làm thì tôi để cho làm...         
               Bà Năm Xoan lưỡng lự trả lời suông:         
               - Cậu Bảy nói vậy thì tui cám ơn, nhưng để tui tính lại coi.         
               Sau đó, bà hỏi ý kiến con Trang và thằng Định. Hai đứa muốn giúp bà bớt tảo tần hôm sớm, đỡ một phần lo miếng ăn cho gia đình, chúng bàn với bà nên nhận. Bà Năm Xoan đắn đo ghê lắm. Bà nghĩ chẳng lẽ Bảy Diện điên khùng mà đem của tới cho không mình. Trong gia tộc ông còn con cháu cả đàn, sao ông không để cho họ làm? Thừa trong nhà mới ra người ngoài chớ!... Nếu mình làm, họ ganh họ phá thì sao?
               Nhưng thằng Định giải thích cho bà biết đã “đổi đời” rồi. Mọi người đều bình đẳng. Ai làm nấy ăn, không ai phá ai. Nó còn nói chánh trị với bà: ''Ai phá hoại sản xuất là phá hoại cách mạng, sẽ bị đưa đi cải tạo liền''. Còn con Trang thì cứ khăng khăng cho rằng những người làm cách mệnh không hề nghĩ tới của riêng tư, họ chỉ biết lo cho dân thôi. Nó nói: ''Ông Bảy sẵn sàng đưa ruộng cho mình làm mới đúng là người cách mệnh thiệt chớ không phải cách mạng theo kiểu bà trưởng thôn đâu''.  
               Bà Năm Xoan đâu có biết cách mệnh thiệt, cách mệnh giả ra sao. Bà tin rằng mấy đứa con bà có học nên chúng hiểu cách mệnh hơn bà. Bà nghe xuôi tai. Vậy là bà tới nhà Bảy Diện. 
               Bà Năm Xoan nhớ lại ngày đầu tiên sửa soạn tới nhà Bảy Diện mới tức cười làm sao! Bà cứ đinh ninh muốn xin nhận ruộng thì phải đi lễ cho chủ ruộng giống như ngày xưa chồng bà đi nhận ruộng của ông Chánh Ban. Bà mua một xị rượu trắng và têm trầu, bửa cau gói trong một tờ giấy đỏ. Lúc bà bỏ của lễ vô giỏ thì con Trang thấy được. Nó hỏi bà đem đi đâu? Bà cho nó biết ý định, nó cười lăn và nói: ''Trời ơi! Má muốn bị phê bình, kiểm điểm sao? Cách mệnh chớ phải “ngụy” đâu mà đem lễ vật ra mắt?''. ''Cách mệnh” hay “ngụy” gì cũng phải lấy lễ nghĩa làm đầu chớ''. - Bà Năm Xoan nghĩ thầm. Nhưng bà sợ bị đem ra trước Hội Phụ nữ phê bình thì mất mặt lắm. Bà đành đi tay không và cảm thấy ngường ngượng... Tới nhà không gặp Bảy Diện, vợ ông vồn vã tiếp bà ở nhà trên, nhà từ đường của ông Chánh Ban để lại. Bà Bảy Diện mời bà ngồi trên ghế xa-lông bằng gỗ cẩm lai mới tinh, mát lạnh.  
               Bà Bảy Diện nói:      
               - Xin lỗi chị, nhà em bận họp trên tỉnh ạ. Chị là... 
               - Tui là vợ Năm Xoan ở xóm trên.   
               - Em mới về nên chưa biết hết bà con bên chồng. Chị bỏ quá cho em nhé!         
               - Tui với cậu Bảy là chỗ hàng xóm thôi. Nhà tui hồi xưa làm ruộng cho cụ Chánh.
               - Vâng... vâng... Em nhớ ra rồi. Em có nghe nhà em nói... Tội nghiệp cho ông nhà quá phải không chị? Em tính hôm nào rảnh sẽ đến thăm gia đình anh chị cho biết. Ông bà ta bảo làm dâu một nhà là làm dâu trăm họ phải không chị? Thật em có lỗi với làng xóm quá!    
               - Thời buổi này có ai rảnh rang đâu chị. Tui cũng tất bật từ sáng chí tối.
               - À, xin lỗi chị nhé! Chị đến chơi nhà em thôi hay có việc gì không ạ?
               - Chẳng giấu gì chị. Bữa trước cậu Bảy có lên nhà chơi, thấy hoàn cảnh nhà tui, cậu thương tình muốn giúp...    
               - Vâng... Nhà em có tính hay giúp đỡ người khác lắm chị ạ. Hồi ở quê em, ông nhà em làm chủ nhiệm hợp tác xã đánh cá hơn mười năm trời, giúp không biết bao nhiêu người có “đài”, có xe, nhà gạch, nhà ngói... Thế mà ông nhà em thì chẳng có gì cả chị à. Đã vậy, cuối cùng còn bị chúng vu oan là quan liêu, là mệnh lệnh, là tham ô, là móc ngoặc. Chị nghĩ có tức anh ách lên không chứ? May mà vừa giải phóng đất nước, ông nhà em xin về Nam ngay.        
               - Sự đời mà chị! Người ta nói cứu vật vật đền ơn, cứu nhơn nhơn trả oán.          
               - Vâng... Thế anh chị có cháu nào ''công tác'' cho nhà nước chưa?
               - Đứa lớn ở xa, ở nhà còn hai đứa nhỏ đương đi học dở dang. Tụi nó ham làm lụng xưa nay nên muốn nhận hai sào ruộng Gò Chùa của anh chị để làm.      
               - Có thế mà chị không nói ngay từ đầu. Nhà em đã hứa thì chị cứ sai cháu đến mà làm chứ ạ. Ruộng nhà em đã chia cho mỗi người làm một mảnh. Nhà nước chia ruộng cho dân mà ta giữ ruộng để làm thì sẽ bị chúng quy vào tội địa chủ chị ạ. Nhà em lúc nào cũng triệt để cách mạng, ''ứng dụng'' đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước. Có thế nên khi ở ngoài Bắc bọn phản động chúng ghét, chúng mới chống phá nhà em đến cùng đấy chứ.   
               Bà Năm Xoan nghĩ bụng: té ra có nhiều người nhận ruộng của Bảy Diện. Ruộng Chánh Ban chiếm hết nửa xóm này chớ phải ít đâu. Riêng phần Bảy Diện được hưởng ít ra cũng gần chục mẫu. Vậy mà ông để cho dân làm hết thì quả thiệt là cách mệnh!    
               Bà nói:           
               - Cám ơn anh chị. Vậy chớ mấy người kia làm, tính sao với anh chị?
               - Tính sao là thế nào ạ? À... à... Chị nói em hiểu ra rồi. Nhà em thì chỉ muốn giúp đỡ bà con thôi, nhưng có phải một mình ta đâu, còn vướng mấy ông nhà nước vào đây nữa chứ. Thế nên mỗi vụ mỗi sào chị góp năm giạ lúa khô để nhà em đóng thuế cho nhà nước thôi.      
               Không bò cày, không máy bơm nước, không bình xịt thuốc trừ sâu, không lúa giống. Ba mẹ con bà Năm Xoan phải chạy ngược chạy xuôi, năn nỉ người này, ỉ ôi người khác để nhờ giúp phương tiện canh tác hai sào ruộng Gò Chùa. Tới vụ thu hoạch đầu tiên, nhờ trời thương, kết quả khả quan. Hai chị em mừng lắm. Lần đầu tiên trong đời chúng mới thấy gia đình tự tay làm ra được một số lúa lớn như vậy. Chúng nghĩ đúng là đổi đời. Riêng bà Năm Xoan không mừng như hai đứa con. Khi lúa đổ vô thùng rồi, nằm đêm bà nhẩm tính, trừ hết công cán này nọ chỉ còn lại vỏn vẹn mười giạ, gần bằng số lúa phải đong cho Bảy Diện. Vậy thì lấy gì ăn cho giáp hạt? Lấy gì để làm vụ tiếp. Bà biết những người trong xóm được nhà nước cấp ruộng, mỗi mùa chỉ nạp thuế từ mười tới mười lăm ký trên một sào là cùng. Bà thấy kết quả không xứng với công ba mẹ con đã đổ ra trong ba bốn tháng ròng. Bà tính toán cặn kẽ cho con Trang và thằng Định thấy rõ như vậy. Hai đứa lại át đi:         
               - Thời buổi này mà má còn tính hơn thua. Người ta đã bỏ cả một đời đi làm cách mạng để giành độc lập, tự do cho mình, giải phóng mình khỏi bị bóc lột, người ta có tính toán gì đâu. Ai cũng như má thì mình bị kềm kẹp hoài.
               Bà Năm nổi đóa:       
               - Tao “kềm kẹp” ai? Làm ăn không tính có nước lượm đất cục vô ăn.
               Hai đứa đành im, mặt buồn buồn. Bà cảm thấy thương con mà nguôi giận. Bà nghĩ: ''Thôi, phải ăn theo thuở ở theo thời. Người ta lao động chẳng lẽ mình không lao động? Được chăng hay chớ''. Bà tiếp tục làm mùa thứ hai. Mùa lúa tháng tám này coi bộ khó ăn. Mọi người thấy tiết trời mà suy như vậy. Suốt cả năm ngoái, chỉ mưa vài trận không thấm đất. Mới tháng ba mà trời cao vòi vọi. Nắng bốc hơi đất. Trưa đứng bóng, nhìn mặt đường nhựa long lanh như mặt nước hồ. Sông Con bắt đầu cạn, đứt từng đoạn nước. Lớp bùn non trên mặt sông đã khô trắng và bong ra như vết da người bệnh phù thủng. Mặt ruộng cùng chung số phận. Thôn họp dân, một mặt kêu gọi bà con rán tăng năng suất, làm tốt nghĩa vụ lương thực trong vụ tám, một mặt lại báo động với bà con chuẩn bị chống hạn hán, sâu rầy. Nhưng chống bằng cách nào thì thôn không nói rõ, chỉ nói chung chung rằng bây giờ ta làm chủ đất nước rồi, độc lập rồi, ta phải tự lo là chính! Bà Năm Xoan nghĩ lâu nay mình tự lo cho thân mình chớ có thấy ai lo đâu mà nói làm chủ với không làm chủ. Ruộng Gò Chùa vốn là đất thổ, nằm trên cao, không ăn nước tự chảy được, bây giờ sông cạn, mương khô lấy nước đâu mà tát? Liệu “thay trời làm mưa” như mấy ông Nông hội nói được không? Lo là lo sao đây? Khi đời sống dễ thở thì người ta dễ giúp nhau, nhưng tới khi khắc nghiệt thì ai cũng ''co'' lại hết. Mùa trước, nhờ Bảy Diện nói giúp, bà Năm Xoan bắt mạ ké trên sướng mạ của Tiến Hơn. Mùa này Tiến Hơn từ chối. Vậy là bà đành ủ mạ trong nhà. Cách này không biết ai đem phổ biến trong xã lần đầu, nhiều người đương làm thử. Mạ sắp tới ngày cấy thì chưa mướn được bò cày. Như Hai Nhã là chỗ quen thân, bà cũng không nhờ được. Bà chạy đi mướn máy cày tay trong xóm, họ chê đường xa, ruộng ít không cày. Hết chỗ chạy, cuối cùng con Trang và thằng Định phải ngày đêm nai lưng cuốc cho kịp mạ cấy. Từ thuở cha sanh mẹ đẻ tới giờ, bà có thấy ai cuốc ruộng để cấy đâu. Đúng là cách mệnh đổi đời!... Rồi tới chuyện nước. Cũng may là Tiến Hơn nhận bơm suốt vụ lấy lúa công như những người khác, với điều kiện bà phải xin thầy Năm Hưng, trụ trì chùa Nghĩa Hòa, đào một con mương nhỏ băng qua vườn chùa để bơm chuyền nước từ Bầu Sen lên... Vất vả đủ điều, cuối cùng ruộng cũng kịp ngày cấy. Bà Năm Xoan nhẹ cả người. Nhưng cái lo này chưa hết thì cái lo khác chực ngoài ngõ. Mạ ủ trong nhà đóng thành bè, không thể đem xuống ruộng như mạ bó được, phải rứt ra từng dề một, gánh dần. Khi cấy lại rứt từng dề nhỏ bỏ trong thau, cấy tới đâu đẩy theo tới đó. Mạ non cắm xuống ruộng cứ ngã bè bè trên mặt nước như vừa chịu một trận mưa dội bùn sau cơn lụt. Chừng một tuần sau, mạ bén rễ vụt trổi dậy xanh mượt. Mẹ con bà hả dạ, tiêu tan hết nỗi khó nhọc ban đầu. Càng ngày lúa càng tốt mã, ai thấy cũng trầm trồ khen. Mùa này, ba mẹ con bà cố công cố sức đạt năng suất cao hơn mùa trước mới mong đủ gạo độn với khoai củ để ăn tằn tiện tới ngày giáp hột. Lúa trổ oằn trái me, con Trang và thằng Định sung sướng nói với bà:        
               - Chắc ăn rồi đó má. Trời không phụ công con nhà nghèo.           
               Bà biết làm ruộng thì khi hột lúa ngoài đồng biến thành hột cơm nuốt vô bụng mới nói chắc ăn. Nhưng qua được chặng nào mừng chặng nấy. Ruộng bỏ nước chờ ngày gặt thì đột nhiên có tin rầy nâu xuất hiện, đương phá hoại tan hoang các cánh đồng trong xã. Ba mẹ con bà sửng sốt. Dịch rầy! Nỗi ám ảnh kinh hoàng của người nông dân ở tỉnh này trong vụ hè thu năm 1973 bây giờ tái xuất. Chúng lan nhanh như vũ bão, không cách gì ngăn nỗi. Chúng ám vô đám ruộng nào thì lúa ruộng đó cháy khô, coi như mất trắng. Chỉ trong vòng một ngày đêm thôi, chúng hút hết nhựa sống của cây lúa đồng thời cũng hút sạch niềm hy vọng của con người. Lúa đứng chết khô ngoài đồng dưới nắng trời gay gắt. Chỉ cần một mồi lửa thôi, trong phút chốc có thể đốt cháy cả cánh đồng lớn. Khi nhìn thấy đám ruộng của mình rủ rượi, bà Năm Xoan dậm chân kêu trời rồi ngất xỉu ngay trên bờ ruộng. Bao nhiêu công sức đã đổ hết xuống sông xuống biển đã đành, lại còn mang nợ vào thân! Bà quẩn trí và đâm ra nói lịu từ bữa đó...       
               Bây giờ ngồi trước mặt bà Bảy Diện, bà ủ rủ trong lòng, hết mở miệng nổi. Bà Bảy Diện vừa nhai trầu vừa hỏi: 
               - Mùa này chị thu hoạch được bao nhiêu nói cho em mừng với?
               Bà Năm Xoan cười chua xót, trả lời:
               - Thiếu một trăm giạ đầy chín chục chị à.  
               Bà Bảy Diện nghe không rõ câu, ngạc nhiên hỏi:  
             - Được bằng ấy cơ à! Thế thì chị cám ơn nhà em mới phải. Nếu mùa này ông nhà em nhất trí cho chị trả ruộng lại thì có đâu chị kiếm được bằng ấy. Chị làm ruộng của nhà em là may mắn lắm nhé! Chứ em nghe ai cũng than van mất sạch. Bọn họ được của, sợ người khác biết...              Nghe bà Bảy Diện nói, nước mắt bà Năm Xoan tự nhiên trào ra. Bà vội kéo vạt ống quần lên chùi. Bà Bảy Diện đâm ra chưng hửng.          
               - Sao thế cơ? Hay là chị...    
               - Hổng sao hết chị à. Thiệt còn miệng ăn mà không còn miệng nói. Trắng tay rồi chị. Bây giờ tui không biết tính sao với anh chị. Nhờ chị thưa với cậu Bảy rán cho mẹ con tui thư thả một thời gian...
               Bà Năm Xoan vừa khóc tức tưởi vừa nói.               
              Bà Bảy Diện ngồi thừ người ra, chăm chăm nhìn dáng điệu thiểu não của bà Năm Xoan. Trong ánh mắt của bà Bảy Diện vừa có chút thương cảm lại vừa có chút hồ nghi.


               2


               Ba mẹ con bà Năm Xoan đương ngồi quanh rổ khoai mì luộc và cối muối ớt, chưa kịp ăn đã nghe tiếng chó sủa rộ lên ngoài ngõ và tiếng người văng vẳng: ''Gâu.. gâu... gâu... hừm... hừm... gâu... Nhà có chó đẻ sao không yết bảng. Chủ nhà coi chó giùm đi!.. Chà, con chó này muốn đập củ sả vô đầu!..''
               Bà Năm Xoan hỏi con:         
               - Ai nói cái gì ngoài ngõ vậy bay?   
               Định nghe tiếng biết ngay là Quí, liền trả lời:
               - Anh Quí, du kích xã.           
               Bà Năm Xoan bật cười:        
               - Cái thằng! Cái miệng lúc nào cũng đi trước cái chưn.    
               Vừa nói dứt câu, bà đã thấy thằng Quí đứng chình ình như ông phỗng trước hiên, mặt nó tỉnh rót. Khi bắt gặp cái nhìn nhơn hậu của bà Năm Xoan, Quí làm bộ khúm núm, hai tay chắp trước ngực, đầu cúi rạp:
               - Cháu xin lạy bác ạ... ạ...      
               - Thôi, đừng có xạo mày. Tao không giỡn mặt với mày được đâu.
               Định và Trang cùng lên tiếng:          
               - Mời anh Quí ăn ''chả giò''. 
               - Ồ, tưởng gì chớ ''chả giò'' hồi ở bên Tây anh ăn ớn lắm rồi.       
               Quí vừa nói, vừa lắc đầu, rồi ngồi xề xuống rổ khoai mì, lanh tay bốc một củ còn nóng hổi. Cái nóng bất thần làm Quí rút tay lại, nắm lẹ hai ngón tay vô lỗ tai, miệng xuýt xoa:     
               - Mấy người trác tui phải không?    
               - Ai biểu láu táu. Cho chừa cái tật háu ăn đi.          
               Quí đá lông nheo với Trang, xuống giọng cố ý chọc:        
               - Thôi mà em Trang ơi, trách làm chi cho thêm buồn thêm tủi người đã từng nằm mùng chống muỗi, để tối anh đập đầu vô gối ngủ một giấc ơ... ngon.... ơ... lành...  
               Trang nghiêm giọng nói:      
               - Nè, ăn nói phải giữ mồm giữ miệng đó nghe! Ai anh em với ông?        
               Bà Năm Xoan muốn tạo không khí vui vẻ, nói giải hòa:    
               - Thôi, đừng có bày đặt. Ăn đi mày, cứ ăn cho no bụng rồi ca vọng cổ cho tao nghe với!         
               Bên ngoài trời đã tối hẳn. Trong nhà chỉ có một ngọn đèn hột vịt thắp bằng dầu cặn sáng lờ mờ. Cột khói nhỏ đen ngòm mang theo hơi dầu bay lên làm cay xè cả mắt. Quí nhìn rổ khoai mì đầy, biết đây là bữa ăn chiều của nhà bà Năm Xoan, tự nhiên cậu cảm thấy xốn xang và hối hận về chuyện đùa cợt của mình vừa rồi. Cậu vội móc túi lấy ra một lá thơ, cầm hai tay đưa cho bà Năm Xoan.        
               - Có thơ của bác đây.
               Định và Trang cùng reo lên, mừng rỡ. Trang nói:  
               - Chắc là thơ của anh Ba đó má. Má cho con coi...
               Bà Năm Xoan vẫn cầm chắc lá thơ, mắt nhìn xa xăm, im lặng. Khi Trang lấy lá thơ ra khỏi tay bà rồi, bà mới thốt lên:    
               - Ờ, anh Ba của mấy đứa mày. Thằng Trung con tao. Vậy mà tao cứ tưởng...
               - Đúng là thơ của anh Trung, chớ má tưởng gì?      
               - Thơ của anh mày thì đọc lên nghe coi.     
               Quí đứng lên, chào cả nhà ra về. Bà Năm Xoan giữ lại.    
               - Ở chơi, ăn củ khoai đã con. Mày lại làm khách nữa.       
               Định nắm tay Quí kéo lại, liến thoắng nói: 
               - Ảnh giận chị Trang đó má. Ảnh đem tin vui tới mà không ai cám ơn một tiếng. Vuốt giận nghe anh Quí.  
               Định đấm thình thịch sau lưng Quí rồi ấn cậu ta ngồi xuống. Quí lúng túng, nhưng lại quen tật pha trò:  
               - Đừng nghe những gì thằng Định nói, mà hãy nhìn những gì thằng Định làm, bác ạ. Con mà giận ai thì sáng mai con sẽ đi đầu xuống đất.     
               Nghe Quí thề, Định khoái chí cười:
               - Sáng nào tập thể dục anh chẳng trồng cây chuối, thề làm gì cho mang tội.
               Bà Năm Xoan bật cười. Trang không thể làm nghiêm được nữa, cũng cười theo.
               Quí với tay bưng cây đèn trên bàn để trước mặt Trang, không nói lời nào. Trang xé thơ. Bà Năm Xoan vội đưa tay ngăn lại:    
               - Khoan đã. Tui bay rộn lên rồi quên đầu quên đuôi hết. Thằng Định kêu cha mày dậy, mời ổng nghe với.
               Quí giúp Định dìu ông Năm Xoan từ trong giường ra đặt ngồi trên ghế, lưng dựa vô tường. Ông còn ngái ngủ, bà Năm Xoan phải nói lớn để gây sự chú ý cho ông:
               - Ông nghe thơ của thằng Trung nè. 
               Ông run run nửa người, nụ cười hiện dần lên đôi mắt. Rồi ông bập bẹ:
               - Thằng Trung... thằng thằng Trung hả? Chừng... chừng nào... nó về...?
               Trang đưa lá thơ sát vô ánh đèn, đọc một hơi. Bà Năm Xoan thấy Trang ngừng đọc, lên tiếng:
               - Ủa, chừng đó thôi hả mày?
               Trang hớn hở trả lời: 
               - Dạ, anh Ba nói sẽ xin về quê công tác hẳn trong nay mai. Bà Năm Xoan bỗng thở dài. Những giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má nhăn nheo của bà. Bà cố nén tiếng khóc, nói với giọng hờn mát:           
               - Cái thằng! Cho nó ăn học uổng công.       
               Định ngạc nhiên:       
               - Sao má nói vậy?      
               - Nói sao? Chữ nghĩa của nó có thua ai ở trong làng trong xã này đâu. Vậy mà thơ nào về nhà cũng vỏn vẹn một tờ giấy không đủ chùi đít. Không nghe nó nói sống chết ra sao hết. Thiệt là đồ bất hiếu!         
               Định biết mẹ mình hờn mát vậy thôi, chớ thiệt tình bà đương mừng vô cùng.
               - Má cứ nói...
               Quí liếc trộm bà Năm Xoan, thấy gương mặt bà đã tươi tỉnh, nó mạnh miệng:
               - Cuộc sống hôm nay no đủ là nhờ củ với khoai, sống lai rai nhờ khoai với củ, chớ có gì đâu mà bác phải lo cho anh Trung.
               Bà Năm Xoan vừa cười, vừa mắng: 
               - Mồ tổ tụi bay. Lúc nào cũng giỡn được hết. Thằng Trung nó về đây rồi thì liệu hồn...
               Bà đứng dậy, vui vẻ kề miệng vô tai ông Năm Xoan hỏi:  
               - Ông có nghe được cái gì không?  
               Ông Năm Xoan run run nửa người, sung sướng nói:          
               - Được... được... Thằng Trung về... thằng Trung về...
              

               3


               Chiều nay, Tiến Hơn tới nhà Bảy Diện có hai việc, việc nào cũng quan trọng. Số là người em rể của Ba Rền, cha Tiến Hơn, đi công tác ở Hà Nội mới về, đem biếu cho ông một chai rượu Lúa mới. Ba Rền vẫn quen xài rượu Mỹ, trong nhà ông còn nguyên hai thùng Johnny Walker đen mà Tiến Hơn đã ''chôm'' được ở chợ Tròn ngay từ ngày đầu thành phố rơi vô tay Việt Cộng. Đã hai năm sống dưới chế độ này, Ba Rền vẫn chưa quen dùng sản phẩm của phe xã hội chủ nghĩa. Ông cho rằng cái gì của phe xã hội chủ nghĩa đều là đồ ''dởm''. Vì vậy, ông sai Tiến Hơn đem chai Lúa mới làm quà cho Bảy Diện để tạ ơn việc ông ta cất nhắc con mình lên làm trưởng ban thôn, thay bà Hai Khế. Việc thứ hai là Tiến Hơn có ý định gạ Bảy Diện lấy lại hai sào ruộng Gò Chùa từ tay bà Năm Xoan để cho anh ta mướn trồng mía đường. Bảy Diện lâu nay quen uống rượu Thọ Nguyên đường cho đúng lập trường quan điểm, thỉnh thoảng có làm vài ly rượu mạnh, rượu chanh Hà Nội ở nhà vài người bạn chiến đấu cũ, giờ được chai Lúa mới thì khoái chí lắm. Sẵn hồi chiều, lúc đi làm về, ông mua được ký thịt heo rừng ở chợ Nhỏ, liền sai vợ làm một dĩa xào lăn để khui chai rượu, nhậu với Tiến Hơn tức thì.
               Tiến Hơn can:           
               - Thôi, mình uống rượu ''dăm bào'' cũng được, cái này bác để dành đãi khách.
               Nói vậy chớ Tiến Hơn cũng muốn thử cho biết mùi rượu Hà Nội, bằng không chỉ nghe mấy thằng bạn ca ngợi ''ngon hết sẩy'' mà phát cáu.                     Bảy Diện mở nút chai rượu, hương thơm bốc lên ngào ngạt mũi, khiến ông ngẫu hứng nói thơ: 
               - Rượu vào nhà hãy uống ngay, giống như cưới vợ phải liền tay. Chớ để lâu ngày nó bay... hơi mất.    
               Bảy Diện sai thằng cháu nội đem chiếc chiếu trải dưới gốc xoài sau nhà, bên cạnh bờ sông Quán Trường, rồi hái cho ông vài trái xoài xanh. Ông thích ngồi uống rượu ở đó, vừa mát vừa kín đáo. Ông rót rượu ra ly, nói với Tiến Hơn:   
               - Ta làm thôi. Chú mày thử thứ này bao giờ chưa? 
               Tiến Hơn gật đầu không mạnh lắm, trả lời:
               - Mới vài lần thôi, bác.         
               - Chú mày biết không? Hồi đánh Tây, tao có giai đoạn sống với đồng bào Rắclay ở Suối Thơm, cũng đóng khố mang gùi như họ, mình làm công tác dân giận (vận) mà. Ồ, uống rượu toàn bằng bát to. Ra Bắc, sống với dân biển uống bằng chén. Về đây, lại uống bằng ly con.
               Bảy Diện cười hì hì:
               - Người ta càng lúc càng... lớn ra, còn tao thì... teo dần.   
               Tiến Hơn thấy Bảy Diện lấy chén rượu để ví đời mình một cách chua xót, anh ta nghĩ ông già này chắc có chuyện bất mãn… Để đánh trống lảng, Tiến Hơn lên tiếng:
               - Bác sắp tuổi hưu chưa?      
               - Hưu từ ngoài Bắc kia chứ. Về đây, mấy ảnh ở trển yêu cầu công tác, mình phải chấp hành. Làm cách mạng là làm cả đời mà.           
               - Cháu thấy nhờ bác mà xã mình dễ thở hơn các xã khác.  
               Bảy Diện “xì” một tiếng rồi cầm một lát xoài chấm vô chén nước mắm đường đặc quánh, bỏ vô miệng nhai trệu trạo, vừa nhăn mặt vừa nói:
               - Mọi chuyện không giản đơn như chú mày tưởng đâu. Nó chua như xoài xanh và cay như ớt hiểm đấy, nhưng nó cũng ngọt như đường và mặn như mắm nữa. Cách mệnh mà! Chú mày biết không? Chủ trương, chính sách của trên tựa như hạt giống, không bao giờ sai, nhơn dân ta như đám ruộng, còn giới cán bộ như tao là người canh tác. Cùng một hạt giống, cùng một đám ruộng, người canh tác tốt thì dân nhờ, người không biết làm thì dân chết đói. Đói thì sanh lắm chuyện. Biện chứng cách mệnh nằm chỗ đó đó...        
               Trong lúc ông bí thơ xã nói chánh trị thì ông trưởng ban thôn cứ uống và cứ gắp đồ nhấm. Tiến Hơn không hề nghĩ mình làm chánh trị, anh ta chỉ nghĩ đến chuyện làm cách nào để tiền đẻ ra tiền. Sở dĩ anh ta nhận làm thôn trưởng là để bảo đảm phần ''tình hình chính trị bản thân'' trong lý lịch cá nhơn, dựa nó mà làm kinh tế thì thuận lợi mọi bề. Tiến Hơn mang máng nghe Bảy Diện nhắc tới chuyện ruộng nương, anh ta bắt chằm hỏi liền:  
               - Hai sào ruộng Gò Chùa hiện thời ai làm vậy bác?           
               Bảy Diện trợn mắt nhìn Tiến Hơn:  
               - Chú mày say rồi hả?           
               Tiến Hơn hiểu được ý Bảy Diện, vội đưa tay vuốt vuốt bàn chân của ông một cách thân mật:  
               - Làm sao say được bác ơi! Cháu tưởng bà Năm Xoan đã trả ruộng lại cho bác.
               Bảy Diện chép miệng:
               - Chậc, cái con mẹ lắm chuyện. Mình làm ơn mắc oán.    
               - Sao kỳ vậy bác?      
               Bảy Diện nhíu cặp chân mày rậm ri lại trông giống như hai con sâu rọm đương húc nhau, rồi lắc đầu nói:  
               - Thôi, cách mạnh là cách mạng. Uống là uống. Hai phạm trù triết học Mácxít - Lêninnít khác nhau.
               Thực ra, Tiến Hơn chỉ giả vờ hỏi thôi. Anh ta biết rõ ruộng bị rầy ăn mất trắng, bà Năm Xoan không có lúa đong tô cho ông bí thơ xã, lại đi than vãn với mọi người khiến ông bực mình. Chính phần lúa nước của anh ta bà cũng không biết lấy gì để đóng. Nhưng với anh ta, về khoản này, chẳng thiệt chút nào. Anh ta đã tính kỹ trong đầu rồi. Nếu mướn được hai sào ruộng Gò Chùa để trồng mía thì anh ta có được con mương dẫn nước sông mà mẹ con bà Năm Xoan đã bỏ công ra đào sẵn. Tiến Hơn nói dò ý Bảy Diện:          
               - Bà Năm cũng nghèo bác à, chẳng qua là tại thiên tai thôi. Chính cháu cũng muốn giúp bà...   
               - Giúp là một ''phạm trù'', còn kinh tế là ''phạm trù'' khác. Ruộng hư, nhà nước vẫn kêu thuế kia mà.   
               Tiến Hơn vừa cười vừa nói: 
               - Bác định xẻ thịt bả à?         
               Tiến Hơn không ngờ mình đã bắn ra một mũi tên trúng đích. Bảy Diện thấy chột dạ bèn cười khỏa lấp:  
               - Bả có thịt đâu mà xẻ, mày! Nói chơi vậy chứ chuyện ruộng nương tao luôn luôn đứng trên “lập trường giai cấp công nông binh”. Tất cả là do bà nhà tao, bà ấy muốn làm gì thì làm.       
               Tiến Hơn nghe, liền tỉnh rượu. Anh biết Bảy Diện luôn luôn giữ thế, những chuyện liên quan đến ruộng nương đều đổ dồn cho vợ. Anh ta nghĩ nếu không bàn dứt điểm với Bảy Diện hai sào ruộng Gò Chùa thì trễ mất thời vụ mía đường. Anh ta gợi ý:
               - Cháu vẫn biết chuyện ruộng nương là do tay bác gái lo, bác có thì giờ đâu mà lo tới. Nhưng tiện có bác đây, cháu muốn bàn với bác một chuyện...
               - Chuyện gì chú mày cứ nói.
               - Nghe nói bà Năm Xoan định trả ruộng lại cho bác, ý cháu muốn mướn dài hạn để trồng mía đường.  
               - Bả cũng chưa dứt khoát trả hay không. Mấy hôm nay tao có bàn với nhà tao nên lấy lại để trồng chuối già hương. Lâu nay, tao chưa nghĩ tới chuyện này vì thấy khó giải quyết khâu nước, nhưng hiện thời đã có sẵn con mương bà Năm Xoan đào, nhờ cậu bơm thì tiện vô cùng.    
               Tiến Hơn không ngờ Bảy Diện có cùng cái “quan điểm” tinh tường như mình. Anh nghĩ mình phải tìm cách thuyết phục ông ta, nếu không mình sẽ bị ông ta lợi dụng. Anh lên tiếng:     
               - Phong trào trồng chuối già hương bắt đầu xẹp rồi bác à. Hiện thời người ta đua nhau phá chuối trồng mía...     
               - Chú mày nói sao chứ tao thấy bên Phước Quang, Lạc Phong, Lạc Thiện, họ phá vườn cây lâu năm để trồng toàn chuối già hương, buồng nào buồng nấy dài cả sải tay, nhìn phát mê.     
               - Bác nói đúng. Nhưng vùng đó gần sông Cái, có hạn sông cũng không cạn. Họ không sợ hút nước... 
               Tiến Hơn ra vẻ ngập ngừng, rót rượu uống tiếp và ngồi im. Bảy Diện cũng đương tính nếu cho người khác mướn hai sào ruộng Gò Chùa để làm lúa nữa thì không có lợi bằng cho Tiến Hơn mướn. Hơn nữa, trong thời điểm này, ông có muốn trồng chuối để biến ruộng thành vườn trở lại để sau này khỏi đưa vô hợp tác xã thì cũng chẳng ai làm, chẳng ai chăm sóc. Tiến Hơn thấy Bảy Diện đương trầm ngâm, sợ ông tính thiệt hơn, bất lợi cho mình, liền hỏi: 
               - Sao bác?..    
               Bảy Diện trả lời theo sự suy tính trong đầu:          
               - Sao cái gì? À, chú mày muốn trồng mía trồng mật gì thì nên bàn với bà nội thằng Tâm.         
               Tiến Hơn biết khi Bảy Diện gọi vợ là “bà nội thằng Tâm” thì có nghĩa là ông đã ''vô cơ'' rồi. Anh cười đắc ý:    
               - Chớ bác quyết định không được hả?         
               - Chú mày, tao đã bảo thế mà!         
               Bảy Diện trách nhẹ Tiến Hơn rồi quay vô nhà kêu to:
               - Bà nó ơi! Ra đây tôi nhờ tí việc nào.        
               Đương nấu cơm trong bếp, nghe chồng gọi, bà Bảy Diện chạy ra vườn:
               - Ông gọi tôi có việc gì nào?           
               - Cậu Hơn muốn thuê ruộng Gò Chùa để trồng mía. Bà tính với cậu xem.          
               - Tôi đang nấu nhỡ bữa cơm, nhờ ông tính hộ.
               - À, hôm nay bà nhường tôi “làm chủ tập thể” phải không?
               Bảy Diện cười nịnh vợ, còn Tiến Hơn biết ngay lúc này anh phải làm gì. Anh cầm ly rượu của mình cụng vô ly của Bảy Diện, cười khanh khách:
               - Chúc bác phát huy quyền làm chủ tập thể.
               Bảy Diện gạt nhẹ tay anh ta ra, nói có vẻ nghiêm trang:
               - Tao không thích đùa như vậy.
               Bà Bảy Diện từ cửa nhà bếp nói vọng ra:
               - Tôi lưu ý với ông là con mẹ Năm Xoan chưa trả ruộng lại đó.
               Tiến Hơn vội nói theo:
               - Bác đừng lo chuyện này. Cháu chỉ nói với bà Năm Xoan một tiếng là bả trả ruộng lại liền.
               - Nói là nói thế chứ tôi cho mụ ta thuê từng vụ chứ có cho thuê đời đời đâu. Tôi chỉ sợ mang tiếng cho ông nhà tôi thôi.
               Bảy Diện cười khẩy:
               - Mang tiếng thì đã mang nhiều rồi… Thằng địch lúc nào cũng kích động quần chúng nói xấu cán bộ ta. Ta phải luôn “cảnh giới”, cậu nhớ đấy. Mà cậu biết “cảnh giới” là gì không? Cảnh là cảnh vệ, bảo vệ thành quả cách mệnh đấy. Còn giới là ranh giới. Nghĩa là ta phải luôn cảnh vệ để biết ranh giới đâu là địch, đâu là ta…
               Tiến Hơn nghe Bảy Diện nói chánh trị cười thầm trong bụng.  Anh ta nhớ lại hôm đi học lớp bồi dưỡng chính trị cho các cán bộ thôn xã ở thành phố, một “cán bộ gộc” hùng hồn kể tội ác Mỹ - Ngụy: “Mỹ - Ngụy nó cực kỳ độc ác, bởi thế, dân gian ta có câu “lửa cơ đốt thịt dao hàn cắt da”. Các đồng chí có biết lửa cơ là lửa gì không? là cơ điện đó. Lửa cơ là lửa đốt bằng điện. Còn hàn là gì? Hàn là hàn xì đó. Chúng nó dùng lửa hàn xì  đốt da đốt thịt nhân dân ta…”
               Bảy Diện uống hớp rượu cuối cùng, lên tiếng:
               - Thôi, về cái vấn đề đó ta thì sẽ bàn rộng sau. Bây giờ nói đến vấn đề cụ thể thì cậu tính thế nào?
               Như vậy là ổn. Một buổi nhậu thành công tốt đẹp. Tiến Hơn thoáng nghĩ trong đầu, anh mau miệng đi thẳng vô vấn đề:
               - Bác cho cháu thuê luôn hai năm. Nếu sau đó không có gì trở ngại cho đôi bên thì cháu sẽ thuê tiếp. Còn “cái khoản” đó thì tùy bác tính.
               Bảy Diện gật gật đầu:
               - Tùy bác tính Ý chú mày thế nào cứ nói thẳng ra.
               Tiến Hơn đưa ngón tay trỏ vuốt vuốt sóng mũi mình một đỗi rồi nói:
               - Cháu tính mướn hai năm sẽ trả lúa công bốn vụ. Mỗi vụ mười giạ như bác cho bà Năm Xoan thuê, vị chi bốn chục giạ, theo thời giá thành tám trăm đồng. Cháu sẽ trả trước cho bác một nửa. Bác muốn lấy lúa cháu trả lúa, lấy tiền cháu trả tiền.
               - Thế, trả luôn một lần không được à?
               - Bác thấy mùa này thiên tai sâu rầy, cháu chưa thu được hột lúa nước nào, đương chới với chưa biết xoay đâu ra lúa, ra tiền đóng thuế cho nhà nước…
               Bà Bảy Diện tuy bận nấu ăn trong bếp, nhưng vẫn theo dõi câu chuyện từ đầu, bèn chạy ra lên tiếng:
               - Chỗ chú mày với nhà tôi đã tin tưởng nhau lắm rồi, nên chi tiền bạc hay thóc lúa ta chả xem nặng, phải thế không ông? Bây giờ xin ông cho tôi tham gia ý kiến như thế này nhé! - Bà xuống giọng: - Nói thật với cậu, mấy hôm nay vợ chồng tôi bàn tính nhờ cậu hỏi mua hộ cho cái “vi-xi”.
               Tiến Hơn nghe nói cái “vi-xi” thì ngớ người ra, còn Bảy Diện chột dạ, vội chữa lời vợ:
               - Cái ti-vi chứ “vi-xi” vi xéo gì bà! - Ông cười giả lả rồi tiếp: - Bà nhà tôi mê cải lương lắm cậu à. Đêm nào ti-vi có cải lương là vội lê la sang nhà hàng xóm.
               Bà Bảy Diện nguýt chồng:
               - Cứ làm như ông không mê tí nào! Ừ thì cái ti-vi cậu Hơn à.
               - Cỡ nào bác?
               - Cỡ nhỏ thôi, vừa đủ tôi với nhà tôi xem, lớn quá mình chẳng có tiền.
               - Chú mày tìm mua cho tao cái 14 in-sơ là vừa.
               - Ông cái gì cũng sợ tốn tiền. Phải in cho rõ chứ in sơ sơ xem thế nào được. - Bà Bảy Diện cự nự chồng xong, tất tả chạy vào bếp: - Ối giời! Cái xoong thịt kho rim cho ông cháy cả rồi…
               Bảy Diện nhìn vô nhà bếp, xì một tiếng: “Cái bà!”. Ngay lúc đó Tiến Hơn che miệng mím môi cười. Nụ cười hợm hĩnh.  



                 4


               Trong bản đồ địa chính được thực hiện bằng không ảnh do chính quyền Sài Gòn để lại, cánh đồng Vườn Bí nhìn giống hình một trái bí đao khổng lồ. Đầu trái bí được phân định bởi con đường tư ích của xã Phước Đại, cũng là ranh giới giữa hai xã Phước Đại và Phước Chung, bắt đầu từ cầu xi măng chạy thẳng vô đường xe lửa men theo chân núi Hòn Dựng. Bên hông trái bí là một đoạn sông Quán Trường. Sông này xuất phát từ đập Hội Xương, chảy vòng tới cuối xóm Bàu Sen thuộc thôn Phước Điền thì rẽ qua phải, gặp cầu xe lửa số 5 mà người trong vùng gọi là Cầu Năm.
Cánh đồng Vườn Bí rộng hơn hai mươi hec-ta, chiếm một nửa diện tích ruộng toàn thôn Phước Điền và là một trong hai cánh đồng trọng yếu của xã Phước Chung.
               Nhà cửa của dân xóm Bầu Sen đều tập trung ở cuối cánh đồng, một nửa dân theo đạo Công giáo. Gần Cầu Năm có một nhà thờ công giáo xây cất từ thời thực dân Pháp chiếm đóng, cùng lúc với trại giam Cầu Quay ở bên kia sông Quán Trường. Nhà thờ nhỏ, không có cha xứ riêng. Chiều chủ nhựt hàng tuần, cha xứ người Pháp có tên Việt gọi là Cố Lực, từ nhà thờ Bình Tâm ở xã Phước Đại đi xe đạp sang làm lễ cho đại đội lính canh trại giam Cầu Quay gồm dân Ma-rốc, Nam Vang cùng số người đạo dòng tại đây.
               Số phận cánh đồng Vườn Bí gắn liền với số phận lịch sử của thôn Phước Điền và các vùng phụ cận. Theo lời truyền miệng thì nó nguyên là một cánh rừng thưa, toàn cây dại và lau sậy. Khi viên thượng sĩ Pierre, dân Pháp chính gốc, nhậm chức trưởng đồn Cầu Quay, ông ta nghĩ ngay tới việc khai thác vùng đất hoang sơ này. Ông ta đào một mẩu đất, đóng thùng gởi vô Sài Gòn nhờ một người bạn là kỹ sư thổ nhưỡng phân chất. Một thời gian sau, ông ta nhận được thư trả lời rằng vùng đất này thích hợp với mía đường. Vậy là quan quản Be (theo cách gọi của dân trong vùng) bắt đầu thực hiện kế hoạch của mình.
               Ông ta cho mời Chánh tổng Ban, cha của Bảy Diện, tới đồn và cho biết cần bảo vệ khu vực ga Phú Vang và trại giam Cầu Quay nên phải phát quang toàn bộ khu rừng trong vòng mười ngày. Chánh Ban gật gật đầu dạ dạ rồi về, tức tốc kêu hai xã trưởng Phước Đại và Phước Chung ra lệnh kêu xâu trong vòng bảy ngày phải làm xong công tác của “quan quản” giao. Hai xã trưởng cũng gật gật đầu dạ dạ rồi về, lệnh cho các hương cả huy động hết dân đinh trong làng phải dọn sạch cánh rừng trong vòng năm ngày.
               Tính ra chỉ có mười cái đầu từ tổng tới hương gật trong cùng một ngày mà khoảng thời gian phá rừng rút ngắn một nửa. Ngay ngày hôm sau có tới cả trăm dân đinh trong tổng đầu đội nón cời, quần xà lỏn, áo vải ta vá chùm vá đụp, lưng thắt mo cơm độn bắp với gói muối, đi chân đất, tay cầm rựa, lũ lượt tiến về cánh rừng.
               Quan quản Be đứng trên tháp canh, dùng ống dòm nhìn mấy ông hương ông xã quát tháo những người làm xâu phát dọn cánh rừng, hả hê trong lòng.
               Cánh rừng mới đó đã biến thành một vùng bình nguyên khá rộng.
Sau đó, thượng sĩ Be lại bắt những người “tù thường phạm” - thật ra họ chỉ là những người dân lương thiện mà mấy ông xã, ông hương cho là cứng đầu cứng cổ, bị bắt vô cớ mỗi khi đường dây điện thoại trong làng bị cắt hay có truyền đơn của Việt Minh - ngày ngày còng lưng dưới mưa nắng, ăn cơm hẩm cá thúi và “ăn” luôn những cái bạt tai, đá đít, những báng súng của đám lính Ma-rốc rạch mặt để dần dần biến vùng đất mới khai hoang thành vùng mía bạt ngàn.
               Gần tới ngày chặt mía ép đường thì một biến cố bất ngờ ập đến trại giam Cầu Quay. Một đơn vị đặc công Việt Minh phối hợp với tổ nội tuyến trại giam phá đồn, làm nổ kho xăng dầu dự trữ của lính Pháp, giải cứu được một số cán bộ Việt Minh bị Pháp bắt giam giữ.
               Sáng hôm sau, viên trung úy thanh tra người Pháp trên tỉnh xuống, mặt lạnh như tiền, ba xí ba tú với thượng sĩ Be rồi đến Chánh Ban và mấy ông xã, ông hương. Ông nào mặt mày cũng xanh như tàu lá chuối, không còn cái vẻ hùng hổ thường ngày, khúm na khúm núm: “Uy, mẹc-xì li-ơ-tơ-năng (2)” luôn miệng. Viên trung úy giận dữ chỉ tay vào cánh đồng mía: “Voilà Viet Minh, Viet Minh ici (3)”, rồi bất ngờ bật diêm đốt. Thượng sĩ Be sửng sờ, đứng trơ người như trời trồng.
               Cánh đồng mía cháy đỏ rực một góc trời, nổ lốp bốp như pháo mừng năm mới suốt một ngày một đêm. Đàn chim mía trú ẩn ở đây hoảng loạn như ong vỡ tổ, tan tác bay lên cùng đám khói mù trời thơm mùi đường đen. Chúng tìm chỗ nương thân ở làng Phước Điền và các vùng phụ cận, nhưng nào được yên thân. Bọn trẻ con và cả người lớn được dịp tha hồ giết chết bằng ná hoặc sỏi gạch, vặt lông, ướp muối ớt nướng ăn bằng thích.
               Rốt cuộc cánh đồng mía chỉ còn trơ lại những thân cây đen đủi chứa mật đường chín đặc.
               Rồi dân đinh trong làng lại phải đi làm xâu dọn dẹp cánh đồng mía cháy. Bọn Pháp bắt những người có xe ngựa trong vùng chở mía về dinh tỉnh đóng ở thành Phiên An, ép lấy nước đường cho ngựa chúng uống.
             Cánh đồng Vườn Bí lại trở thành vùng đất hoang. Chim chóc được dịp trở về nơi chốn cũ. Nỗi kinh hoàng chẳng còn đọng lại chút nào trong ánh mắt và tiếng hót líu lo của chúng.
               Chim chóc và lau sậy vô tình, nhưng đất Vườn Bí không vô tình, luôn âm thầm chịu đựng nỗi đau của riêng mình.
               Viên trưởng đồn mới, thay thượng sĩ Be, thường xuyên dẫn đám thuộc hạ đi lùng sục khắp vùng mà dân trong vùng gọi là “Tây đi lùng”. Hàng đêm, những thường dân mà chúng tình nghi có quan hệ với Việt Minh bị bắt buộc phải ngủ tập trung ở trại giam Cầu Quay. Ông Năm Xoan thuộc thành phần này. Có lần ông trốn lịnh, viên trưởng đồn liền cho lính tới nhà bắt bà Năm Xoan vào giữa đêm khuya. Bà Năm Xoan tay bồng đứa em của Trung mới sanh, tay dắt Trung lúc đó mới năm tuổi theo chúng xuống trại giam Cầu Quay làm con tin. Chúng dọa nếu ông Năm Xoan không tới trình diện vào sáng hôm sau thì sẽ cho Tây đen đốt nhà…
Người dân lành luôn sống trong tình trạng âu lo, còn đất đai thì phập phồng hơi thở khô khốc. Mỗi lần trong vùng xảy ra sự cố nghiêm trọng, dính líu tới tình hình an ninh của chánh quyền thực dân Pháp, thì viên trưởng đồn không cần đắn đo suy nghĩ, đem vài người tù chánh trị ra cánh đồng Vườn Bí xử bắn giống như một trò chơi! Xác của những người này, nếu có thân nhân nhận thì được đem về chôn cất, còn không thì chính bà con Phước Điền bó chiếu chôn ngay trên cánh đồng.
               Cánh đồng Vườn Bí bỏ hoang một thời gian khá lâu. Sau đó, thực dân Pháp giao hẳn cho nhà thờ Bình Tâm quản lý, từ đó có tên gọi là đất nhà chung.
               Sau Hiệp định Genève, đất nhà chung đã tiếp nhận hai chục gia đình công giáo di cư. Chánh quyền Ngô Đình Diệm cho cất hai dãy trại liền nhau bằng ván và tôn Mỹ viện trợ, chắn ngang đường giao liên trước kia của Việt Minh từ thôn Phước Điền vô cụm núi Chín Khúc, sau lưng dãy núi Hòn Dựng. Mỗi gia đình được chia một căn nhà trong trại định cư tập thể và năm sào đất nhà chung để canh tác. Nửa số đất còn lại, nhà thờ Bình Tâm vẫn phát canh thu tô cho những người trong họ đạo.
               Hai mươi gia đình này, trong năm đầu mới vô Nam, hàng tháng đều được nhận một số hàng do Mỹ viện trợ gồm bột mì, mỡ động vật và bơ đều đựng trong hộp thiếc - trọng lượng năm ký - in hình hai bàn tay bắt nhau. Họ đem những thứ này đổi lúa gạo hoặc bán rẻ cho dân Phước Điềm dùng nuôi heo. Mặc dù đất được chia nằm sát sông Quán Trường, nhưng vì không đủ phương tiện trồng lúa nên họ trồng toàn bí đao và các loại rau mầu. Vậy là tên Vườn Bí được dân chúng gọi trở lại thay cho đất nhà chung.
               Mối quan hệ giữa dân di cư và bà con Phước Điền không thân thiết lắm, có lẽ do khác biệt tín ngưỡng và cách sống. Họ dựng một cây cầu gỗ bắc qua sông Quán Trường để tiện việc đi lại. Hàng ngày, cứ tới 5 giờ sáng, chuông nhà thờ Bình Tâm đổ lần thứ nhứt, họ thức dậy đọc kinh sớm rồi gánh bí, rau đi bộ non cây số ra bến xe ngựa chợ Nhỏ để đưa xuống Chợ Đầm bán. Bà con Phước Điền không hề ăn rau quả của họ bởi lý do đơn giản là họ tưới bằng phân Bắc, tức phân người.
               Khi chánh quyền Ngô Đình Diệm thực hiện “Quốc sách Ấp chiến lược”, những người di cư hăng hái lên tận hòn Chín Khúc chặt cây rừng về vát nhọn đầu, làm hàng rào chận kín các ngả đường giao liên của Việt Cộng. Nhưng hàng rào chiến lược cũng không thể ngăn chận được Việt Cộng về làng. Một biến cố bất ngờ ập đến. Một đêm tối trời, một toán Việt Cộng về khu B thôn Phước Điền, bắt xã trưởng và trại trưởng trại định cư, chớp nhoáng mở “tòa án nhân dân” kết tội hai người này là ác ôn, bợ đít “Mỹ-ngụy”, phản bội nhơn dân, phản bội Tổ quốc, xử bắn ngay tại cánh đồng Vườn Bí trước sự chứng kiến của hơn năm mươi đại diện gia đình sống trong khu vực này.
               Ngay ngày hôm sau, hai mươi gia đình di cư tức tốc bỏ trại, bỏ cả hoa màu, khăn gói ra đi biệt tăm.  
               Tới năm 1965, khi Mỹ và đồng minh đổ quân lên Nha Trang, lập những căn cứ quân sự lớn ở Bình Tân, Cửa Bé, đèo Rù Rì thì bộ mặt vùng nông thôn giáp ranh đổi khác hẳn. Khá nhiều nông dân từ bỏ cuộc sống lam lũ trên ruộng đồng đi làm sở Mỹ. Chính thời điểm này, có một người chớp cơ hội làm giàu trên cánh đồng Vườn Bí. Đó là Ba Rền.
               Ba Rền bán chiếc xe lam chở khách trên tuyến đường Nha Trang - Thành, mua đôi bò cày cùng chiếc máy bơm nước hiệu Kohler của Mỹ, mướn năm mẫu ruộng Vườn Bí canh tác. Mỗi năm lão chỉ nộp cho nhà thờ Bình Tâm một tấn lúa khô. Tiến Hơn, con trai đầu của lão, năm đó mới mười tám tuổi, đương học lớp đệ tam trường Bồ Đề buộc ở nhà giúp việc đồng án. Ba Rền dụ con: “Mày học cho lắm rồi trước sau gì cũng đi lính, khổ như chó, mạng sống như chỉ mành treo chuông. Thà ở nhà phụ tao làm ra tiền, chạy cái giấy miễn dịch vĩnh viễn, sướng cái thân có hơn không?” Tiến Hơn học hành chẳng ra gì, bằng tuổi anh ta như Trung, con bà Năm Xoan, đã xong cái tú tài toàn phần, còn anh ta thì “ạch đụi” để kiếm cái bằng trung học cũng không có, nên nghe cha bàn xuôi tai là ưng liền.
               Thời gian này, phân bón và xăng dầu thừa mứa. Đồ viện trợ mà! Xăng chạy máy bơm nước, Ba Rền khỏi tốn tiền mua. Bạn tài xế và những người có ơn nghĩa với lão thường năm mười ngày đem biếu nửa hay nguyên “can” để dành xài không hết. Còn phân u-rê thì rẻ như bèo. Làm ruộng chẳng ai ngó ngàng tới phân chuồng, phân xác mắm như trước nữa.
               Cái khó của Ba Rền trong mỗi vụ mùa là việc tìm công thợ. Tiến Hơn phải chạy hông-đa lên tận Đại Điền, Phước Trạch hoặc ra tận Lương Sơn, Phú Hữu nhờ người quen hay bà con họ hàng tìm bạn cấy, bạn làm cỏ, bạn gặt. Muốn giữ chân thợ, Ba Rền phải ứng tiền trước cho họ mua sắm gạo muối, một phần để ở nhà cho gia đình, phần đem theo ăn làm trong mươi ngày, nửa tháng. Ba Rền là người biết tung tiền ra đúng lúc để mỗi mùa lão thu vô mười lăm hai mươi tấn lúa. Và của đẻ ra của, chẳng mấy chốc lão giàu phất lên, trong làng những người làm nông cố cựu có ruộng đất bề bề cũng không bì kịp.
               Khi Tiến Hơn đã cứng tay cứng chân trong việc ruộng nương thì vừa tới tuổi quân dịch. Mấy anh xã, anh thôn mon men gạ gẫm Ba Rền cho Tiến Hơn vô dân vệ để kiếm tiền hối lộ. Làm dân vệ chỉ phải đi trực chiến hàng đêm còn ban ngày hoàn toàn rảnh rang. Nhưng Ba Rền đã tính đâu ra đó rồi. Lão không dại gì cho bọn tép riu ăn mà mạng sống con lão không bảo đảm. Việt Cộng cũng đâu có tha dân vệ! Lão vẫn cho Tiến Hơn trình diện nhập ngũ. Tiến Hơn lên nằm ở Trại nhập ngũ số 2 một tuần thì được làm thủ tục khám sức khỏe. Xuống Quân y viện Nguyễn Huệ, bác sĩ cho nhập viện vì đau thần kinh tọa! Một tháng Tiến Hơn nằm ở quân y viện cũng là thời gian các bác sĩ trong Hội đồng y khoa mặc cả giá sinh mệnh của anh ta với Ba Rền. Mười lượng vàng bốn số chín! Vậy là Tiến Hơn có được tờ giấy chứng nhận miễn dịch vĩnh viễn lận lưng, không sợ làm bia đỡ đạn nơi chiến trường.
               Mấy anh xã, anh thôn biết Ba Rền chơi cao cờ nhưng đành ngậm bồ hòn, chỉ nói xỏ nói xiên mỗi khi ngồi cùng chiếu bạc với Tiến Hơn: “Tội nghiệp thằng Hơn, tướng nó vật “xì” cũng ngã mà bị thần kinh “tạ”. Hễ ráp sòng là ngồi chết tại chỗ, trời sập cũng không đứng dậy được”.
               Tiến Hơn ăn chơi cũng dữ mà làm việc cũng hăng. Ba Rền chịu thằng con giống rặt lão lắm. Những khi hai cha con ngồi chung sòng xì phé hoặc chơi cùng độ gà đá, lão thấy Tiến Hơn bao giờ cũng chơi lõi, nên rất tự hào. Bởi vậy, lão chẳng tiếc rẻ gì mười lượng vàng đã bỏ ra. Lão tin tưởng Tiến Hơn và bắt đầu giao hẳn công việc ruộng nương cho anh ta. Riêng lão, bỏ tiền mua lại chiếc xe tải chở thuê, trở lại nghề tài xế. Nói vậy chớ làm sao phụ nghề được, sở dĩ lão có của ăn của để trong nhà hiện giờ cũng khởi nghiệp từ anh đánh xe ngựa kia mà!
               Tiến Hơn nhận thấy cánh đồng Vườn Bí rộng như vậy nhưng thiếu hệ thống kênh mương. Nguồn nước chính để canh tác là con mương nhỏ nằm giữa cánh đồng. Con mương này ăn nước sông Quán Trường. Nhiều thửa ruộng xa nước, mỗi năm chỉ làm một mùa lúa gieo, ăn nước trời. Năm nào ít mưa, bỏ trắng. Những người canh tác một mẫu hoặc vài sào thì dùng máy bơm Kohler loại nhỏ, tới khi nước thiếu phải xin bơm chuyền từ ruộng kề cận, khó nhọc và tốn kém trăm bề. Anh ta tính, nếu đặt hai chiếc máy bơm dầu hiệu Yanmar loại cho năng suất cao trên bờ sông Quán Trường, có thể cung cấp đủ nước cho một nửa diện tích canh tác. Nếu những người làm ít ruộng, chịu cho anh ta lãnh phần bơm nước ăn lúa thì chỉ cần hai ba mùa, anh ta sẽ lấy lại vốn mua máy bơm. Vậy là anh ta ngỏ ý với họ. Mỗi mùa, sau khi gặt xong anh ta chỉ lấy năm phần trăm lúa nước tính trên sản lượng thu được của mỗi đầu ruộng. Họ nghe thuận tai, đồng ý liền.
               Tiến Hơn không bỏ lỡ cơ hội. Anh thương lượng với cha xứ nhà thờ Bình Tâm, đắp một con mương nổi từ bờ sông Quán Trường, chạy theo hình vòng cung bao quanh vùng ruộng anh nhận cung cấp nước.
               Tới kỳ sắp gặt, anh ta cùng chủ ruộng đi vòng từng thửa, cùng ước chừng sản lượng. Anh ta có tài đoán sản lượng thu hoạch chính xác tới nỗi ai cũng hết hồn.
               Công việc làm ăn đương ngon trớn đi lên, anh ta mua thêm một máy cày trung thì đúng lúc chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ban hành chánh sách “Người cày có ruộng”. Anh ta coi ti-vi thấy Tổng thống Thiệu đi xe “cuộc” ở Cần Thơ để quảng bá chánh sách này, chí khoái lắm. Nhà thờ không còn trọn quyền sở hữu cánh đồng Vườn Bí nữa vì nó nằm trong địa hạt xã Phước Chung chớ không phải xã Phước Đại. Dân công giáo bên xã Phước Đại xưa nay lãnh canh ruộng Vười Bí thì nay sẽ không được nhận ruộng nơi này nữa. Số ruộng dư ra, nhưng người cày ở thôn Phước Điền thì ít, nhiều người bỏ ruộng, bỏ làng trốn Việt Cộng về sống ở thành thị. Còn những nông dân nghèo, không có cày làm sao nhận được ruộng? Vậy là số ruộng công lại dồn về tay những phú nông kiểu mới như cha con Tiến Hơn. Tiến Hơn đã đãi đám quan chức từ xã tới tỉnh có quyền xét duyệt chứng nhận “người cày có ruộng” một chầu ở khách sạn - nhà hàng Lầu Bốn - một nhà hàng lớn nhứt, sang trọng nhứt vào thời điểm này -, nhậu mút mùa rồi bao cho mỗi anh một đứa em út, mướn luôn phòng khách sạn ngủ suốt đêm. Sau đó, Tiến Hơn nhận được giấy chứng nhận quyền sở hữu năm mẫu ruộng mà lâu nay anh ta lãnh canh.
               Khoảng giữa năm 1973, sau khi quân Mỹ rút quân về nước, chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu bị cúp viện trợ, nền kinh tế miền Nam mất thế dựa, đứng chông chênh, cùng lúc này nạn tham nhũng tràn lan như nước vỡ bờ. Xăng dầu lên giá chóng mặt. Dân làm biển có thuyền nhỏ ở Bình Tân, Cửa Bé, Xóm Cồn, Xóm Bóng, Phương Sài… chới với vì sở hụi một chuyến đi biển không đủ tiền xăng dầu, ngưng hoạt động. Ở nông thôn, lần đầu tiên từ thời cha ông khẩn hoang lập làng lập xóm tới giờ, lần đầu tiên xuất hiện đại dịch rầy nâu, phá rụi các cánh đồng lúa chín. Bọn đầu cơ gạo lợi dụng tình hình này, tăng giá gạo như triều dâng làm điêu đứng những người ăn gạo đong từng bữa, ảnh hưởng tận tận Cam Ranh, Phan Rang. Thị trường gạo ở vùng này đều nằm trong tay thân nhơn vợ chồng Tổng thống Thiệu.
               Riêng gia đình Tiến Hơn, đây là dịp trời cho ăn. Trong nhà anh còn cả trăm tấn lúa, vội mang ra xay hết. Sẵn xe bán tải, Ba Rền chở vô Cam Ranh, Phan Rang tha hồ bán giá cao.
               Tiền vô như nước, Ba Rền phá nhà cũ, xây một tòa nhà lầu hai tầng giống như một dinh thự. Tiến Hơn bán hông-đa, mua một chiếc Vespa Sprint mới tinh.
               Người càng phất thì đất càng cằn. Cánh đồng Vườn Bí ngày càng cằn cỗi. Phân Mỹ không còn hiệu quả, Tiến Hơn bắt đầu dùng phân ba màu của Nhựt Bản. Đất lại đổi màu da. Lúa cứ nhởn nhơ bò vô nhà anh ta như trong truyện cổ tích. Anh ta chuẩn bị dựng một nhà máy xay lúa trên khoảng đất cạnh chợ Nhỏ. Giấy tờ thủ tục xong xuôi, máy xay lúa đã đặt tiền cọc. Vật liệu xây dựng đã chở về, chỉ chờ ngày tốt là khởi công đào móng. Nhưng ngày giờ hoàng đạo đó lại nhằm đúng thời điểm quân Bắc Việt chiếm Đà Nẵng!
               “Sắp mất nước”! Ba Rền mở miệng than trời. Tiếp đến Bình Định rồi Phú Yên cũng rơi vô tay cộng sản… Lúc này, có tin đồn đã có thỏa hiệp lấy Đèo Cả làm ranh giới Bắc Nam để thực hiện Hiệp định Paris. Cha con Tiến Hơn chưa kịp mừng thì lại có tin Lữ đoàn 3 Dù của chánh quyền Sài Gòn, làm nút chận đường tiến quân của cộng sản từ Buôn Ma Thuột xuống Nha Trang, bị đánh tan trên đèo Phượng Hoàng. Đất tròng trành dưới chân họ… Đất trở mình làm dao động tinh thần của cha con Ba Rền. Không biết sống chết ra sao. Nhưng bỏ nhà cửa cơ ngơi để di tản thì họ không hề nghĩ tới. Trong lòng họ còn một chút hy vọng mong manh là có thể sống chung với cộng sản vì họ không làm gì cho phía quốc gia. Hơn nữa, Ba Rền và vợ cũng có vài người thân tập kết ra miền Bắc.


               5


               Tư Mẫn và Hai Thìn gởi xe đạp ở nhà bà năm Xoan, lội sông sang thăm cánh đồng Vườn Bí. Trời ngả về chiều. Mặt trời như đương rán hơi tàn trong ngày, phun luồng tia nắng gắt thành một vệt đỏ chạy dài trên đoạn sông Quán Trường cạn nước. Cát như những đóm lửa li ti làm nóng bỏng bàn chân. Những vạt bèo, vạt rong cháy sém nằm chết khô trên cồn cát như những mớ bùi nhùi tơi tả. Nước ngả màu nâu cánh kiến, đóng ván nhờn nhờn trên mặt sông.
               Đồng lặng yên, không một hơi gió, không một hơi thở. Trên trời, bầy chim én bay từng cụm, chao lượn uyển chuyển như đương làm xiếc, đón bắt những con rầy say thuốc bay tìm đường thoát thân. Loài én này đánh hơi rất tài, bất cứ đám ruộng nào phun thuốc trừ sâu là có mặt chúng liền.
               Trên đồng, những nông dân già trẻ lố nhố dùng gậy vạch từng lối lúa cho người đi sau phun thuốc. Da thịt của cánh đồng Vườn Bí như bị rạch từng nhát sâu thấu xương, thấy thảm hại và hết sức tội nghiệp. Mùi thuốc “bassa” diệt rầy xông vô mũi, hôi nồng, khó thở. Nhìn thấy ông chủ tịch xã và ông trưởng ban Nông hội xã, họ chỉ gật đầu nhẹ và chào bằng ánh mắt thờ ơ, rồi chú tâm vô công việc.
               Tư Mẫn chỉ cho Hai Thìn thấy từng dề rầy chết từ trong ruộng trôi ra, nằm đọng ở trổ ruộng. Nước đỏ như máu. Cả cánh đồng này hư hại nặng so với những nơi khác trong xã. Tư Mẫn khịt mũi hỏi Hai Thìn:
               - Các tổ vần công ở đây làm ăn ra sao anh?
               - Lai xai lếch xếch lắm. Mạnh ai nấy làm theo thói quen thời trước. Tư tưởng họ chai rồi, khó chuyển lắm. 
               - Đó là tại nông hội các anh, “đả” chưa tới nơi tới chốn thì họ “thông” thế nào được?
               - Mới giải phóng một sớm một chiều, ăn chưa no làm sao lo cho tới được anh - Hai Thìn phân bua - Tui thấy trong mấy xã quanh đây, nơi nào trước kia là cơ sở cách mạng như thôn này, thì bây giờ lại khó “chuyển” nhứt. 
               Tư Mẫn phản ứng:
               - Anh nói vậy tui không nhứt trí. Anh còn nhớ thời chống Pháp không? Bọn thực dân bắt bà con mình đem nộp hết lúa gạo vô đồn cho chúng quản lý, mỗi tuần chỉ được lãnh đủ số lúa cho cả gia đình ăn theo qui định. Thế mà mỗi khi tôi lẻn về nhà anh, vợ chồng anh vẫn dành cho tôi những bữa cơm trắng cá ngon và sẵn sàng những lon gạo nuôi quân nữa mà… Mà theo tui biết, thời chống Pháp rồi tới chống Mỹ, ở thôn này hầu hết nào nhà cũng có tiếp tế cho ta. Suy ra, không phải bây giờ vì khó mà bà con không theo ta, chẳng qua là họ đang dị nghị ta. Ta làm những điều họ chưa vừa ý, họ lẫy đó thôi…
               Tư Mẫn và Hai Thìn cảm thấy lạc lõng giữa bầu không khí ngột ngạt và oi bức của cánh đồng, giữa những người nông dân cần mẫn đương ra sức cứu vãn niềm hy vọng cuối cùng của họ.
               Hai người đi lần về phía núi Hòn Trọc. Hơi thở của lúa và của đất, như bị cơn sốt cấp tính hành hạ, hắt ra làm nóng ran cả người. Càng vô gần núi, ruộng càng xấu hẳn, vì đất ở đây là đất da trâu, bừa xong phải cấy liền tay, nếu không, mặt ruộng sánh lại, cứng như da trâu, cắm được rẻ mạ thì tróc cả da tay! Nhiều thửa ruộng cỏ dại mọc phủ lúa. Một vài thửa bỏ hoang vì nắng hạn, nước không tới để canh tác. Năm ngoái, xã đã chọn vùng ruộng này để xây nghĩa trang liệt sĩ. Thành phố đã rót trước ba chục bao xi-măng cho xã để chuẩn bị xây thì Đoàn Bê, Trưởng ban Thương binh – Xã hội xã, âm thầm đi nhận chở thẳng về nhà, xây nhà mới. Ngôi nhà gạch mái ngói bề thế nhứt vào thời điểm này, nằm ngay mặt quốc lộ, được xây mới từ sau 1976 như vừa trêu chọc vừa phỉ báng người dân thôn Phước Điền đang ăn khoai mì trừ cơm từng bữa.  
               Sự việc bại lộ. Người dân xã Phước Chung xì xầm với nhau: Hồi mấy ổng mới vô đây, tuyên truyền là cách mạng không đụng tới cây kim sợi chỉ của nhơn dân. Cây kim sợi chỉ đáng giá mạt rệp, đụng tới chỉ thêm mang tiếng mà không có miếng. Đụng tới đất đai, nhà cửa ngon ăn hơn…
               Biết không thể giấu dân được chuyện này, chi bộ Đảng xã họp kiểm điểm Đoàn Bê. Đoàn Bê nghiêm chỉnh “tự phong kỹ luật” cho mình: khiển trách! Còn số xi -măng tham ô được tính theo giá nhà nước, trừ dần vào lương hàng tháng của ông. Rồi sự việc cũng đâu vào đó. Ông bà ta xưa nay đã nói “hùm nào nỡ ăn thịt con” mà!
               Chi bộ ra nghị quyết, đề cử Tư Mẫn phải đi từng thôn họp dân để “đả thông tư tưởng”, đồng thời nêu cao tinh thần cách mạng, luôn luôn đề cao cảnh giác bọn phản động tàn dư của Mỹ-ngụy chống phá cách mạng. Tư Mẫn bực tức, chưỡi thầm: “Đ. mẹ, nó ăn rồi ỉa ra bắt mình hốt”! Nhưng đã là nghị quyết thì ông phải chấp hành, không thể chống lại được.
               Có dáng người đi lom khom như đang tìm vật gì trên bờ ruộng. Tư Mẫn nhận ra Đoàn Bê, bèn rẽ sang hướng khác, không muốn cụng mặt. Hai Thìn đứng lại, đằng hắng giọng, nói đùa:
               - Rau má tui trồng đó anh Hai, đừng nhổ nghe!
               Đoàn Bê làm như không nghe, cứ chăm chăm nhìn xuống bờ ruộng. Vẫn giọng cũ, Hai Thìn nhắc lại, ông ta không thèm nhìn lên, trả lời trong trỏng, giọng khàn khàn như gà mái:
               - Kiếm con nhái làm mồi câu chơi.
               Hai Thìn cà tửng chào:
               - Mạnh giỏi luôn chớ anh Hai! Lóng rày cá mắm ra sao?
               - Cá kiếm dễ hơn nhái. Ruộng mấy ông phun thuốc trừ sâu, nhái chết tiệt mà rầy thì sống nhăn răng, hay thiệt!
               - Tui chỉ chỗ này cho anh bắt, nhiều lắm.
               - Chỗ nào?
               - Nhà Hai Nhã.
               (Chẳng là nhà Hai Nhã, cán bộ Nông hội thôn, có một đàn con đều mang tên tục: Nhái Bầu, Nhái Bén, Nhái Cơm, Nhái Xíu…)
               - Giỡn hoài cha nội!
               Đoàn Bê sừng sộ cự lại còn Hai Thìn được một trận cười khoái trá. Hai cái răng cửa hàm trên của Hai Thìn khuyết, khiến nước miếng văng ra, nhểu xuống cằm, ông lấy tay xoa xoa cằm:
               - Nè, coi chừng hư lúa đó. Tui đi nghe anh Hai.
               Ông vội vã bước đuổi theo chân Tư Mẫn. Tư Mẫn đương ngồi nghỉ mệt dưới bóng me cuối cánh đồng. Trước mặt ông, Tiến Hơn đương chăm chú phun thuốc trên thửa ruộng trổ lác đác chừng hơn một sào. Anh ta bước theo rỗng lúa thiệt nhẹ nhàng và ria vòi phun từ đầu lúa chụp xuống. Mã lúa còn xanh, chưa ngả màu úa rủ, nhưng rầy đã ám từ gốc tới ngọn.
               Theo Tiến Hơn, Tư Mẫn rất “khó chơi” nên anh ta ít muốn tiếp xúc. Trừ khi trao đổi công việc của thôn, phải nói chuyện lâu, còn khi gặp mặt anh chỉ chào lấy lệ. Đợi Tiến Hơn tới gần bờ ruộng cạnh cây me, Tư Mẫn mới lên tiếng:
               - Cậu cũng được nhận ruộng bên này à?
               Tiến Hơn vừa bước chân lên bờ, vừa trả lời miễn cưỡng:
               - Dạ, ruộng của bà Bảy-lò-rèn đó anh Tư.
               - Cậu xịt thuốc giùm?
               Tiến Hơn còn lưỡng lự chưa biết trả lời sao cho ổn thì vừa lúc Hai Thìn có mặt. Anh ta nhìn Hai Thìn, Hai Thìn nhìn anh ta, như hiểu ý nhau, anh ta đành xuống giọng:
               - Mùa này bả không đủ sức làm, chẳng lẽ mình bỏ ruộng hoang, anh Tư? Nên tui làm giùm bả.
               Nói thẳng ra thì bà Bảy-lò-rèn thuộc diện gia đình liệt sĩ, ưu tiên nhận đám ruộng hạng nhứt này. Bà chỉ làm mùa đầu, sau đó, đứa gái lớn đi lấy chồng, nhà chỉ còn đứa gái út không lo được chuyện ruộng nương, nên bà trả ruộng lại cho thôn. Tiến Hơn đã trách bà:
               - Thời buổi tấc đất tấc vàng này, bác làm như vậy không hạp với “xã hội chủ nghĩa” chút nào hết. Bộ, bác không sợ mấy ổng nghĩ mình chây lười lao động à?
               Rồi anh lại cười nịnh bà:
               - Bác làm chủ đám ruộng đó rồi, không ai có thể giành được. Chỗ bác cháu, tui chỉ cho bác cách này hay nhứt, nếu làm không nổi, bác cứ cho người ta mướn, mỗi mùa lấy vài giạ lúa công có hơn không?
Bà Bảy-lò-rèn ngoe nguẩy lắc đầu:
               - Không, không… Tao sợ mang tiếng lắm mày ơi! Năm ba giạ lúa không giàu có gì. Từ hồi “giải phóng” tới giờ đói là đói rồi, nghèo là nghèo rồi, nhưng mình còn sống thì phải tính chuyện để cái đức lại cho con cháu. Với lại, đây là ruộng của bá tánh chớ phải ruộng gì của ông bà tao để lại.
               Tiến Hơn nói lắt léo:
               - Bác thì cái gì cũng sợ mang tiếng mang tăm hết. Trong thôn mình có người còn cho thuê cả năm bảy mẫu chẳng ai nói tiếng gì. Mà “giai cấp” như bác, ai dám so bì?
               Bà Bảy-lò-rèn khăng khăng nói:
               - Thôi mày ơi! Hổng phải vì cái “giai cấp” của tao mà ngồi không hưởng vài ba giạ lúa, thất đức lắm. Tao nói trả là trả, một lời thôi, mày tính sao thì tính, tùy mày.
               Tiến Hơn lấy cớ này, sẵn trong tay có máy cày máy bơm nước cày thuê bơm mướn cho bà con nhận ruộng ở đây, anh làm luôn ruộng của bà Bảy mà không hề báo cáo cho ban sản xuất xã biết. Nghe vài bà con xầm xì chuyện này, anh ta đánh tiếng:
               - Xã hội chủ nghĩa mà bỏ ruộng hoang à? Ông Bảy-bí-thơ đã nhứt trí cho tui làm, kiếm ít hột lúa để nuôi con, để phục vụ nhơn dân, chớ cái chức trưởng thôn này chỉ ăn cơm nhà vác ngà voi, lương phạn gì đâu.
Bà con trong thôn tưởng anh ta nói thiệt, bỏ qua. Nhưng sự việc không biết do đâu đã tới tai Hai Thìn, dù muộn. Trong buổi họp ban chấp hành Nông hội xã vừa rồi, Hai Thìn sợ mất lòng Tiến Hơn đã nói bóng nói gió về thửa ruộng của bà Bảy-lò-rèn. Tan họp, Tiến Hơn vội gặp riêng Hai Thìn phân trần:
               - Chú nói oan cho tui quá chú Hai à! Ruộng đó vẫn là ruộng của bà Bảy chớ tui đâu dám lợi dụng chức quyền làm ăn phi pháp đâu. Bà con ai cũng biết mà. Bả neo đơn và là gia đình liệt sĩ nữa, nên đứng trên cương vị thôn trưởng, tui phải giúp bả theo đúng chủ trương chánh sách của Đảng và Nhà nước chớ. Chẳng qua thiên hạ không thông nên họ hiểu lầm thôi chú à.
               Hai Thìn vốn có biệt danh “Thôi-mà-anh-Hai”, con người vui tánh, xởi lởi và tốt bụng với mọi người, lấy câu “dĩ hòa vi quý” ăn ở với đời, nghe Tiến Hơn nói vậy, dẫu biết anh ta cố biện bạch hành động sai trái của mình, nhưng ông muốn giải quyết sự việc một cách êm đẹp. Ông nói:
               - Anh Hai à, anh Hai giúp bả không khéo nên bà con dị nghị là phải. Anh Hai nên hỏi lại bà Bảy một lần nữa cho chắc ăn. Nếu bả cương quyết không chịu nhận thì nói bả làm đơn trả ruộng lại để ta có cơ sở giao cho người khác.
               Tiến Hơn gật đầu dạ dạ thưa thưa, nhưng trong bụng chưỡi đổng: “Đ. mẹ, trâu cột ghét trâu ăn! Tao biết thằng nào đâm thọc chuyện này với Hai Thìn rồi…”. Anh ta nghĩ sá gì hơn sào ruộng này mà mang tiếng. Giao thì giao. Và bỗng dưng lúc đó trong đầu anh ta hiện ra hai sào ruộng Gò Chùa của Bảy Diện cho bà Năm Xoan mướn.
               Bây giờ có mặt Tư Mẫn, Hai Thìn nói đỡ lời cho Tiến Hơn:
               - Đương vụ, đùng một cái bà Bảy trả ruộng lại vì không đủ sức làm nên cậu Hơn phải làm đỡ vụ này đó anh Tư.
               Tư Mẫn chép chép miệng, khó chịu:
               - Sao các anh không báo cáo cho tui biết? Hiện thời thôn này còn có người chưa được hưởng chánh sách ruộng đất của ta kia mà. Các anh làm ăn như vậy thì biểu sao dân tin cho được.
               Thấy Tư Mẫn bực tức, Hai Thìn làm lành:
               - Thôi mà anh Hai! Tui đã phê bình cậu Hơn rồi. Mùa tới tụi tui sẽ nghiên cứu để giao cho người khác.
               Tiến Hơn được dịp, nói bắt chầm:
               - Tui có dự kiến mùa tới giao cho bà Năm Xoan đó, anh Tư!
               Tư Mẫn nghiêm mặt nói:
               - Tui không đùa đâu! Nội bộ các anh phải nghiêm khắc kiểm điểm việc này. Còn việc giao cho ai thì phải đưa ra dân bình xét chớ không thể tùy tiện được.
               Hai Thìn nhìn Tiến Hơn có ý trách móc. Tiến Hơn cảm thấy cái bình xịt hết thuốc đương mang trên vai bỗng dưng nặng trịch, nặng tới nỗi anh ta muốn tháo xuống, nhưng sợ khi đặt nó xuống đất rồi, anh lại đứng khống không thì hết sức vô duyên.


 
               6


               Cơm tối xong, Tư Mẫn lấy cái bình “độc ẩm”, pha một bình trà ngon đậm đặc. Ông muốn thức khuya để viết cho xong cái báo cáo về tình hình sâu rầy trong xã và đề nghị lên trên miễn giảm thuế nông nghiệp cho xã trong vụ này, ngày mai phải gởi gấp lên thành phố.
               Vợ con ông đã ngủ. Một mình ông ở trần, bận quần đùi, ngồi trên bộ xa-lông bằng gỗ cẩm lai bóng lộn, dưới ngọn đèn tròn yếu điện tù mù. Tập giấy rơm kê trên đùi. Từ ngày ở trong tù tới giờ, ông có thói quen ngồi viết trong tư thế này, thoải mái hơn là kê trên bàn. Những sự kiện, những con số bắt đầu sống dậy trong trí ông, cuồn cuộn như đoàn biểu tình.
               Phước Chung là xã có diện tích ruộng nhiều nhứt so với các xã ngoại thành, nhưng dân số cũng không ít. Kết quả đợt điều tra dân số cơ bản vừa rồi có tới bốn ngàn nhân khẩu. Tư Mẫn chép miệng nói thầm: “Đẻ chi mà đẻ dữ!”. Năm ngoái, xã dẫn đầu phong trào thi đua nghĩa vụ lương thực, vượt mức kế hoạch toàn thành phố, được tỉnh tặng bằng khen và cờ thi đua. Năm nay, tình hình sâu rầy diễn ra ngày càng nghiêm trọng, làm sao vận động bà con hoàn thành nghĩa vụ lương thực sáu tháng đầu năm cho nhà nước đây? Những người có lúa nứt bồ cỡ như Bảy Diện, Tiến Hơn, thuộc hàng cán bộ đó, nhưng “xoay” họ cũng không phải dễ. Ông đã ướm thử thiện chí của họ, nhưng họ “ậm ờ” theo kiểu “ta sao tui vậy”. Ta sao tui vậy là cái quái gì?! Tư Mẫn lại chép chép miệng. Nghĩ tới Bảy Diện ông càng tức. Một người đã dám từ bỏ giai cấp địa chủ của mình, đi làm cách mệnh bây giờ lợi dụng chức bí thơ để thủ lợi cá nhân, không chịu thực hiện đầy đủ chính sách ruộng đất của Đảng. Rõ ràng Bảy Diện chỉ hiến nửa số ruộng mà họ tộc đã giao lại cho ông, nửa còn lại, ông viện cớ là ruộng hương hỏa của họ tộc, đương tranh chấp, chưa giải quyết xong, nhưng thực tế, ông đã chia lẻ ra cho nhiều người canh tác, thu tô giống như một địa chủ thời phong kiến. Thuế nghĩa vụ thì không chịu đóng. Tư Mẫn đưa vấn đề này ra chi bộ, Bảy Diện cứ nói quanh co và lúc nào cũng lớn tiếng: Tôi là bí thơ chi bộ, tôi không đầu tàu gương mẫu thì làm sao Đảng tin tôi được? Một số người trong chi bộ không nắm vững vấn đề nên không có ý kiến dứt khoát. Hơn nữa, từ ngày xảy ra vụ Đoàn Bê, Tư Mẫn nhận thấy tổ Đảng thôn Phước Điền luôn bảo vệ ý kiến của nhau trong các cuộc họp. Khi biểu quyết một vấn đề gì, họ luôn luôn dựa vào số đông, chiếm hơn một nửa số đảng viên trong toàn xã. Tiếng nói của ông có khi bị lạc lõng như cánh chim giữa đồng trưa nắng gắt, có khi còn bị phê bình là “cố ý gây chia rẽ nội bộ”. Gây chia rẽ cái con mẹ gì? Ai gây chia rẽ mới đúng?! Ông bực mình đập mạnh cây viết bic xuống tờ giấy chưa có chữ nào. Một con muỗi đậu trên bàn tay cầm viết của ông chưa kịp chích vội bay lên, lởn vởn trước mặt. Ông cầm xấp giấy đập nó. Con muỗi không chết. Ông càng tức thêm.
               Trời vẫn hâm hấp nóng. Trước khi ngồi vô ghế, ông đã tắm cả chục gầu nước giếng. Vậy mà bây giờ, ông ước gì được ngâm mình trong một dòng suối mát như những ngày tháng còn ở mật khu. Ông đứng dậy, ra giếng tắm một lần nữa. Trời hạn, giếng cạn, hụt dây gầu, ông phải khom người, tì bụng lên miệng giếng, chúc đầu xuống sâu mới xách được nước. Xối lia lịa vài gầu, ông để ướt nguyên người, ngồi lại ghế. Ông uống một tách trà đậm đặc, cảm thấy sảng khoái…
               Báo cáo tình hình sâu rầy gây thiệt hại mùa màng trong xã là vấn đề quan trọng, chớ không phải chuyện vợ chồng thằng Mít, thằng Xoài đánh nhau, gây mất trật tự trong làng trong xóm, ai giải quyết cũng được. Mất mùa thì dân đói. Đói quá thì làm càn, bắt gà bẻ bí… Bần cùng sanh đạo tặc mấy hồi. Từ chuyện kinh tế dẫn tới chuyện an ninh xã hội. May mà tình hình an ninh trong xã lâu nay tương đối tốt, không có sự kiện nào nghiêm trọng xảy ra. Ông cho như vậy không có nghĩa là “kẻ thù của cách mệnh” không có ở trong xã này. Có thể bây giờ là cơ hội tốt để chúng ngóc đầu dậy, lợi dụng cái bụng không đủ no của bà con để thổi phồng lên những tin thất thiệt, kích động quần chúng, gây hoang mang, làm bà con mất lòng tin vào chế độ…
               Cả tuần nay, mỗi khi ngồi vô chiếc ghế làm việc ở ủy ban xã, Tư Mẫn cảm thấy thực sự không yên tâm. Ông đã giao hết công việc cho anh phó chủ tịch giải quyết còn mình thì “vai mang sắc-cốt kè kè, đầu đội mũ cối đạp xe xuống làng”. Cái máu của một cán bộ quân sự đã từng chỉ huy một tiểu đội đặc công vẫn còn nguyên trong người ông. Nhưng chuyện đánh đấm trong thời chiến lại hoàn toàn khác hẳn với chuyện sản xuất, an dân trong thời bình. Ông biết lúc này không thể lấy kinh nghiệm của một cán bộ quân sự mà xoay chuyển tình thế theo chiều hướng thuận lợi cho chủ trương của Đảng được, nhứt là trong giai đoạn tổ chức quần chúng chưa được mạnh và còn bị lệ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan nữa. Khi sâu rầy mới chớm phát, ông đã chỉ thị cho Ban sản xuất xã liên hệ với Phòng Nông nghiệp thành phố xin mua thuốc diệt trừ ngay. Nhưng thuốc mà nông dân cần thì kho vật tư nhà nước không có, còn thuốc kho vật tư có thì nông dân không cần! Bà con phải chạy mua ngoài chợ trời. Bọn đầu cơ được dịp lên giá. Chính ông cũng phải nhờ Hai Thìn mua giùm một chai “bassa” (thuốc diệt rầy) với giá sáu mươi đồng (4), tương đương một tháng lương của ông. Mình biết bọn chúng cắt cổ, nhưng phải chịu thôi! Mà đâu phải ai muốn đưa cổ ra ra cho chúng cắt cũng được. Chúng chỉ bán cho những người quen mặt, người lạ có năn nỉ ráo nước miếng cũng đừng hòng.
               Thuốc trừ sâu lên giá, gạo ngoài thị trường cũng tăng vọt từ bốn đồng lên năm đồng một ký. Ủy ban Nhân dân tỉnh đối phó tình trạng này bằng cách chỉ thị cho các địa phương làm nút chận không để gạo lọt ra thị trường tự do thì giá gạo lại tăng vọt lên sáu đồng một ký*. Những gia đình nghèo đông con, chạy ăn từng bữa, phải ăn củ mì, củ lang thay cơm. Thậm chí có nhiều nhà ăn cả củ chuối, hết củ chuối lại ăn thân chuối non, thân cây đu đủ…..
               Tư Mẫn đứng dậy, cái chân kê làm bàn viết đã tê cứng. Ông cố cử động ngón chân cái một lúc, máu chạy lại đều. Ông với tay lấy quyển sổ công tác, ngày hôm qua ông đã ghi: Đi thăm đồng Gò Dưa, trên đường về, ghé vô nhà cô Chút uống nước. Cô Chút có chồng đang học tập cải tạo, nuôi năm con nhỏ. Thấy đứa lớn đang xắt củ chuối ra từng lát nhỏ, bỏ vô xoong ngâm với nước muối. Hỏi làm gì? Nó trả lời gọn bân: Ăn thay cơm. Ngày trước nữa, ông ghi: Gia đình Được, con dì Mười, ăn khoai mì non, say cả nhà. Hai vợ chồng uống nước đậu xanh giải được. Mấy đứa nhỏ phải đưa đi bệnh viện cấp cứu. Đứt ruột! Khi bồng cháu lên xe, dì Mười mắng xả vô mặt mình: cách mệnh của mày đó Mẫn, mày thấy cháu mày chưa? Sáng mắt mày chưa? Tiếp theo: Đi ngang qua nhà máy gạo Chín Lân, thấy cụ già đang sàng trấu kiếm gạo rơi, hỏi ra mới biết cụ đã nuôi giấu cán bộ cách mệnh trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ….    
               Ông đau xót thở dài, tự trách mình chưa nắm chính xác số dân cần được cứu đói. Ông quyết định ngày mai sẽ triệu tập một buổi họp cán bộ chính quyền, đoàn thể, vận động họ đóng góp ít nhiều lương thực để trước mắt giúp đỡ một số gia đình thiệt sự khó khăn trong xã…
               Và ngay lúc này, đầu óc ông cứ “nhảy cà tưng” quanh những chuyện đói khổ hiện thời trong xã, ông không còn lòng dạ nào để viết bản báo cáo gởi lên trên.


               7


               Tiến Hơn ở nhà Bảy Diện về, ngang qua nhà Ba Búa, đàn em của anh ta, thấy cửa khép hờ, anh ta mừng thầm: May cho mình! Thường vợ chồng Ba Búa nằm ở chợ trời suốt ngày, tới đỏ đèn mới về nhà. Tiến Hơn muốn nhờ hắn việc gì thì phải dặn trước. Nhưng tối nay, thôn phải họp dân bất thường để truyền đạt tinh thần cuộc họp sáng nay của xã. Tiến Hơn phải nhờ hắn “alô” thông báo cho bà con biết.
                 Chưa bước vô nhà, Tiến Hơn đã nghe tiếng Ba Búa nói tía lia bên trong:
              - Đ. mẹ, dzô, dzô một trăm phần trăm em ơi! Đ. mẹ, chuyện đó để nhà nước no, mấy ổng hổng để mình no đâu. Đ. mẹ, mình không no chỉ nhậu thôi. Đ. mẹ, dzô đi! Một, hai, ba…dzô.
               Tiến Hơn đằng hắng nói:
               - Đ. mẹ, mượn rượu nói bậy phải không, coi chừng bị còng đầu!
               Mấy người ở trần quanh chiếu rượu sửng sốt nhìn lên. Cả chục con mắt đỏ kè đều bối rối. Ba Búa mau miệng giới thiệu:
               - Đ. mẹ, đồng chí Hơn, đại ca của tao đó tụi bay. Đ. mẹ, cũng là một vị cán bộ chớ hổng phải giản đơn đâu nghe. Đ. mẹ, mấy người bạn thân của em. Làm một ly với tụi em đi đại ca.
               Ba Búa lấy cái ly mình đương uống rót đầy rượu mời Tiến Hơn. Đám bạn của Ba Búa lấy lại tự nhiên, vồn vã mời Tiến Hơn cụng ly. Tiến Hơn đáp lễ:
               - Tui “lì một lam (5)” thôi. Không thể ngồi lâu được, hẹn khi khác.
Tiến Hơn quay sang Ba Búa, thầm thì vô tai hắn. Ba Búa gật đầu, lè nhè nói:
               - Đ. mẹ đại ca cứ yên tâm, xong ngay mà.
               Tiến Hơn sợ hắn say, quên chuyện “alô”, dặn đi dặn lại mấy lần rồi chào ra về.
               Ba Búa nói với đám bạn:
               - Đ. mẹ, thôn trưởng thôn này đó. Tụi bay cứ bình tĩnh uống, bình tĩnh say, đéo sợ thằng nào.
               Ba Búa “trúng mánh” cái ti-vi mà Tiến Hơn nhờ hắn mua cho Bảy Diện nên tổ chức bữa nhậu đãi bạn bè. Tội nghiệp! Vợ chồng hắn như cái gai trước mắt mọi người trong thôn. Ngay cả anh em cật ruột cũng từ hắn luôn. Năm mười hai tuổi, khi Mỹ qua, hắn bỏ nhà đi bụi đời, sống với bọn trẻ đánh giày, móc túi ở phố chợ. Cha hắn là chú Năm Cua (do tánh ông ngang như cua nên người trong xóm gọi chết tên luôn), làm nghề đánh xe ngựa, nhiều lần bắt hắn về, đánh dở sống dở chết rồi cột vô gốc cây trước nhà phơi nắng, nhưng khi được thả ra, hắn lại thừa cơ cuỗm ít tiền rồi trốn đi. Chú Năm Cua không còn cách nào dạy hắn được, đành khai tử cái tên cúng cơm của hắn là Rốt và kêu là thằng Ba Búa một cách đau xót khi có ai nhắc hắn. Chú Năm Cua chết vì nốc cạn cả chai dầu lửa tưởng là nước lạnh sau khi say bí tỉ. Vậy là Ba Búa được “sổ lồng” hoàn toàn. Tới tuổi lính, Ba Búa từ giả cuộc sống đầu đường xó chợ, đăng vô lính nhảy dù - với mỹ danh là “thiên thần mũ đỏ”. Sợ chết, đào ngũ. Bị bắt đưa đi lao công chiến trường. Mãn hạn lao công chiến trường rồi bị bổ sung vô lính biệt động tận ngoài Quãng Trị. Lại đào ngũ, về lại Nha Trang nhập băng du đãng, bảo vệ một động điếm ở đường Hàm Nghi, làm chồng hờ Loan-khểnh - gái làng chơi - hơn hắn tới năm tuổi. Lúc đó, mỗi lần Tiến Hơn cần “gái ngon” cho mình hay để dâng cho ông này ông nọ đều nhờ Ba Búa. “Có Ba Búa đây thì mọi chuyện xong ngay” - hắn luôn luôn vỗ ngực xưng tên như vậy.
               Sau biến cố lịch sử 1975, Ba Búa thấy mình “được hoàn toàn giải phóng”. Hắn có người chị đầu thoát ly theo Việt Cộng từ năm 1965 trở về làm cấp dưỡng ở Ty Công an, vậy là hắn nghiễm nhiên trở thành công dân hạng nhất của chế độ với lý lịch: gia đình cách mạng, chống lính, ở tù dưới chế độ Mỹ-ngụy. Hắn được phân chức phụ trách công an khu A của thôn Phước Điền kiêm cán bộ thông tin thôn với phương tiện làm việc là chiếc dùi cui và cái loa thiếc. Rồi hắn cũng được dự các cuộc họp ở xã, được chủ tịch, bí thơ chi bộ xã, kể cả những cán bộ ở thành phố về gọi là đồng chí. Hắn rất sung sướng và tự hào khi được mấy ảnh ở trển gọi mình là đồng chí, vì từ khi cha sanh mẹ đẻ tới giờ ai cũng gọi hắn là “thằng”, thậm chí là “thằng chó đẻ”. “Đ. mẹ, đúng là mình được đổi đời!” Hắn nghĩ.
               Có “vai vế” trong thôn, hắn lên mặt với mọi người, đi đâu cũng nón cối, dép râu (chị hắn cho), mang túi dết (loại túi đựng mìn clây-mo của Mỹ) và dắt đầy viết trên túi áo (mặc dù chưa đọc thông viết thạo). Hắn đưa Loan-khểnh về sống chung với người mẹ kế và mấy đứa em cùng cha khác mẹ trong ngôi nhà gạch mái ngói khá rộng mà chú Năm Cua để lại. Người trong xóm hiếm khi thấy mặt vợ hắn. Cô nàng ra khỏi nhà từ khi gà gáy sáng cho tới tối mịt mới về bằng chuyến xe lam chót trong ngày. Thỉnh thoảng giữa đêm khuya, hàng xóm nghe tiếng chữi bới, ấu đả nhau của vợ chồng hắn vì chuyện ghen tuông, tiền bạc, nhưng chẳng ai thèm can thiệp.
               Hôm nay, Ba Búa đã uống đủ thứ rượu trong người, hắn cảm thấy đau đầu và buồn nôn. Mấy lần chất men chua từ trong ruột hắn cuộn lên tới cuống họng, muốn ọc ra ngoài, nhưng vì muốn giữ thể diện của một tay anh chị trước mặt đám đàn em, hắn đã nín thở và cố nuốt nó xuống. Cổ họng hắn nóng ran, như uống phải nước vôi, thiệt khó chịu! Mồ hôi mép bắt đầu toát ra, mắt lờ đờ, hắn vội cho tay vô ca rượu bốc một cục nước đá thoa thoa lên mặt. Đầu óc hắn quay cuồng, bỗng nhiên ruột đau thắt lại. Hắn nghe tim đập thình thịch như có ai cầm búa gõ vô lồng ngực. Tai hắn lùng bùng, kêu vo vo như khi bị thay đổi áp suất không khí bất ngờ. Không còn tự chủ được nữa, những thức ăn thức uống trong bụng hắn cuồn cuộn tuôn ra đầy nồi cháo vịt nóng hổi trước mặt. Hắn nôn, ọe rồi chép miệng nuốt. Đám bạn hắn cũng say ngất, vừa lấy đũa gõ vô chén bát, vô ly, vừa la: ra… ra…. để cổ xúy hắn nôn ra hết những gì còn sót trong ruột. Hắn cảm thấy khỏe dần. Một con ruồi xanh bắt được mùi men thúi trên mép hắn, đậu vô đưa vòi hút. Hắn có cảm giác nhột nhột, đưa tay quẹt mép rồi chữi đổng: “Đ. mẹ, bậy quá, uổng nồi cháo quá!” Hắn đứng dậy, ra giếng múc nước rửa mặt, thay quần áo, không quên mang theo chiếc túi dết bên hông, rồi cầm chiếc loa thiếc bước ra cửa và nói với đám bạn:
               - Đ. mẹ, tụi bay cứ yên tâm nhậu tiếp đi nghe! Đ. mẹ, tao đi làm nhiệm vụ cách mạng chừng một tiếng đồng hồ là về.
               Một thằng láu cá trong bọn lên tiếng:
               - Đ. mẹ, làm nhiệm vụ cách mạng nhưng đừng quên vui say, nhớ xách thêm một “thước” (6) nữa nghe mày.
              - Đ. mẹ, đứa nào uống nữa thì đi mua.
               - Tiền?
               Ba Búa móc túi lấy tờ bạc hai đồng vo tròn, liệng vô mặt thằng vừa hỏi.
               Ra tới đường cái quang, Ba Búa mới để ý thấy trời tối. Hắn vừa đạp xe vừa cầm loa đưa lên miệng, bắt đầu rao:
               - Alô, alô…. Báo cáo với đồng bào đồng chí, tối nay thôn họp có nhiều vấn đề quan trọng, hết sức quan trọng. Thôn trưởng biểu tui nói là hết sức quan trọng, nên kính mời đồng bào đồng chí tham dự đông đảo. Đồng bào đồng chí nào không đi mất quyền lợi rán chịu… Alô, alô….
               Hắn định rao ở xóm chợ Nhỏ xong, vòng qua xóm bầu Sen rồi xuống xóm cây Sung và vòng về nhà. Nhưng mới tới cầu cây Mít để qua xóm bầu Sen, Ba Búa cảm thấy chóng mặt, ù tai, người tự nhiên yếu hẳn. Hắn gượng dắt xe qua cầu. Dầu gì cũng phải rán rao cho hết thôn, hắn tự nhủ. Ngay sau đó, hắn lại có ý định quay xe về báo cho Tiến Hơn biết mình quá mệt, không thể tiếp tục “alô” được. “Nhưng đồng chí Ba Búa này xưa nay chưa từng chạy làng với ai việc gì mà”. Hắn nói một mình rồi cười gằn, vác xe lên vai, tay cầm loa, bước đi xà nẹo. Chiếc cầu ván nhỏ bắt ngang qua sông Quán Trường bị hư từ mùa lụt năm ngoái, chưa ai nghĩ tới chuyện sửa lại cho đàng hoàng. Bà con bên xóm bầu Sen phải thay bằng mấy cây tre đực đi tạm. Ba Búa thấy nhập nhòa trước mặt. Hắn muốn dụi mắt nhưng không còn tay nào rảnh. Mọi vật trên người hắn đều là một gánh nặng, hắn bèn cất tiếng hát nghêu ngao như để vơi bớt: “Đ. mẹ, ví dầu cầu ván đóng đinh…. hờ… Đ. mẹ, cầu tre lắt lẻo… hờ…” Hắn vừa kéo dài chữ “hờ” vừa giơ chân bước, bỗng nhiên bước hụt thanh cầu. Ầm một tiếng! Hắn ngã nhào xuống sông. Trời cũng vừa lúc tối hẳn.


               8


               Sân trường tiểu học Phước Chung là địa điểm họp của thôn. Gần tám giờ tối mà chỉ lác đác vài người. Tiến Hơn nhờ Định giúp một tay khiêng cái bàn học và cái ghế dựa trong phòng học ra ngoài sân làm bàn chủ tọa. Cây đèn bóng lớn thắp bằng dầu lửa pha nhớt cháy cao ngọn, khói đen bám quanh bóng chỉ đủ nhìn thấy khuôn mặt rầu rầu của Tiến Hơn. Lâu lâu lại có thêm một hai người xách đèn bão, kéo lê cây gậy đánh chó trên mặt đường tới dự họp. Bà con ngồi rải rác trên hiên trường. Mấy ông ngồi dựa cột, miệng phì phà điếu thuốc sâu kèn. Ai cũng có chuyện riêng để lo để nghĩ, chẳng buồn tán gẫu với nhau. Mấy bà ngồi chùm nhum một chỗ nhai trầu, oang oang chuyện nương rẫy. Những đứa trẻ gái trai mười hai mười ba tuổi đi họp thế cho cha mẹ thì say mê chơi trò cút bắt, la hét inh tai.
               Tiến Hơn ngồi nơi bàn họp, hết hút thuốc lại đập muỗi, hết đập muỗi lại nhìn quanh hiên trường, hết nhìn quanh hiên trường lại ngong ngóng nhìn ra đường. Cứ vậy, anh ta thở dài. Đồng hồ chỉ đúng tám giờ, nhìn lui nhìn tới, anh ta chỉ thấy khoảng trên chục người, kể cả đám con nít, tính ra chưa đầy một phần sáu số chủ hộ trong thôn. “Người ngợm như vầy thì họp hành sao được đây”. Anh ta bực tức, lầm bầm trong miệng.
               Có tiếng đàn ông giục:
               - Khuya quá rồi, họp đi chớ “ông làng ông thôn”.
               Tiến Hơn biết mình bị chơi xỏ nhưng vẫn tỉnh bơ và gằn giọng nói:
               - Chết đâu hết, lấy ai họp đây!
               Có tiếng đàn bà nói:
               - Đúng rồi, chết vì đói.
               Lại có tiếng phụ họa:
               - Họp miết, họp miết. Tuần nào cũng họp ba bốn lần mà hổng thấy no một bữa, thét rồi ai cũng ngán tận cổ.
               Tiếng đàn ông cắt ngang:
               - Ai? Ai dám ăn nói phản động? Nhốt!
               Bên phía đàn bà nói lại:
               - Bảy-lò-rèn đây. Hai Nhã có chịu nổi một búa không mà giở giọng hù dọa?
               Mấy bà cười rộ lên, khuấy động đôi chút cái không khí phẳng lặng, buồn hiu.
               Hai Nhã cũng cười theo:
               - Bảy búa tui chịu còn thấu huống gì một búa.
               Thấy không thể đợi thêm được nữa, Tiến Hơn lên tiếng:
               - Thôi, không bảy búa tám búa gì nữa. Yêu cầu bà con ngồi dồn lại, nhắm đủ thì họp, ít quá thì giải tán.
               Người muốn họp, người đòi về. Tiến Hơn phân vân. Giá như tối mai anh ta không đi dự tiệc cưới ở Cửa hàng ăn uống Phụ nữ thì hoãn lại cũng được. Ngặt nỗi, Tư Mẫn đã ra hạn chót là đầu giờ chiều mai các thôn phải nạp đủ danh sách các hộ cần cứu đói và số lương thực do bà con tốt bụng đóng góp cho cuộc vận động này. Anh ta ngao ngán nói:
               - Bà con biết buổi họp tối nay quan trọng ra sao không?
               Có giọng đàn ông vụt trổi lên:
               - K… h… ô…. n… g…..
               Nhiều tiếng cười trộm. Tiến Hơn nghiêm giọng:
               - Thôi. Không giỡn nữa. Ai không muốn họp thì về. Họp gì cứ sai con nít đi biết đường nào tiếp thu, phát biểu. Bà con có biết rằng cả xã ta đương mất mùa, mất mùa trầm trọng, đói trầm trọng không? Như trong thôn ta, bà con thấy đó, có nhà phải ăn khoai, ăn củ chuối… - Tiến Hơn rít mạnh một hơi thuốc rồi “cương” lớn - Sáng nay họp ở xã, tui “tích cực khẩn trương” đề nghị xã tức tốc mở một chiến dịch cứu đói. Các thôn khác cũng đều đồng ý nhứt trí như vậy. Tối nay, thôn ta mời hết bà con tới đây để ta dân chủ bàn bạc, thảo luận coi ai thuộc diện cứu trợ. Thôn cũng vận động bà con nào dư ăn dư để, tỏ “chí khí”  lá lành đùm lá rách, kẻ ít người nhiều, tương thân tương trợ bà con chòm xóm của mình trong cơn hoạn nạn ngặt nghèo… - Anh ta say sưa nói một hơi, nhưng nhìn lại số người dự họp, cảm thấy hình như thiếu xóm bầu Sen và cây Sung, anh ta cụt hứng bèn xuống giọng: - Nhưng bà con không biết được tầm quan trọng cuộc họp, đa số vắng mặt thì làm sao bình xét ai được ai không. Bà con cho biết ý kiến coi.
               Có tiếng người cất lên:
               - Ủa, bắt đầu họp rồi hả?
               Một tiếng cười xì:
               - Bộ nãy giờ ngủ chắc.
               - Ngủ chẳng ngủ.
               Tiến Hơn bực bội đứng phắt dậy, nói:
               - Tui đã “cảnh giác” nhiều lần rồi. Ai không họp tối nay mất quyền lợi rán chịu, không được quyền khiếu nại về sau. Bây giờ tới phiên bà con mạnh dạn phát biểu đi. Bà con thấy ai thiếu ăn cứ nói, còn ai thấy mình có khả năng giúp người thì cứ giơ tay tình nguyện, tui sẽ lập danh sách liền.
               Im lặng.
               Anh lại giục bà con cho biết ý kiến.
               Vẫn im lặng.
               Không chịu nổi sự im lặng kéo dài, Tiến Hơn cáu kỉnh nói:
               - Bộ đói quá mở miệng không nổi sao bà con?
               Lúc này, mọi người mới có cớ để nhao nhao lên:
               - Đói chẳng đói. Ở đây ai no thì biết.
               - Phải đó! Ai cũng đói hết. Tui đề nghị cứu ráo.
               Nhiều tiếng phụ họa:
               - Cứu ráo! Đồng ý nhất trí. Cứu ráo!...
               Thế là buổi họp thôn kết thúc trong nhiều tiếng la ó như ong bể ổ.


               9         


               Khi bà Năm Xoan sửa xong đôi gióng đứt cho ngày mai đi gánh bắp rẫy thì đã quá giấc ngủ trưa, lại tới giờ hẹn với bà Bảy-lò-rèn đi cào hến trên sông Quán Trường. Bà ăn vội miếng trầu, không quên dỡ theo một gói rồi đóng cửa nhà. Tuy có ông Năm Xoan ở nhà, nhưng cũng như không, không thể bỏ cửa nẻo được. Lúc này trộm cắp như rươi! Nhà chỉ còn bộ đồ thờ bằng đồng là có giá, chúng lén vô cưỡm mất thì không biết lấy gì mà sắm lại, mang tội với ông bà. Con Trang đã đi học đại học sư phạm tận Qui Nhơn, thằng Định thì đi kiếm thằng Quí để nhờ tối nay cùng lên rẫy ngủ lại. Nói cho ngay, bà đã có ý định không đi cào hến, vì để ông Năm Xoan ở nhà một mình không tiện. Nhưng thằng Định hứa là gặp thằng Quí xong nó sẽ về liền, nên bà cũng an tâm. Với lại, ngày mai thằng Quí giúp bẽ bắp mà trưa cho nó ăn cơm với mắm với muối bà cảm thấy khó chịu trong bụng. Bà muốn có một chén hến nấu canh chua với lá dang trên rẫy, ăn cho đỡ mệt.
               Bà Năm Xoan xách rổ và thau đi ngõ tắt tới nhà bà Bảy-lò-rèn. Bà Bảy đương xắt khoai mì thành từng sợi nhỏ để trộn gạo nấu cơm chiều, thấy bà Năm Xoan, bà Bảy-lò-rèn chỉ đống khoai mì còn nguyên vỏ nơi góc nhà:
               - Bữa qua, thằng cháu tui chia được ở cơ quan mấy chục ký, nó đem cho một nửa, chút nữa về, thím nhớ lấy vài củ về luộc. Mì này ngon lắm.
               - Ở nhà tui cũng còn chị à. Bữa trước, xã mua mấy tấn ở kinh tế mới Đất Sét về bán lại cho dân, tui mua được hai chục ký. Mấy bữa nay tui vừa luộc vừa trộn cũng đỡ.
               Bà Bảy-lò-rèn chép miệng:
               - Tội nghiệp cho chú Năm, đã bệnh hoạn vậy mà ăn uống lại kham khổ.
               - Vậy chớ ổng cũng chịu đựng được chị à. Có gì ổng ăn nấy, nhiều bữa có chút cá, mẹ con tui nhường cho ổng, ông lại ngầy.
               Tự nhiên bà Bảy-lò-rèn nhắc tới chuyện cứu trợ:
               - À, nghe nói thành phố cứu trợ cho dân, nhà thím có lãnh chút ít gì không?
               - Mình ở nhà ngói làm gì có được chị.
               - Chà, nhà ngói với nhà tranh. Cái vụ này do tay thằng Hơn bày đặt ra hết. Hổng biết thím có để ý không chớ tui thấy bà con thân thích của nó đều có hết. Như thằng Sửu, suốt ngày cứ rượu chè hổng chịu làm ăn, vậy mà cũng được lãnh bột mì cứu đói. Sáng nay, nó xách cái mặt tiu nghỉu tới nhà tui, nói láo là con bịnh, không tiền mua thuốc, gạ bán cho tui hai ký bột mì. Tui sùng máu, xạc cho một trận: “Con gì đau, mày bán lấy tiền uống rượu thì có. Thứ mày, đừng hòng qua mặt tao”. Nó hổng dám hó hé gì với tui hết, xách bao bột mì đi thẳng một lèo, tưởng đem về nhà, lại đi tới quán con Đờn.
               - Vợ con nó cũng khổ lắm chị à. Thôi, đừng nhắc tới chuyện đó nữa, không khéo lọt tới tai người ta, người ta tưởng mình mất miếng ăn rồi nói lung tung.
               - Sao lại lung tung? Bữa nào họp thôn tui nói thẳng vô mặt thằng Hơn cho nó biết. Thôn trưởng gì thằng đó…
               - Có chị với chú Hai Nhã mới dám ăn dám nói chớ tụi tui đâu dám.
               - Mình nói trúng, nói có ngọn ngành gốc rễ thì hà cớ gì không dám.
               - Mà chuyện qua rồi, nói làm gì chị Bảy? Mình lo đi chớ tối.
               - Đi đâu?
               - Cái chị này hay chưa? Đi cào hến chớ còn đi đâu nữa. Chị quên rồi hà?
               - À, bậy quá! Cũng tại mấy củ khoai mà tui quên tuốt, lú lẩn thiệt.
               Bà Bảy-lò-rèn lăng xăng dọn dao thớt rồi đóng cửa nhà, cài trong khóa ngoài cẩn thận rồi cùng ra ngõ với bà Năm Xoan.

***

               Mặt trời đã ngã hẳn về tây. Con đường mòn trong xóm dẫn ra sông Quán Trường râm mát. Gió thổi xào xạc những đám mía đường trồng lứa đầu tiên ở hai bên đường, nghe vui tai. Phong trào trồng mía đường tự nhiên rộ lên, nhà nào cũng đốn sạch cây lưu niên trong vườn để lấy đất trồng. Mía cả xóm, cả làng. Đâu đâu cũng mía. Tới nỗi khu thổ mộ của xóm cạnh miếu Bà chỉ còn một mảnh đất trống bằng manh chiếu, ông thủ bổn cũng trồng mía.
               Tới bờ sông, hai bà thấy lác đác vài người trong xóm đương ngâm mình dưới nước. Con sông này, tuy chỉ rộng bằng một nhánh rẽ của sông Cái, nhưng từ bao đời nay, nó cũng nuôi sống được vài ba gia đình ở thôn Phước Điềm quanh năm chuyên nghề thả lưới, giăng câu. Hồi ông Bảy-lò-rèn còn sống, cứ đầu mùa mưa cá đẻ hay khi lụt vừa dứt, nước sông cạn, ông cùng vài người trong xóm, có cả ông Năm Xoan, buổi tối đi bắt cá bằng tay không. Người bắt cá bằng tay có tiếng nhứt xóm không ai ngoài ông Mới mù thổi bễ lò rèn cho ông Bảy. Ông Bảy dắt ông Mới ra bờ sông, tới cầu xi-măng, chỗ cá ở nhiều trong các hầm tre, ông Mới cởi hết áo quần nhảy ùm xuống nước, lặn một hơi dài, khi ông trồi lên mặt nước thì con cắn giữa hai hàm răng, con nắm trong tay, quăng mạnh lên bờ cho ông Năm Xoan bắt bỏ vô thùng. Ông Mới có tiếng là tay sát cá, trái lại ông Năm Xoan thì nặng vía, nên ông Bảy-lò-rèn không cho xuống nước, chỉ đứng trên bờ xách đèn măng-sông và lượm cá bỏ vô thùng. Ông Bảy-lò-rèn chết trong tù vì bị tra tấn. Ông Mới chết vì bịnh già trong Nhà dưỡng lão Đồng Đế. Cây đèn măng-sông của ông Năm Xoan đã bán cho Loan-khểnh năm ngoái. Người và vật kỷ niệm những đêm bắt cá bằng tay không trên sông Quán Trường đã lần lượt ra đi theo thời gian nghiệt ngã, chỉ còn giòng sông vẫn chảy, vẫn rộng lượng với mọi người…
               Bà Năm Xoan ngâm mình khá lâu dưới nước, mười đầu ngón tay đã móp. Bà cảm thấy ớn lạnh, lấy miếng trầu gói trong bịch ny-lông để trong cái thau đựng hến thả nổi trên mặt nước, bỏ vô miệng nhai bõm bẽm. Miếng trầu cay nồng khiến người bà ấm lên. Bà mời bà Bảy-lò-rèn:
               - Ăn miếng trầu cho ấm bụng rồi cào tiếp, chị Bảy.
               Bà Bảy-lò-rèn đương sàng rổ hến vừa cào cho cát lắng xuống nước, trả lời:
               - Tui có đây rồi, thím ăn đi. Được nửa thau chưa?
               - Gần. Mình cào một hơi nữa rồi về nghe chị.
               - Ừ, về sớm. Bỏ nhà đi lâu tui cũng ớn.
               - Còn con Hạnh đâu mà hồi xế tui hổng thấy nó.
               - Nó đi lao động công ích ở Trảng É cả tuần rồi, nghe nói mấy ổng cho phá rừng trồng mì cứu đói.
               Bà Năm Xoan nuốt ực miếng nước trầu, nói bâng quơ:
               - Thời buổi sống nhờ củ nhờ rau mà!
               Tiếng chuông nhà thờ Bình Tâm đổ một hồi dài báo cho con chiên biết giờ lễ chiều. Bà Năm Xoan và bà Bảy-lò-rèn để nguyên quần áo ướt mèm đi về nhà. Tới miếu Bà thì hai bà gặp thằng Quí và thằng Định vai gánh giỏ, lưng đeo ba-lô lên rẫy.
               Thằng Quí, cái miệng luôn đi trước, nhanh nhảu nói:
               - Chào hai mẹ chiến sĩ, vì nước ướt mình.
               Bà Bảy-lò-rèn tiện tay tát vô mặt nó. Quí né khỏi, cười ha hả. Bà Bảy phải cười theo:
               - Cha mày chớ! Hễ thấy mặt mày là tao ứa gan rồi.
               Bà Năm Xoan hỏi:
               - Sao hai đứa không chờ ăn cái gì rồi đi?
               Quí trả lời:
               - Lên rẫy thiếu gì cái ăn, thím.
               Bà Bảy-lò-rèn “xì” một tiếng:
               - Tướng mày đi phá rẫy người ta chớ đi giữ rẫy gì.
               Nói xong, bà kéo tay bà năm Xoan lôi đi:
               - Thôi, về mau đi thím, đi cho khuất cái bản mặt thằng Quí.
               Về tới nhà, bà Bảy-lò-rèn thấy con Hạnh nằm sải dài, ngủ như chết trước hiên. Cái nón lá úp trên ba-lô để ngay dưới chân nó, nhìn không khác gì dân đầu đường xó chợ. Bà tức mình đánh thức nó dậy, thấy trên miệng nó có một mắc me non. Bà tin chắc chỉ có thằng quỉ sứ Quí mới chơi cái trò này chớ không ai khác. Tức thằng Quí lẫn con Hạnh, bà la lên:
               - Đồ con gái hư! Ngủ như chết, trai nó rinh đi cũng không hay không biết.


               10


               Rẫy của Định nằm lưng chừng thân núi Hòn Dựng giữa, rộng chừng hai sào, diện tích không thấm vào đâu so với những rẫy khác trong khu vực, nửa trồng bắp, nửa trồng mì Ấn Độ. Cả rẫy chỉ có vài bụi chuối và chục cây đu đủ. Đất ở đây cằn, không như đất rẫy ở Đại Điền, Đắc Lộc, không hạp chuối, chỉ ăn được một hai lứa rồi tiệt luôn. Ngồi trên rẫy, nhìn thấy rõ cánh đồng Vườn Bí, xóm chợ Nhỏ và xa hơn nữa là tượng Phật trắng trên đồi Trại Thủy.
               Mấy ngày đầu sau biến cố lịch sử 1975, các trường học tạm thời đóng cửa, con Trang và thằng Định ở nhà không biết làm gì ngoài việc tham gia một vài công tác bất thường ở địa phương. Cả xóm lúc này không ai dám ở không, vì đêm nào cũng học tập “lao động là vinh quang, lang thang là chết đói”, họ bèn tự phát cơm đùm cơn xách, già trẻ, gái trai kéo nhau vô Hòn Dựng phá rừng làm rẫy. Vậy là hai chị em “thấy người ta ăn khoai mình cũng xách mai chạy quấy”…
               Những nhà đông lao động, biết ăn biết làm xưa nay, lẹ chân lẹ tay chiếm những vạc đất tốt dọc theo suối ở Hòn Dựng ngoài, gần đường xe lửa. Rồi tùy sức lực từng nhà, các rẫy khác cứ nối tiếp nhau, kéo dài tới tận Hòn Dựng giữa. Còn Hòn Dựng cùng, lọt về mé Trảng É không ai đủ sức đụng tới.
               Hòn Dựng là núi trọc rừng thưa, không có cây lớn, phần nhiều là hốp. Hốp mọc từng vạc, lâu năm lan rộng thành rừng, cành lá quấn quýt nhau cùng với các loại dây leo chằng chịt, lẫn trong đó là chà ran, sò đo và các loại cây dại khác mọc từng cụm nhỏ, thấp lè tè. Dân phá rừng làm rẫy chọn những vạc hốp nhiều, vì đất ở đó xốp, phát sạch. Sau đó, họ lựa số hốp già, thẳng, bó thành bó vác về nhà cắm chái đậu tây, dưa leo, làm giàn bầu, giàn mướp, có khi bán cho người khác làm vách nhà, còn lại thì chờ khô đốt sạch cùng với những thứ cây tạp khác, vừa làm phân cho rẫy lại vừa lợi công dọn.
               Hốp cháy nghe lốp bốp như pháo nổ vang cả khu rừng, khiến các loài thú quen sống trong cảnh tịch mịch xưa nay hoảng sợ, kéo nhau trốn qua Hòn Dựng cùng.
               Tới mùa rẫy, khi bắp đậu hột, khoai kết củ, thì lũ heo rừng, nhim (chuột rừng), sóc và khỉ kéo nhau từng bầy về ủi phá, ăn cả củ lẫn trái còn non. Chủ rẫy sợ nhứt là heo rừng và khỉ. Một bầy heo rừng chừng chục con, một đêm có thể ủi sạch hàng trăm gốc mì. Còn khỉ thì thích bẻ bắp non, trái nào cũng lột vỏ, nhâm nhi vài miếng rồi liệng xuống gốc. Quanh rẫy lớn, người ta đoán chừng đường đi của heo rừng, đào hầm đặt bẫy, nhưng chưa ai bẫy được con nào. Ban đêm, rẫy nào cũng có người canh giữ kẻ trộm bốn chân lẫn hai chân. Nằm trên chòi cao, nghe sột soạt dưới rẫy  là lấy bồ cạp ra đánh, các chòi khác nghe báo động, đánh theo. Tiếng bồ cạp lốp bốp vang lên giống như tiếng hốp nổ khi đốt rẫy ngày nào, phụ họa theo là tiếng leng keng của những chiếc vành chân đạn pháo và tiếng reo hò đuổi thú. Cả khu rừng náo động. Bầy thú rừng hoảng sợ, heo thì ụt ịt, khỉ thì khọt khẹt, đua nhau gọi bầy đàn, chạy tán loạn, náo động cả vạt rừng.
               Đêm đầu tiên một mình Định ngủ chòi giữ rẫy, cả bầy heo rừng hơn chục con lớn nhỏ kéo tới chân chòi. Định vội lấy kẻng vừa đánh vừa la. Bầy heo như kẻ điếc cứ hì hục ủi phá. Dưới ánh trăng non, Định thấy con heo đầu đàn đứng dưới chân chòi nhìn lên như muốn tấn công kẻ dám trêu chọc chúng. Định mất bình tỉnh, càng đánh kẻng càng la đến khan cổ nhưng con heo đầu đàn không những vẫn tỉnh bơ, mà còn tỏ ra điên tiết hơn, hùng hục cạ lưng ủi mõm vô chân chòi. Cái chòi càng lúc càng rung mạnh. Định sợ điếng người, hồn khôn hồn dại bay đi mất, vãi đái trong quần, cứng miệng không la được. Ngay lúc đó, tiếng bồ cạp từ chòi bên cạnh nổi lên liên hồi, con heo đầu đàn đương ngon trớn húc chân chòi bỗng dưng khựng lại, ụt ịt lên mấy tiếng rồi bất ngờ đâm đầu chạy. Cả bầy heo kêu la xua đuổi nhau chạy theo nó. Định tỉnh hồn. Sau này nó mới hiểu ra là loài heo rừng ở đây chỉ sợ tiếng bồ cạp…
               Đường lên rẫy của Định tuy hơi xa nhưng dễ đi, cứ men theo con suối chính là tới. Quí nghe đồn có một con cọp ba chân sống quanh quẩn khu vực này, thường ra bờ suối uống nước, nên lúc này cảm thấy không an tâm, bèn hỏi Định:
               - Mày gặp “ổng” lần nào chưa?
               - “Ổng” nào?
               - Thì ông Ba mươi có ba cái “chi” đó.
               Định cười trêu:
               - Cọp nói cọp cho rồi, bày đặt “ổng” với ẹo, “chi” với mô.
               - Mày gan trời hay gan cóc tía. Đi rừng ngày một mà hổng cữ kiêng gì ráo.
               - Mình hiền từ lương thiện, không phá phách ai thì sợ gì phải cữ với kiêng.
               Định nhớ hôm đầu tiên cầm rựa lên rừng phát rẫy, bà Năm Xoan đã căn dặn hai chị em đủ điều. Nào không được kêu “cọp”, phải kêu ông “Ba mươi”. Nếu dại mồm dại miệng kêu “cọp” thì tiếng nói của mình động tới tai ổng, tức khắc ổng mò theo tiếng nói, tìm tới tận nơi, bắt mình ăn thịt liền. Nào là trước khi ăn phải khấn mời kẻ khuất mặt khuất mày… Có một điều bà dặn khiến Định tức cười, nhưng không dám cười trước mặt bà, là không nên bạ đâu đái đó, nhứt là tránh đái nơi những tảng đá bằng, tròn nhẵn hay những gốc cây to. Mấy chỗ đó là nơi cư ngụ của thần linh, “mắc vô” thì mang họa, rụng tóc trọc đầu, mang đau mang bịnh… Định không hề tin những điều này, nhưng Trang thì tin. Trang tin vì sợ rủi ro bị thần linh quở mắng, ốm đau, nhà không có tiền thuốc thang chạy chữa, có nước chết… Vì những chuyện này mà thỉnh thoảng hai chị em hục hặc nhau trên rẫy.
               Hai đứa đã đi tới hòn đá bàn nằm chắn hết nửa lòng suối. Định thích ngồi trên hòn đá này nghỉ chân mỗi lần trên đường lên rẫy hay về nhà. Ngâm hai bàn chân xuống dòng nước mát lạnh rồi hất tung những giọt nước cho chúng bay lả tả trước mặt như những đốm pháo bông thì không gì cho thú bằng. Nhưng dân làm rẫy ở đây đều cho rằng hòn đá này là bàn cờ tiên, không ai dám đặt chân lên, khi tới đây, họ đi tránh hòn đá, tạo thành con đường vòng trước khi bắt đầu leo lên dốc núi thoai thoải.
               Lên tới lưng chừng núi, Quí đứng lại nhìn bốn bề, thấy một rừng bắp chen lẫn mì xanh um. Giữa màu xanh thẫm điệp trùng, vài làn khói bếp mỏng manh, uốn lượn trên nền trời tỉnh mịch buổi hoàng hôn. Bỗng dưng một làn gió mạnh thổi qua, mang theo mùi thơm ngào ngạt của hương bắp, một mùi hương thân quen nhưng đã lâu lắm rồi Quí mới được nghe lại. Nó cảm thấy xao xuyến trong lòng và chợt nhận ra gần ba năm nay, cả xóm chợ Nhỏ đỡ thiếu hột ăn một phần là nhờ những đám rẫy này.
               Quí lặng lẽ theo Định vô trại. Trại nằm giữa rẫy. Bên góc trại có cây chay cổ thụ, Định làm một cái chòi canh thú trên đó, thay cái chòi cũ không an toàn. Bên cạnh chòi là túp lều nhỏ, vách và cửa lều đều bằng hốp, kín đáo. Trong sân trại chi chít ớt và cà dái dê sai trái. Bao quanh trại toàn là sả tủa lá xanh um. Dân rẫy trồng sả để trừ rắn độc.
Đặt ba-lô xuống chồ*, Định nói với Quí:
               - Anh mệt thì nằm nghỉ, tui sửa nhúm lửa.
               - Tao nhúm lửa, mày bẻ bắp.
               - Nhúm lửa xong phải ra suối lấy nước, anh có dám đi không?
               - Ừ… ừ… Thôi để tao đi bẽ bắp cho…
               Trong thâm tâm Quí sợ gặp ông Ba mươi nơi bờ suối, nên vừa nói xong nó vội lấy rổ te te ra rẫy. Quí muốn lựa những trái bắp non để nấu chè cho ngon, nhưng trời đã chạng vạng, nhìn không rõ hột, nó phải dùng ngón tay bấm qua lớp vỏ. Khi vừa đủ bắp nấu chè, vừa đủ bắp nướng, Quí quay lại trại, tình cờ đá trúng cái bẫy lồng. Con vật bị mắc bẫy kêu thé lên, khiến Quí giật thót người. Nó nhận ra đó là tiếng kêu đáng thương của một con nhim. Quí lặng lẽ cầm chiếc bẫy về trại.
               Bếp lửa đương cháy lớn ngọn nhờ củi khô Định trữ sẵn trong trại. Trên bếp, xoong nước suối đương bốc hơi chờ sôi. Định ngồi chăm chăm lột vỏ khoai mì đem từ nhà, để luộc. Quí cầm chiếc bẫy lồng đưa trước mặt Định nhưng nó không để ý. Quí lên tiếng:
               - Tao bắt được một tên “đạo tặc”.
               Lúc này, Định nhìn lên thấy con nhim ngồi co ro trong bẫy. Ánh lửa trong bếp hắt ra sáng rõ khuôn mặt buồn rũ rượi của nó. Định bỏ chiếc dao lột mì xuống đất, nói với con nhim:
               - À, lại mày nữa! Lần trước tao đã tha tội chết cho, bây giờ ngựa quen đường cũ hả?
               Quí ngạc nhiên hỏi:
               - Sao mày biết chắc nó là con lần trước?
               Định ba hoa:
               - Nhim ở rừng này, con nào mà tui hổng biết mặt. Con này thì mặt mày ủ rủ như bị mất sổ gạo, bộ tịch giống hệt… Anh biết giống hệt ai không?
               - Ai?
               - Giống ông cán bộ xã mà năm ngoái được giới thiệu “thành tích tham ô” trước dân đó.
               Cả hai đứa đều cất tiếng cười rân. Con nhim sợ, ngồi co rúm trong góc lồng.


               11


               Họ Thái của Bảy Diện ở xóm cây Sung là họ lớn nhứt trong thôn Phước Điền. Cả xóm bốn chục hộ thì hai chục hộ mang họ Thái chánh gốc, mười hộ dây mơ rễ má với họ Thái. Đó là chưa kể những người gốc tích họ Thái ở xóm này sinh cơ lập nghiệp ở những nơi khác, trong lẫn ngoài nước. Nếu có cơ hội tập trung lại hết thì có thể thành lập một làng họ Thái..
               Trên cương vị họ tộc, Bảy Diện là người lớn nhứt, thuộc phái chánh, được hưởng quyền thừa tự. Trong họ hiện thời còn có một người vai chú của Bảy Diện, đó là Hương Khâm, nhưng ông này thuộc phái nhì, đối với dòng họ chỉ là bậc trưởng lão thôi.
               Từ ngày Chánh Ban chết, Hai Thể đi Pháp rồi ở hẳn bên đó, Bảy Diện thì đi theo Việt Minh, phái chánh họ Thái không còn người đảm đang việc hương khói nhà thờ họ, nên cả họ họp lại, quyết định cử Hương Khâm thay thế và trích cấp cho ông một mẫu ruộng để lo việc cúng giỗ dòng họ hàng năm. Ba năm nay, từ ngày Bảy Diện ở miền Bắc về, Hương Khâm muốn giao quyền lại cho Bảy Diện mà chưa được vì mắc mứu cái thửa ruộng hương hỏa kia. Ông chỉ muốn giao quyền mà không giao ruộng, còn Bảy Diện đòi có ruộng mới nhận quyền. Hương Khâm khăng khăng nói ruộng này đã được chánh quyền Nguyễn Văn Thiệu hợp thức hóa cho ông theo chánh sách “người cày có ruộng” rồi. Bảy Diện cật lực phản đối, lấy lý do ruộng hương hỏa chớ đâu phải ruộng công mà “hợp thức” với “hợp ngủ”. Và theo ông, cái gì của Mỹ-ngụy đều là tàn dư, không có giá trị với cách mệnh. Một phần ba dòng họ theo phe Hương Khâm, một phần ba dòng họ ủng hộ Bảy Diện, còn một phần ba có thái độ lưng chừng. Công việc bàn giao chưa giải quyết ra đầu ra đũa, cứ thả nổi như bèo dạt mây trôi qua hai kỳ giỗ họ. Kỳ này, theo yêu cầu của cả họ tộc, mọi việc còn mắc mứu trong họ phải được giải quyết xong xuôi, nếu không thì tội cho vong linh ông bà tổ tiên.
               Năm nào cũng vậy, để chuẩn bị giỗ họ, những người có vai vế trong họ họp trước một tuần ở nhà Hương Khâm.
               Sau khi hớp một ngụm trà nóng lấy giọng, Bảy Diện sửa bộ, đứng lên nói theo thói quen:
               - Thưa các đồng chí, hôm nay ta có một buổi họp quan trọng để thảo luận một số vấn đề chủ yếu sau đây… - Ông đằng hắng một tiếng rồi tiếp: - Một là đám giỗ họ năm nay sẽ tổ chức ra sao? Hai là vấn đề bàn giao trưởng họ tộc cùng ruộng hương hỏa của họ tộc. Ba là vấn đề cất lại nhà thờ họ theo ý kiến đề xuất của các đồng chí từ năm ngoái.
               Có tiếng thì thầm sau lưng Bảy Diện: “Tụi tui đồng chí với ông hồi nào?” Bảy Diện biết đó là tiếng của Mười Trong, người của Hương Khâm, nhưng ông giả bộ phớt lờ cho êm chuyện, vì lúc này trong lòng ông lại dấy lên nỗi căm giận thằng Thái Dũng. Lúc mới về lại quê nhà, ông nghe “quần chúng phản ảnh” hồi Tết Mậu Thân 68, Thái Dũng đã lái máy bay đánh bom xuống vùng này để tiêu diệt một đơn vị bộ đội miền Bắc. Nhà thờ họ Thái đã lãnh trọn một quả bom lửa. Gia phả của dòng họ đã cháy ra tro, mấy năm sau mới lập lại được, nhưng từ đời ông sơ trở lên thì không còn ai nhớ đích xác. Bảy Diện cho rằng quân ác ôn như thằng Thái Dũng phải cho đi học tập cải tạo mút mùa, may cho nó là đã chạy theo “bợ đít” đế quốc Mỹ. Bảy Diện lại đằng hắng cho dịu cơn tức rồi tiếp:
               - Trước khi ta đi sâu vào vấn đề, tui đề nghị chú Ba báo cáo tình hình tài chánh của họ.
               Hương Khâm đứng dậy, tới bàn thờ lấy quyển sổ cất dưới chân cổ bồng đưa cho Thái Ngươn, nói:
               - Năm ngoái mày ghi chỗ nào, giờ thì đọc lên cho họ nghe. Nhớ đọc “i-ta- li” nghe mày!
               Thái Ngươn giở quyển sổ, nhìn lướt qua những con số một lượt rồi đọc:
               - Thưa với họ, lúa còn một trăm giạ, nếp hai chục giạ và tiền mặt hai trăm chẵn. Hai trăm này chỉ có trong sổ sách, còn tiền mặt thì như xưa nay, đã cho bà con trong họ vay năm ngoái, năm nay bà con sẽ trả cả vốn lẫn lời rồi ai muốn vay tiếp thì vay…
               Bảy Diện hỏi:
               - Còn lúa của họ mùa này tính vào chưa?
               Hương Khâm “hừ” một tiếng:
               - Hư ráo cạo lấy giống gì tính. Ruộng trước mắt đó, bộ cha thằng Rơi hổng thấy à?
               - Hư thì hư nhưng không đến nỗi ráo cạo. Không nhiều thì ít, chú phải tính cho họ chứ. Nhà nước cấp ruộng cho dân làm, ruộng hư cũng còn tính thuế cơ mà.
               Lại thêm cái vụ thuế nông nghiệp! Bảy Diện căm Ban sản xuất xã mà đứng đầu là Tư Mẫn chẳng khác gì thù thằng Thái Dũng. Mùa này, theo lịnh của thành phố, Tư Mẫn đã lãnh đạo Ban Sản xuất xã xét duyệt những trường hợp miễn giảm thuế nghĩa vụ lương thực cho bà con. Tư Mẫn chẳng vị tình, nể nang ông, “nện” cho ông sáu chục phần trăm trên số thuế phải đóng. Ông mà cũng chỉ được giảm tỉ lệ bằng thằng Tiến Hơn à? Láo thật! Đảng lãnh đạo chứ Tư Mẫn lãnh đạo sao? Chuyện này ông sẽ đưa ra chi bộ mổ xẻ tới nơi tới chốn…
               Mười Trong lên tiếng cắt đứt ý nghĩ của Bảy Diện:
               - Tui có ý kiến, vấn đề này phải đưa ra giữa họ bàn cho nó “dân chủ xã hội chủ nghĩa” như bác Bảy thường hô hào. Còn ở đây mình chỉ nên bàn cặn kẽ chuyện cúng quảy thôi.
               Bảy Diện phản đối:
               - Không thể thế được! Tôi không nhất trí. Ta phải tính cho thông cái khoản lúa hương hỏa đã. Từ đó mới có cơ sở để bàn chuyện cúng quảy chứ.
               Mười Trong cười mỉa:
               - Lúa nếp, tiền bạc còn chừng đó không đủ cúng sao?
               Sáu Đường, người của Bảy Diện đốp lại:
               - Ủa, anh Mười là người cõi trên chắc? Bác Bảy chỉ lưu ý lúa hương hỏa mùa này thôi. Còn cái phần trước kia thì họ đã đồng ý để dành cất mới nhà thờ họ cho nó đàng hoàng to đẹp hơn rồi mà.
               Hương Khâm muốn xuống nước một chút, trước là để làm dịu bớt tình thế, sau là để thực hiện mưu chước của phe ông: thả con tép bắt con tôm - mà con tép không ở trong túi ông búng ra. Ông ôn tồn nói:
               - Thôi! Chuyện cúng quảy ông bà mình hơn thua làm gì thêm mang tội. Xưa giờ không có cha thằng Rơi thì mọi chuyện cũng đình huỳnh. Cha thằng Rơi muốn tao phải đóng cho họ mùa này bao nhiêu lúa thì cứ nói thẳng, năm hay mười giạ gì để tao còn liệu, chớ thiệt ra nhà tao hiện thời cũng không còn hột mén.
               Hương Khâm nói để làm mặt chơi chớ liệu gì mà liệu. Lúa của họ còn trong bồ nhà ông. Lúa nở dầu hao, ông bà ta nói vậy, làm sao không dư ra được. Trong lúc này thì Bảy Diện lại nghĩ tới mẫu ruộng hương hỏa của họ. Ông đã vận động những người đứng về phía ông ủng hộ ông thắng cuộc kỳ này. Ông quyết lấy lại đám ruộng đó để cho thằng Rơi. Lâu nay, ông giận nó, nó không thèm nhìn mặt ông. Cha con như người dưng nước lã không bằng. Cả làng cả xóm tiếng ra tiếng vô chuyện này, nhứt là mấy con mẹ ngồi lê đôi mách, thọc gậy bánh xe, khiến ông phải nhiều đêm suy nghĩ lại cái tình cha con. Xét cho cùng là lỗi ở ông, có sanh mà không một ngày dưỡng. Nếu nó biết khôn như người ta thì đưa vợ con về ở với ông để còn hưởng phần hương hỏa, nối dõi tông đường… Đằng này, nó là đứa ngang ngạnh, bất cần ông. Thôi, cứ bằng mọi cách lấy lại mẫu ruộng đó rồi có gì sẽ tính sau. Ông tự nhắc thầm trước khi lên tiếng:
               - Tôi chỉ nhắc cho các đồng chí biết chứ tôi chẳng ăn uống gì trong cái khoản đó cả. Bây giờ chú ba đã nói thế thì các đồng chí cứ biểu quyết. - Ông lại phòng xa: - Mà phải biểu quyết theo tinh thần dân chủ tập trung đó nhé!
               Cha của Thái Dũng cướp lời:
               - Làm ruộng thì có mùa được mùa mất, còn chuyện cúng quảy ông bà thì hết đời này tới đời khác chớ hổng phải một ngày một bữa. Tui nghĩ bác Ba nên đóng cho họ hai chục giạ để khỏi phụ lòng ông bà.
Chà, hai chục giạ! Con số này đối với Bảy Diện là quá ít. Nhưng cái mà ông nhắm tới không phải hai chục giạ lúa này. Vì vậy, ông sợ người của ông chưa “quán triệt ý đồ” của ông mà phát biểu lung tung thì trật đường rầy hết. Ông bèn lên tiếng chận đầu:
               - Tôi cũng nghĩ như chú Tám nó. Dù sao đó cũng là của cải của ông bà, đồng thời là nghĩa vụ của chú Ba, không thể trốn tránh được.
Hương Khâm trúng ý, cười toe toét:
               - Nếu họ định đoạt chừng nào thì tao chịu chừng đó. Nói là nói cho tụi bay biết thôi chớ hồi nào tới giờ tao có hẹp hòi, ăn xén ăn bớt của dòng họ bao giờ đâu. Đem của nhà ra thì có. Tụi bay nghĩ coi! Rằm mồng một, ngày tư ngày Tết, bông hoa trà quả, nhang đèn chè xôi tao cúng kiến đầy đủ.
               Sáu Đường nói móc:
               - Bác tốt ra sao thì trong họ ai cũng biết rồi. Còn chuyện cúng quảy, bác có bỏ của nhà ra đâu. Mẫu ruộng hương hỏa đó ai hưởng? Giờ thì họ gia giảm cho bác, bác còn kể lể gì nữa.
               Bảy Diện cắt ngang:
               - Thôi chú Sáu. Chuyện lúa má như thế là ổn rồi nhé. Bây giờ các đồng chí nên thảo luận vấn đề cúng kính.
               Mười Trong chưa kịp đốt điếu thuốc vội lên tiếng:
               - Theo tui năm nay họ mình nên cúng thiệt lớn, lớn hơn mọi năm trước kia. Thứ nhứt là hai năm rồi, mình cứ sợ mấy ông Việt Cộng không cho cúng nên chỉ xú xẩm, thành ra con cháu không được miếng mỡ dính mép, tội nghiệp sắp nhỏ…- Mười Trong hít mũi mấy cái ra vẻ cảm động: - Thứ hai là con cháu trong họ tộc đi ở tù đã về đông đủ, họ phải ngã heo ăn mừng lớn mới được.
               Bảy Diện cho rằng lời phát biểu của Mười Trong mang tình chất phản động, sừng sộ đứng lên nói:
               - Được đi học tập cải tạo tư tưởng để quán triệt đường lối chủ trương của cách mạng mà chú dám bảo là đi tù à? Còn ai dám bảo cách mạng không cho cúng, ai nào? Có phải chú bị thằng địch tuyên truyền láo toét nên phát ngôn bừa bãi như thế không? Ta cúng ông bà tổ tiên chủ yếu là tưởng nhớ công ơn thôi. Ông bà đã chết có ăn được đâu mà phải cúng linh đình.
               Mười Trong nói kháy:
               - Anh Bảy nói vậy chớ tui thấy nhiều người đi làm cách mệnh mấy mươi năm về, quên tuốt tổ tiên ông bà, tới cái lạy cũng tiếc, chỉ “nhớ ơn Bác với Đảng” thôi.
               Hương Khâm xoa dịu tình hình:
               - Mình cúng ông bà cốt ở tấm lòng chớ hổng phải ở cái lạy. Còn chuyện cúng giổ năm nay, tao thấy họ mình hổng phải thấp hèn gì trong làng trong xã, nên làm sao cho vừa mắt, coi được. Tao nhớ hồi anh Chánh còn sống, đám giổ họ năm nào ảnh cũng rước cả gánh hát bội về hát cho cả làng coi thả cửa. Sợ gì mà tốn kém, cứ lấy lúa của họ ra cúng.
               Trong bụng Hương Khâm nghĩ, nếu có bàn giao trưởng tộc cho Bảy Diện thì vốn liếng của họ sẽ không còn bao nhiêu khi đến tay Bảy Diện. Công của ông làm ra xưa nay, ngu gì để cho Bảy Diện hưởng, mặc dù trên danh nghĩa là tài sản của họ. 
               Mười Trong bắt tiệp:
               - Hồi cộng sản chưa vô, có năm thằng Dũng kéo cả băng đờn trống ca hát xập xình suốt đêm. Có năm làm thịt cả con bò, bia lon rượu Mỹ ê hề, ăn nhậu lăn chiêng ngã đèn, ai thấy cũng nể dòng họ Thái xóm cây Sung.
               Sáu Đường lên tiếng phản đối:
               - Ngụy khác, cách mệnh khác. Tui đồng ý là mình cúng kính ông bà ở tấm lòng, còn đem cái ăn ra mà so đo thì mất hết ý nghĩa. Ông bà có ăn thịt uống bia được đâu, hay làm rình rang ra để mấy thằng coi miếng ăn to bằng cái đình được dịp no say.
               Mười Trong và Sáu Đường đã hiềm khích nhau từ ngày Bảy Diện về đây vì chuyện Thái Dũng phá nhà thờ họ. Mười Trong tin chắc rằng chính Sáu Đường đã bịa chuyện sai sự thực để lấy điểm với “anh Bảy bí thơ”, đồng thời chạy tội của mình là đưa Việt Cộng về ở trong nhà thờ họ để làm nút chận đường tiến quân của lính Việt Nam Cộng hòa đi giải vây thị xã Nha Trang, bị Việt Cộng chiếm trong ngày đầu năm Tết Mậu Thân. Mười Trong khăng khăng nghĩ Sáu Đường muốn nói cạnh nói khóe mình, phùng mang trợn mắt chỉ tay vô mặt anh ta, nói:
               - Mày… mày dám nói thằng nào coi miếng ăn hơn vàng! Đ. mẹ, đám giỗ họ năm ngoái con vợ thằng nào đã cũm mất cái đùi heo đem về cho chồng con nó ăn ngập mặt rồi đổ thừa cho chó tha. “Cha nó thó” chớ “chó nó tha” gì!
               Sáu Đường cũng chẳng phải tay vừa, xô ghế sừng sộ đứng lên:
               - Đ. mẹ, chó chẳng chó! Hổng biết con chó nào say nằm ngã lăn ở bụi chuối kia kìa. Hừ, say tới nỗi mấy con chó tới liếm đồ dơ đồ dáy dính trên cái bản mặt đó mà cứ tưởng vợ mình nựng mình. “Thôi bà, nhột quá, già rồi mà bà làm vậy cả họ thấy cười chết!” - Sáu Đường nhái giọng lè nhè của Mười Trong.
               Mười Trong giận sôi máu, thuận tay nắm cái bình trà trước mặt liệng thẳng vô mặt Sáu Đường. May cho anh này kịp thời né khỏi. Cái bình va mạnh vô tường, văng miểng tứ tung. Mọi người đều bàng hoàng trước sự việc diễn ra quá nhanh và bất ngờ. Sáu Đường xăn tay áo, sẵn sàng nắm đấm. Mười Trong nghiến răng chưỡi thề. Hai người gờm nhau, chưa kịp lựa miếng đánh nhau thì kẻ bị ấn vai ngồi xuống, người  bị đẩy dang xa. Đánh nhau bằng tay chân không được, họ ấm ức rướn gân cổ “đánh nhau” bằng mồm. Hương Khâm bất bình, nạt lớn:
               - Hai đứa bay có chịu ngậm miệng không? Hổng sợ thiên hạ cười hà? Đương nói chuyện cúng quảy, tự nhiên “xé pho” nói chuyện ăn cho sanh sự. Câm miệng hết đi!
               Bảy Diện nguýt Mười Trong trước khi lên tiếng:
               - Ta đang bàn chuyện nghiêm chỉnh. Các đồng chí không có lý do gì gây mâu thuẫn nhau. Chú Sáu hãy nhịn một tí, còn chú Mười…
               Mười Trong cười gằn:
               - Muốn hơn thua thì tao hơn thua cho biết tay. Thằng này hổng ngán thằng nào hết. Đ. mẹ, cái đồ ăn cứt hổng biết thúi. Đồ dựa hơi, gió chiều nào ngã theo chiều đó…
               Bảy Diện nói như ra lệnh cho Mười Dư - người của mình - đương nắm chặt tay Mười Trong:
               - Chú Dư, đưa hộ chú Mười về nhà đi.
Mười Trong gạt phăng tay ông em, phản đối:
               - Đ. mẹ, tao ở đây, không đi đâu hết. Thằng nào giỏi làm gì tao?
Hương Khâm biết thâm ý của Bảy Diện, nói chận họng:
               - Cha thằng Tiền thả tay anh mày ra coi. Còn cha thằng Sáng, mày nể tao nhịn đi một chút được hông?
               Người của Bảy Diện sốt ruột lên tiếng:
               - Dẹp ba cái “chuyện ruồi bu” đi! Bây giờ bàn lại chuyện cúng quảy đi. Năm ngoái sao năm nay vậy, còn ai muốn cúng to thì cứ góp thêm tiền của vô.
               Sáu Đường đủ khôn ngoan để dằn cơn giận, coi như không có chuyện gì xảy ra trước đó, lên tiếng:
               - Chú Ba đồng ý chớ?
               Bảy Diện tấn công thêm:
               - Các đồng chí thấy thế nào? Nhất trí cả chứ? Tôi thấy trong lúc đất nước ta còn nghèo, nhân dân ta còn khó khăn, một mặt phải khắc phục hậu quả chiến tranh do đế quốc Mỹ để lại, một mặt phải đối phó với thiên tai, địch họa, ta có bao nhiêu cúng bấy nhiêu. Các đồng chí phải quán triệt chủ trương ở trên là tiết kiệm để sản xuất, tiết kiệm để xây dựng và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ta nên bớt đi một miếng ăn để chung lo xây dựng nhà thờ họ đàng hoàng hơn, to đẹp hơn các đồng chí ạ.
               Hương Khâm đang vân vê điếu thuốc sâu kèn trên môi, vội ngậm nó bên mép, lên tiếng:
               - Cha thằng Rơi lại nói chánh trị nữa rồi. Nếu không để lúa của họ làm vốn xây nhà thờ thì hổng cần ai đóng hết, tui lo hết. Bây giờ có ai ấm ức gì không? Muốn nhiều hơn hay ít hơn cứ nói thẳng ra đi.
               Người của Hương Khâm chỉ có Mười Trong là muốn cúng to, còn tất cả đều muốn cúng nhỏ như năm ngoái, năm kia. Họ bàn tính với nhau xong rồi xúi cha Thái Dũng lên tiếng. Ông ta xăng xái đứng lên:
               - Thưa với họ là nãy giờ mình bàn vô tính ra chuyện cúng quảy quá nhiều, xém đổ máu cũng vì chuyện này mà không ra đầu ra đũa gì ráo. Tổ tiên ông bà dưới chín suối biết được chắc sẽ đau lòng vì bầy con cháu đương có mặt tại đây. Người ta nói miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu. Ô hô! Mình chớ vin vô miếng ăn mà hơn thua khích bác nhau. Mọi người ngồi trong bàn này ai cũng thừa hưởng điền thổ của ông bà để lại, nên ai cũng phải có nghĩa vụ đóp góp để cúng kiến, nhưng thời buổi “khốn khổ khốn nạn” này, thì nên đóng theo khả năng….
               Ý kiến của cha Thái Dũng không được đa số hưởng ứng. Mọi người nhao nhao lên. Nhưng ngay cả những người vừa xúi ông nói cũng kịp thời nghĩ lại: đóng theo khả năng là bao nhiêu cho vừa? Kẻ ít người nhiều rồi dòm ngó nhau, tiếng này tiếng kia, mệt tai lắm. Rốt cuộc, đa số chấp thuận đề nghị của bên Bảy Diện.
               Hương Khâm thấy bên mình đã nhượng bộ bên Bảy Diện hai nước, mà theo ông đó là hai con tép để nhử bắt một con tôm. Ông nghĩ thầm: loại tôm càng mới đã chớ, rồi vui vẻ nói:
               - Chuyện cúng quảy vậy là yên. Giờ thì mình tập trung bàn chuyện cất nhà thờ họ. - Ông đằng hắng để lấy thế tấn công: - Hồi nãy cha thằng Rơi có nói cái nhà thờ họ là tai mắt mặt mũi của họ. Nhưng cất nhà thờ họ “long trọng” gấp trăm ngàn lần cất một cái nhà để ở, phải lựa chọn cuộc đất cho hạp chớ hổng phải bạ đâu cất đó. Lâu nay, tiếng là ông bà ở đỗ trong nhà này chớ thẳng thừng mà nói họ tộc mình coi ra cũng ngon lành lắm, đâu có thua hèn ai. Mấy năm trước, hồi họ định cất lại nhà thờ thì tao với cha thằng Dũng có đi coi thầy. Bà thầy này ở chợ Phường Củi, ở trong hẽm mà cũng nổi tiếng, đã từng coi số cho tướng Nguyễn Cao Kỳ, bả nói họ mình muốn phát vương phát tướng phải dời nơi thờ phượng tổ tiên tới gần chỗ kinh kệ…
               Để chuẩn bị bắt con tôm càng, Hương Khâm uống một ngụm trà lấy giọng:
               - Chỗ kinh kệ ở đây thì bà con mình biết hết rồi đó. Còn đất nào thì tao nói luôn thể. Hồi nhà thờ họ sập, thằng Dũng có rước một ông thầy địa người Tàu về đây coi thế đất để cất lại. Ông này đã nhắm hết đất đai trong họ mình, rốt cuộc ổng đã chọn được đất Gò Chùa. Đất Gò Chùa nổi lên như lưng một con rồng đương lượn. Phía nam có dãy núi Hòn Dựng là sơn, phía bắc có sông Quán Trường là thủy, phía đông có biển là đại dương, phía tây có mặt trời chiếu thẳng vô là hào quang. Sơn thủy hữu tình, đại dương mênh mông, hào quang sang chói thì còn ai bằng nữa. Ông thầy đã cắm cọc và coi hướng hẳn hoi. Họa đồ tao còn giữ kỹ với lại một bài thơ dài nữa. Tao không nhớ hết bài, chỉ thuộc hai câu đắc địa là: “Sông xanh, núi biếc, lộc trời. Đại dương biển bạc, vàng mười hào quang.” Đó, cha thằng Rơi thấy chưa? - Hương Khâm lại dò chừng thái độ của Bảy Diện bằng cái nhìn sắc sảo: - Cất một cái nhà thờ họ mà không tin thầy địa lý thì con cháu sẽ không ngóc đầu lên nổi, nó lại oán trách ông bà, oán trách người trưởng tộc. Họ mình xưa nay đại phước nên thời nào cũng có người làm ông to, ông bự. Thời vua chúa có cụ Cửu*, thời Pháp thì có anh Chánh, thời Mỹ thì thằng Thái Dũng làm tới chức trung úy, thấp nhứt cũng trung sĩ như thằng Rơi, giả dụ cộng sản không vô đây thì tương lai của tụi này còn ngon lành lắm, đó là bên quốc gia. Còn bên cộng sản thì có cha thằng Rơi làm tới chức bí thơ, bét lắm như Sáu Đường cũng là người có công với cách mệnh, nuôi dấu Việt Cộng trong nhà. Không lẽ họ tộc mình “chói lọi” như vậy mà cứ để ông bà ở đỗ hoài cũng chướng, nên cất nhà thờ họ trên đất Gò Chùa hiện thời là hợp với ý trời và lòng mong muốn của con cháu.
               Hương Khâm đưa mắt nhìn mọi người và nở nụ cười kín đáo. Nhiều tiếng vỗ tay tán thành. Người của ông thì hoàn toàn hùa theo ý kiến của ông rồi. Người theo phe lưng chừng thì tinh thần đương lung lạc. Còn người của Bảy Diện bị những lời lẽ vừa rồi của Hương Khâm thuyết phục, không chừng họ cũng muốn dựa hơi vào “con tôm càng” của ông ta. Bảy Diện chưa kịp phản ứng thì Sáu Đường vụt miệng lên tiếng:
               - Sao hồi đó trong họ tộc đôn đốc chú đứng ra cất thì chú lại chần chờ?
               Cha Thái Dũng nói hớt lời Hương Khâm:
               - Chú Ba chần chờ vì không được tuổi liên tục ba năm, với lại cũng hổng phải là người có quyền tối thượng. Quyền tối thượng ở anh Bảy. Phải chi hồi đó có anh Bảy thì con cháu mình đâu tới nỗi khổ như chó mấy năm nay.
               Bảy Diện tức điên người, chỉ thẳng vô mặt cha Thái Dũng, gằn từng tiếng:
               - Ai khổ như chó mày thử chỉ cho tao xem nào? Mày đừng mượn cớ bêu rếu cuộc cách mạng vĩ đại này nhé! Hôm nay, tao nói cho mày biết, thằng Thái Dũng con mày không trốn theo bọn đế quốc ra nước ngoài thì đừng hòng thoát tội với chính quyền cách mạng nhé. Đất Gò Chùa là của tao, xin lỗi chú Ba, không ai trong họ được quyền đụng vào.
               Cha Thái Dũng đập bàn thách thức:
               - Ông là đích tử đích tôn trong họ, cái gì ông cũng muốn “ôm” hết. Muốn vậy thì cứ dọn nhà thờ họ về nhà mà thờ đi. Có gan thì cứ làm rồi biết ai có quyền hay không có quyền.
               Hương Khâm vẫn bình tỉnh, lên tiếng:
               - Thôi, hai đứa bay im đi, không nói chánh trị nữa. Nói nữa không khéo mẻ đầu sứt trán ráo.
               Đúng là Bảy Diện không dám đem bàn thờ họ về nhà mình, vì xem ra trong tình thế hiện nay, có nhiều cái bất lợi cho bản thân ông.
               Mọi người nghĩ rằng ông đã mắc câu qua lời thách đố của cha Thái Dũng, không cách nào gỡ ra được. Người của Hương Khâm chuẩn bị mừng thắng lợi. Người của Bảy Diện thì đương phân vân, bỏ Bảy Diện thì không đành mà phản đối chuyện cất nhà thờ họ trên đất Gò Chùa lại càng không nên. Rủi sau này con cháu chẳng làm nên trò trống gì thì oan uổng quá. Riêng Bảy Diện đương tìm thế gỡ. Chính vì muốn nói chánh trị với mọi người mà ông đã vô ý đi lạc một nước cờ. Thay vì bàn tính chuyện bàn giao trưởng tộc trước, ông lại mất cảnh giác để Hương Khâm lái sang chuyện cất nhà thờ họ. Phải chi ông nắm được mẫu ruộng hương hỏa mà Hương Khâm đương quản lý thì dễ trở cờ. Ông không ngờ Hương Khâm quá lão luyện. Ông ta đã tung ra một đòn tâm lý làm dao động tinh thần những người phe mình. Có thiệt đất Gò Chùa là đất phát quan phát lộc không? Hay là mê tín dị đoan? Theo ông, toàn bộ dân miền Nam bị văn hóa đồi trụy và phản động của Mỹ-ngụy đầu độc nên mê tín dị đoan hết. Nhưng, nếu đất Gò Chùa là đất phát quan phát lộc thiệt thì ông càng không để mất… Có thể điều này đúng không chừng, vì ông sắp được đi học khóa bồi dưỡng lãnh đạo trong nay mai, biết đâu đó là cơ hội cho ông thăng quan tiến chức.
               Trong lúc Bảy Diện suy nghĩ gỡ thế bí thì người của ông lại thản nhiên bàn tán cái lợi khi cất nhà thờ họ trên đất Gò Chùa. Thái Ngươn lúc này không còn đứng hàng hai nữa, múa tay nói oang oang:
               - Tui thấy dòng họ mình xưa nay tứ tán lung tung là do chỗ thờ ông bà chưa trụ được. Nay cơ mệnh trời đã cho bác Bảy về, nếu tất cả bà con mình đồng ý cất nhà thờ họ trên đất này thì phước đức cho dòng họ Thái biết chừng nào. Tui nghe nói người cộng sản thì luôn luôn quên lợi ích cá nhơn phải không bác Bảy?
Bảy Diện gằn giọng đánh trả:
               - Mày biết gì về cộng sản mà được quyền nói. Ta đang xây dựng xã hội chủ nghĩa thì vứt mẹ cái cơ mệnh, cái đại phước, đại quan, đại lộc, đại cái đếch gì đó đi. Tôi xác định đất Gò Chùa là đất canh tác, không thể sử dụng sai mục đích. Đây là chủ trương chung của Đảng và nhà nước, các đồng chí phải quán triệt một cách sâu sắc mới được. Tôi thấy đất nghĩa trang của họ còn trống nhiều, thời buổi này bỏ đất hoang là sai phạm chính sách. - Ông nuốt nước bọt rồi đột nhiên hạ thấp giọng, vỗ về mọi người: - Ta cất nhà thờ họ ở đó thì hợp tình hợp lý vô cùng bà con mình ạ. Hàng năm, con cháu tụ tập về đó cúng kính ông bà, mỗi người thắp một nén hương trước mỗi ngôi mộ của các bậc tiền hiền để tỏ lòng tưởng nhớ công ơn, tốt quá đi chứ, văn minh quá đi chứ! Tôi nhớ hồi tôi chưa tham gia cách mệnh, họ tộc ta có lệ như thế cơ mà. Về đây mấy năm rồi, thấy họ bỏ lệ này, tôi buồn lắm… Bây giờ ta nên hồi phục cái lệ cổ truyền này phải không chú Ba và bà con trong họ.
               Mọi người ngồi im. Ai cũng biết lòng dạ của Bảy Diện nên chẳng ngạc nhiên trước những lời lẽ xuống nước của ông. Còn Hương Khâm thì cười mỉa, nói:
               - Cha thằng Rơi nói nghe hay thiệt! Thử hỏi từ cổ chí kim, có ai cất nhà thờ họ trên đất thổ mộ không? Chú mày đi Bắc về Nam, ngẫm lại coi.
               Sáu Đường nói khống không:
               - Con thấy có chớ bác Ba. Thời tam hoàng ngũ đế, mẹ của Lưu Bị nghèo quá, phải cất cái chòi cạnh một gò mả hoang để đẻ Lưu Bị. Lớn lên, Lưu Bị đánh đông dẹp bắc, thắng trận, làm tới chức hoàng đế. Qua đó, tui thấy ý kiến của anh Bảy coi bộ hạp với lời của bà thấy bói. Với lại thổ mộ của họ mình lại nằm gần chùa Nghĩa Hòa nữa, tổ tiên dòng họ mình tha hồ mà nghe kinh kệ.
               Mọi người đều cười rung cả ghế ngồi, xua tan bầu không khí căng thẳng. Sáu Đường biết họ đương cười mình, giận đỏ mặt:
               - Ở đây có ai đọc được tích Tàu đâu mà biết chuyện đó chớ.
               Cha Thái Dũng vừa cười mũi vừa nói:
               - Anh nói lộn rồi anh Sáu ơi! Truyện Tam Quốc nói mẹ Lưu Bị đẻ Lưu Bị trong cái bị nên đặt tên là Lưu Bị chớ. Có tích mới dịch ra tuồng là vậy.
               Bảy Diện nghiêm mặt, vỗ mạnh tay xuống bàn:
               - Ta đang nói chuyện nghiêm túc, các đồng chí đem chuyện bị với bao ra mà đùa à? Tôi nhắc lại quyết định của tôi là ta cất nhà thờ họ trên đất nghĩa trang, không thể cất trên đất Gò Chùa. Chánh sách là chánh sách, đâu ra đó. Còn vấn đề ruộng hương hỏa của họ, ta nên bàn dứt điểm, trưa quá rồi, các đồng chí phí phạm thì giờ quá.
               Hương Khâm đưa tay xoa xoa hàm râu cằn, nói giọng khiêu khích:
               - À há! Ngộ hông? Tính chưa xong chuyện nhà thờ họ mà bác Bảy nó bắt quàng sang chuyện đất hương hỏa.
               Bảy Diện có thói quen hễ ai phản đối ý kiến của mình thì hùng hổ trấn áp liền:
               - Chú quá “lạc hậu” quá! Tôi không thể theo đuôi chú được. Tôi nhắc lại ở đây lần chót: chủ trương của Đảng là không được phép cất nhà trên đất canh tác. Với tư cách là một đảng viên, tôi phải bảo vệ chủ trương này đến cùng.
               Hương Khâm đủ bình tỉnh “đốp” lại:
               - Xin lỗi mày nghe! Mày đừng hòng đem cái đảng của mày ra mà áp đặt vô dòng họ Thái này, nghe chướng tai lắm. Ai đã giữ đất đai  nhà cửa cho mày để mày về đây mà hưởng? Dòng họ đã nhân nhượng cho mày nhiều lắm rồi, mày còn đòi gì nữa?
               Bảy Diện bất ngờ bị chiêu “hồi mã thương”, giận run người, quên cả lời vị nể:
               - Đồ léo lận! Chúng mày muốn giựt ruộng từ đường của họ chắc? Không xong với ông đâu nhé!
               Hương Khâm đập bàn, chỉ tay vô mặt Bảy Diện nạt lớn:
               - Nè, cái quân ăn nói lộn ngôn! Đừng cậy quyền ỷ thế mà dọa thằng già này nghe. Tao nói cho mày rõ: đây là buổi họp họ. - Hương Khâm nói dằn thêm: - Buổi họp họ, mày nghe rõ chưa?
               Hương Khâm dằn mạnh cái ly không xuống bàn rồi quày quả bỏ đi xuống nhà dưới.
               Trước thái độ giận dữ và khích bác của Hương Khâm, Bảy Diện chết điếng cả người. Ông có cảm tưởng những lời nói của Hương Khâm đương đè nặng đôi vai và nêm chặt trong cuống họng ông. Ông đưa mắt nhìn những người lâu nay theo ông, tâng bốc ông, ông nói điều gì họ cũng dạ dạ thưa thưa, thì ngay lúc này họ đều thờ ơ, câm như hến. Ngay cả Sáu Đường là người thân tín nhứt cũng né tránh cái nhìn cầu viện của ông. Anh này nhìn ra ngõ, thấy thằng con đương thập thò trước cổng kêu “cha, cha…”, lấy cớ bỏ đi. Những người khác bắt chằm đi theo để tránh cái không khí như bốc mùi xác chết trong nhà. Vậy là hết! Hết hy vọng có chút ruộng để lại cho thằng Rơi. Hết cả uy tín trong họ. Rồi sau buổi họp họ bất thành hôm nay, mấy cái miệng của phe Hương Khâm sẽ oang oang cho cả dòng họ Thái xóm cây Sung biết chuyện Hương Khâm mạt sát ông thế nào, rồi từ đó lại lan ra cả làng, cả xã… Trời ơi! Nếu ai có quyền phép gì để khóa mồm khóa mép chúng lại thì tốn kém bao nhiêu ông cũng sẵn sàng bỏ ra. Ông choáng váng ôm đầu đứng dậy, bước đi nặng nhọc. Đất của dòng họ Thái dưới chân ông đương quay cuồng, quay cuồng….


               12


               Bảy Diện mải mê chùi bóng bộ căm chiếc Honda 65 thì nghe tiếng vợ giục:
               - Mai lên đường rồi, còn bao nhiêu việc chưa làm, thế mà ông cứ chăm đầu vào con xe. Xe với cộ, chán ơi là chán! Ông không chịu lên nhà thằng Rơi nói cho xong việc à?
Bà Bảy thấy ông không đáp lại mà vẫn gắn mặt vô chiếc xe, tức mình từ trong nhà nói vọng ra:
               - Tôi biết ông coi trọng con xe hơn của cải trong nhà mà!
               - Thì bà để cho tôi xong việc đã chứ.
               - Biết bao giờ mới xong nào? Mấy hôm nay lúc nào ông chả lau với chùi!
               - Bà tính đến ba tháng không dùng, không bảo quản tốt, để cho nó rỉ sét à? Tiền túi ta bỏ ra chứ có ai biếu không đâu...
               - Này, tôi nói cho mà biết. Vắng ông, lũ trộm vào cái nhà này thì không còn cái quần để mặc chứ đừng nói xe với cộ nhé! Ông liệu mà tính, tôi không có ý kiến nữa.
               Bà đã giận. Mà khi bà giận thì ông phải xuống bếp nấu cơm và ăn một mình. Giá như không có bữa cơm đãi khách chiều nay, ông sẽ không thèm nhượng bộ bà chút nào hết. Bữa cơm chiều nay có mặt cả Tiến Hơn lẫn Đoàn Bê. Mặc dù không mời không gọi, nhưng sáng nay Tiến Hơn chở Đoàn Bê đến nhà ông, người mang con vịt, người cặp cá tràu (con đực, con cái) gọi là chút quà tiễn ông lên đường đi học khóa bồi dưỡng lãnh đạo. Tiến Hơn còn hứa sẽ lo hết phần rượu. Bây giờ liệu sao đây? Ông thấm một chút nước miếng vô chóp miếng giẻ lau rồi cẩn thận chùi vết bụi bám nơi kẽ gương chiếu hậu. Khi đã yên tâm không còn vết bụi nhỏ nào dính trên xe, ông thận trọng dắt nó vô nhà trên, tận buồng trong, khóa cả hai bánh vô một sợi xích lớn và dài mắc chặt trong chân cột nhà. Ông sung sướng ngắm chiếc xe lần cuối rồi mở tủ lấy hai tấm khăn nylon trải bàn quấn kín. Ông đằng hắng một tiếng thiệt to để tự khen mình, rồi cốt nói lớn cho vợ nghe:
               - Chả biết thằng Ngươn có nhà không, nhờ nó lấy hông-đa chở đi cho nhanh.
               Không nghe tiếng bà trả lời. Ông kéo ống quần bà ba xuống cho thẳng thóm, lấy mũ cối đội lên đầu, xuống nhà bếp thăm dò tình hình. Chưa tới cửa bếp, ông đã nghe tiếng thổi lửa vo vo. Vậy là không có vấn đề gì. Ông vội vàng quay lui, đi thẳng qua nhà Thái Ngươn.
               Thái Ngươn và Rơi bằng tuổi nhau, sanh cùng năm Dậu. Người ta đồn rằng Bảy Diện đã “tò tí te” với một cô thôn nữ xinh đẹp làng bên cạnh. Lúc đó, cô nàng mới mười lăm tuổi, là thợ gặt thuê của Chánh Ban, có mang. Chuyện đổ bể, Bảy Diện sợ bị kiện, trốn theo Việt Minh. Cô nàng sanh con chưa đầy tháng đã bồng bỏ trước nhà Chánh Ban. Bà Tư, chị đầu của Bảy Diện quá tuổi lấy chồng nhận nuôi nó, coi như con đẻ và đặt tên là Rơi. Dầu sao cũng là máu mủ của dòng họ Thái. Ở tuổi còn bú, không có vú mẹ, Rơi thường được bú chung vú với Thái Ngươn, vú của thím sáu, mẹ Ngươn. Có lẽ uống chung một nguồn sữa từ tấm bé nên hai đứa thân nhau, thương nhau như cật ruột. Rơi hoàn toàn không biết cha mình là ai, cứ tin cô mình là mẹ ruột, cho tới năm 1975, khi quân Bắc Việt sắp chiếm Nha Trang cô anh mới “bật mí” lai lịch của cha mình. Anh thiệt sự bị “sốc” nặng. Tinh thần chao đảo, tình cảm chao đảo trong một cơn lốc lịch sử mà cá nhơn anh là một nạn nhơn, không có quyền chọn lựa. Anh muốn trốn đi khỏi đất nước này để tránh gặp mặt những kẻ chiến thắng trong đó có cha anh. Nhưng ơn sâu nghĩa nặng và linh thiêng là tình mẫu tử với cô anh, và tình yêu thương vợ con anh. Anh chấp nhận ở lại…Nhưng khi anh gặp Bảy Diện lần đầu tiên, tình huống diễn ra được gói gọn trong hai chữ: ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng cái nhìn, ngỡ ngàng cách xưng hô, ngỡ ngàng cái nắm tay, ngỡ ngàng lời nói… Cuối cùng Rơi ngỡ ngàng thái độ của Bảy Diện đối với anh. Thái độ của người chiến thắng đối với kẻ chiến bại. Anh không tìm ra được tình cha con mà anh hằng mong đợi. Cha anh là lửa, anh là nước. Qua những lời nói chánh trị hàng ngày của Bảy Diện, anh biết mình không thể sống chung nhà với cha anh, nhứt là có cả vợ con ông ngoài Bắc đưa vô. Anh muốn mình tồn tại, vợ con mình tồn tại trong hoàn cảnh riêng của mình. Anh xin rẻo đất gò của cô, tức mẹ nuôi anh, bỏ hoang lâu ngày ở đầu xóm chợ Nhỏ, cất một mái nhà tôn vách ván ở riêng. Và mẹ anh cũng không chịu nổi cảnh chung đụng với gia đình Bảy Diện, giao hẳn nhà mà lâu nay bà giữ dùm cho ông ta, về sống với gia đình anh.
               Nhà nằm sát đường cái quang, dưới bóng cây xoài già chưa hề ra trái có lẽ vì thiếu hơi người. Rơi tự đóng một chiếc xe nước mía đặt dưới gốc xoài cho mẹ và vợ anh bán. Anh mở một cửa hiệu nhỏ ngay trong nhà, mua bán phụ tùng và sửa chữa xe đạp. Những ràng buộc về tình cảm và đời sống giữa anh và Bảy Diện coi như không hề có, nhưng anh vẫn cho thằng Tâm, con anh, chạy đi chạy về với ông nội nó. Anh không muốn con mình bị mặc cảm vì không có ông nội.

***

               Cho tới chiều nay Bảy Diện mới biết Thái Ngươn chạy hông-đa nhanh như đi ăn cướp. Đoạn đường từ nhà Thái Ngươn tới nhà Rơi không đầy một cây số mà ông muốn đứng tim tới ba bốn lần. Khi tới nhà Rơi, nó không hạ ga mà vẫn chạy như bay rồi đột nhiên thắng lại, chiếc xe bật ngược lên, cái cằm nhọn của ông đâm thẳng vô cái lưng tấm thớt của Thái Ngươn, vừa đau vừa mất hồn, ông nhảy lẹ xuống xe, xoa cầm, tức giận nói:
               - Quân ngụy có khác. Tao còn muốn sống chứ chưa muốn chết đâu nhé!
               Thái Ngươn cười giả lả nói:
               - Con đã “cảnh giác” bác phải ôm chặt rồi mà.
               - Ôm chặt, ôm chặt! Mày phải biết nếu tao không ôm chặt thì đã rơi từ lâu rồi chứ?
               Rơi đương vá ruột xe, nghe tiếng nói bì bõm trong tiếng xe còn rú mạnh ga trước cửa, ngẩng đầu nhìn ra thấy Bảy Diện hầm hầm bước vô nhà trong khi Thái Ngươn vừa xuống xe tắt máy. Rơi không chào Bảy Diện, chỉ hỏi Thái Ngươn:
               - Xe mới sấy nòng xi-lanh chạy “bốc” không mày?
               - Bốc, vô cùng bốc nên ổng mới cự tui đó hổng nghe sao?
               Rơi vẫn coi như không có mặt Bảy Diện, nói:
               - Nhưng “bốc” quá, coi chừng chết không kịp ngáp.
               Bảy Diện kênh kiệu đứng giữa nhà lên tiếng:
               - Mẹ thằng Tâm có nhà không mày?
               Im lặng. Sự im lặng không làm vừa lòng Bảy Diện.
               - Mày điếc hả thằng kia? Tao hỏi mẹ thằng Tâm có nhà không? Mày nghe rõ chứ?
               Lại im lặng. Bảy Diện tự biết ông không thể hạnh họe được Rơi, bèn kéo ghế ngồi nhìn quanh nhà rồi nhìn ra xe nước mía qua khuôn cửa sổ để tìm bóng dáng con dâu. Không thấy con dâu, ông thấy chị ông vừa múc nước mía cho đám thợ gặt tan đồng vừa nói chuyện với Thái Ngươn. Hai người to nhỏ với nhau, không chừng họ nói chùng nói lén về ông. Luôn luôn “đề cao cảnh giác” đã hằn sâu trong tâm trí ông, nhứt là từ ngày xảy ra chuyện họp họ bất thành tới giờ, ông không còn tin tưởng tuyệt đối Thái Ngươn như trước đó. Thằng này không kiên định lập trường, không chừng nay mai nó sẽ trở thành kẻ thù của mình. Bảy Diện nghĩ bụng rồi đứng phắt dậy, quày quả đi về phía xe nước mía. Bà Tư thoáng thấy ông, liền nói lớn cốt cho Thái Ngươn nghe:
               - Cậu Bảy bữa nay rảnh hé?
               Thái Ngươn hiểu ý, nói trớ sang chuyện khác:
               - Đám mía cô nhờ con hỏi người ta hổng chịu bán với giá đó.
               - Chớ họ còn đòi bao nhiêu nữa? Có một rẻo xíu xiu mà thách cho cố!
               Chắc chắn họ đang nói xấu ông. Nhìn nét mặt của hai người thì ông biết ngay mà. Làm sao qua mặt ông được chứ. Ông cười mũi:
               - Mía với mật thế nào mà mắc với rẻ chi Tư?
               - Ừ, tui nhờ thằng Ngươn mua dùm đám mía để bán lại kiếm được đồng lời nào hay đồng đó để nuôi thân mà.
               Hứ! Mua. Bán. Lời. Không chịu lao động cứ mang mãi tư tưởng bóc lột trong đầu. Cả chị lẫn con. Lâu nay xã bận chuyện cải tạo ruộng đất nên tổ chức hợp tác xã mua bán vẫn còn xem nhẹ. Ông đi học về rồi sẽ tính, không thể để tư nhân làm kinh tế lung tung như thế này được. Tư Mẫn có bao giờ quan tâm tới vấn đề này đâu. Hắn chỉ biết thóc với gạo, ruộng với đất và đôi bò tơ cùng đàn heo của hắn thôi. Bảy Diện nghĩ trong bụng.
               Bà Tư bưng ly nước mía mời Bảy Diện:
               - Trời đương hầm. Cậu uống cho mát.
               - Con vợ thằng Rơi đâu chị?
               - Ụa, chớ hổng phải nó xuống nhà cậu à? Nó đi đâu từ xế tới giờ. Cậu uống nước đi. Mà cậu hỏi có chuyện gì gấp gáp không?
               - Ngày mai tôi đi học ba tháng tận Đà Nẵng,…
               Bà Tư cũng như cả làng cả xã đều biết chuyện này. Không những biết mà còn bàn tán vì sao Bảy Diện phải đi học. Già rồi mà còn học với hành gì nữa. Kỳ này đi là đi luôn thôi… Vậy mà lúc này, trước mặt Bảy Diện, bà làm bộ như mới nghe lần đầu, làm ra vẻ ngạc nhiên:
               - Chớ cậu đi lâu vậy rồi việc làng xã, nhà cửa ai lo? Lại sắp tới đám giỗ họ rồi…
               Bảy Diện có thèm để ý tới giỗ họ giỗ hàng gì đâu. Ông đi học trước vậy mà hay.
               - Tôi sắp xếp đâu vào đó cả rồi, chỉ hiềm nỗi nhà chỉ còn mỗi mợ nó, đêm hôm sợ có chuyện chẳng lành xảy ra...
               - Ụa, còn hai đứa con của cậu mợ đâu?
               - Chúng đi học xa cả rồi, lâu nay chị không biết à? Đứa Đà Nẵng, đứa Qui Nhơn.
               Bà Tư đoán được ý định của Bảy Diện, nói chận họng:
               - Thằng Rơi mới cằn nhằn con vợ nó hổng chịu bắt thằng Tâm về đó.
               - Cằn nhằn cái chi? Nó ở với nội nó chứ ở với người dưng nước lã sao? Chẳng lẽ cái thằng mất dạy đó muốn cháu tôi cũng giống như nó, không biết máu mủ mình là ai sao?
               - Cậu nói nghe được hông? Như thể trét cứt vô mặt tui không bằng. Ai nuôi nó, ai dạy nó, ai cho nó ăn học, ai dựng vợ cho nó? Cậu hay tui? Nói nghe thử coi!
               Bảy Diện không ngờ chị mình vốn xưa nay hiền lành như cục đất mà bây giờ cũng to tiếng với ông. Bà này đã nghe lời thằng Rơi xem thường ông rồi. Nếu không vì sự hy sinh cả cuộc đời của bà để cưu mang hòn máu đỏ của ông thì ông không nhịn miệng đâu. Hơn nữa, ông đến đây không phải mục đích tranh cãi với bà. Ông bèn xuống nước:
               - Tui lỡ lời, chị đừng chấp nê. Trước kia vì hoàn cảnh lịch sử, tui không nuôi được đích tử, nay có điều kiện thuận lợi, tui có quyền nuôi đích tôn chứ.
               - Cậu chỉ nuôi chớ có dạy nó được đâu. Cậu có biết là trưa nay, vợ chồng nó cấu xé nhau một trận lăn chiêng đổ đèn cũng vì thằng cháu đích tôn của cậu hông? Hồi sáng cô giáo lên nhà mắng vốn nó trốn học mấy bữa nay.
               - Thế thì quá quắt lắm! Quá quắt lắm!
               Bảy Diện nói phang ngang lời bà Tư khiến bà không dằn lòng được. Chẳng cần biết Bảy Diện nói ai quá quắt, bà bắt trớn nói luôn:
               - Phải mà, quá quắt lắm cậu Bảy hà. Quá quắt từ ngày thằng Tâm chạy lên chạy xuống nhà cậu, tui thấy nó hư hỏng nhiều, khó dạy khó biểu nhiều.
               Bảy Diện đứng phắt dậy, sừng sộ:
               - Thế là chị bảo tui không biết dạy nó à? Tui lãnh đạo xã này còn được huống chi một thằng nhãi con như nó.
               - Làm gì hung hăng dữ vậy cậu Bảy. Tui báo cho cậu biết thằng Rơi bắt vợ nó phải tìm thằng Tâm dắt về nội trong chiều nay. Tui cứ sợ thằng nhỏ về đây rồi cách gì cũng bị một trận đòn nên thân. Cậu biết khi thằng Rơi nổi nóng lên thì trời can cũng không được mà.
               - Nếu chị nói thế thì kể từ giờ tôi bắt luôn thằng Tâm, không cho nó về đây nữa.
               - Cậu nói ngộ hông? Cha mẹ nó còn đó chớ có chết đâu. Tui cũng còn sống sờ sờ đây mà. Con hư phải dạy chớ.
               - Chế độ ta không dạy dỗ con cái bằng roi vọt. Nó ưu việt hơn chế độ tư bản ở chỗ này. Cả chị lẫn thằng Rơi đều lạc hậu, cần phải cải tạo lâu mới được.
               - Phải quá mà. Mẹ con tui còn lạc hậu, không biết dạy con dạy cháu nên để nó hư hỏng chớ sao. Còn cậu làm ông to ông bự ở xã này, quyền sanh sát trong tay, cứ cho mẹ con tui cải tạo đi.
               Rơi và Thái Ngươn đương ở trong nhà, nghe tiếng ồn ào ngoài hàng nước mía, cùng chạy ra. Cả hai đều thấy sắc mặt của Bảy Diện tái mét như gà bị cắt tiết. Ông lầm lủi vừa bước vừa cất tiếng chữi thề:
               - Đ. mẹ! Để xem thử ai thắng ai cho biết.

* Chú thích PHẦN 1
(1) Thơ Hoàng Trung Thông 
(2) Oui, merci lieuteunent: Vâng, vâng, cám ơn trung úy.
   (3) Việt Minh kia kìa, Việt Minh ở đây.
(4) Theo thời giá năm 1978. 
(5) Nói lái: làm một ly. 
(6) Một lít (tiếng lóng của dân nhậu).
(7) Chồ: giường ngủ ở rẫy, thường làm bằng những thân cây ghép lại




PHẤN HAI


CẦU VÁN ĐÓNG ĐINH





               1





               Văn phòng của hợp tác xã tạm thời đặt trong đình Phước Châu. Việc lấy đình này để sửa sang lại làm trụ sở hợp tác xã cũng không phải là chuyện đơn giản. Mặc dầu trên nguyên tắc đình làng do xã quản lý, nhưng thực tế vẫn còn Ban Trị sự của nó. Mà Ban Trị sự gồm những ông chánh, ông hương ngày xưa còn sót lại và những người giàu có trong làng. Mặt trận Tổ quốc xã phải đứng ra tổ chức cuộc họp để thương lượng với Ban Trị sự đình. Cuối cùng, Ban Trị sự phải đồng ý giao cho xã toàn quyền sử dụng đình cho hợp tác xã và rước bài vị thần đình vô gởi thờ ở chùa Nghĩa Độ.

               Tài sản cố định đầu tiên của hợp tác xã là cái đình trống trơn này. Bàn làm việc thì ủy ban xã cho mượn một cái, chùa Nghĩa Độ cho mượn một cái và hai cái ghế ngựa. Các ban bệ cũng chưa đủ người, chỉ có bộ phận kế toán là tương đối đủ. Kế toán trưởng Huy, nguyên là cán bộ thuế của xã và các nhân viên đều là đoàn viên đã được học một khóa kế toán sáu tháng ở Trường Kế toán Tài chánh của tỉnh. Các cán bộ định mức đương học ở Cam Ranh sắp mãn khóa. Cán bộ kế hoạch chỉ mới có Mười Tân, nguyên hiệu trưởng trường tiểu học dưới chế độ cũ, đã về hưu trước 75. Còn cán bộ phụ trách cung tiêu là Ba Thảnh, nguyên tập đoàn trưởng tập đoàn sản xuất thôn Phước Châu. Ban chủ nhiệm và Ban kiểm soát tạm thời được chỉ định trong vụ đầu tiên gồm tám người. Năm quản trị và ba kiểm soát. Trưởng ban Kiểm soát chính là Hai Thìn, trưởng ban Nông hội xã. Bao nhiêu con người này không thể cùng ngồi làm việc trên hai chiếc bàn kia được, nên không ai nhắc ai, chúng được dành cho bộ phận kế toán. Bộ phận kế toán đương chuẩn bị sổ sách thu tiền cổ phần công hữu, cổ phần sản xuất của xã viên, lập hồ sơ hóa giá trâu bò cày, máy cày, máy bơm, bình phun thuốc trừ sâu v.v… Trong thời gian này, các cán bộ khác đều làm việc ở nhà. Ban Quản trị và Ban Kiểm soát họp nhau tại nhà Tư Mẫn mỗi sáng đầu giờ làm việc, bàn bạc công việc cần làm trong ngày rồi phân tán, mỗi người lo mỗi việc.

               Nhà Tư Mẫn sát khuôn viên của Nghĩa Độ, cách văn phòng hợp tác xã chừng trăm mét nếu đi đường vòng, đi dường tắt thì chỉ băng qua hàng rào keo phân chia ranh giới giữa đình và chùa. Thầy trụ trì chùa Nghĩa Độ là cậu ruột của Tư Mẫn, tự lập chùa riêng tu theo phái Phật giáo Cổ sơn môn.

               Sáng nay, Tư Mẫn hẹn họp với Năm Thân và Ba Trung - một người đảm trách chức bí thơ chi bộ, còn người kia là chủ tịch xã - đều do thành phố điều về. Năm Thân và Ba Trung, sau khi giải quyết một vài công việc ở ủy ban, hai người cùng tới nhà Tư Mẫn. Ngang qua văn phòng hợp tác xã, họ thấy Ba Thảnh cùng ba thanh niên trong thôn đương chuyển lúa giống của tập đoàn sản xuất thôn Phước Châu cho hợp tác xã mượn vô cất tạm trong hội trường. Năm Thân rủ Ba Trung tạt vô một chút. Ba thanh niên cùng một lúc thấy mặt cả ông bí thơ lẫn ông chủ tịch xã thỉ tỏ ra hăng hái với công việc hơn. Năm Thân hỏi Ba Thảnh:

               - Này đồng chí  Thảnh, lúa để trong đó liệu có đảm bảo an toàn không?

               - Thưa anh, tui sẽ nhờ anh em du kích gác trong đêm nay. Ngày mai các đội sẽ về nhận hết liền.

               - Sao đồng chí  không cho cất thẳng vô trong đình? Hay là sợ thần đình không cho?

               Ba Thảnh đưa mắt nhìn Năm Thân, nhìn Ba Trung rồi vừa cười vừa trả lời:
               - Thần đình đã cho nhưng thần giữ cửa đình thì chưa chịu giao chìa khóa.
               - Sao lạ vậy? - Năm Thân tròn mắt hỏi Ba Thảnh, rồi quay sang nói với Ba Trung: - Họ đã ký biên bản giao cho ta hết rồi mà.
               - Tui đã chốt lại vấn đề với đồng chí Tư Mẫn, nếu họ không thi hành đúng những điểm ghi trong biên bản thì hợp tác xã cứ hành động.
               Năm Thân nói với vẻ hơi bực tức:
               - Các anh còn nhân nhượng quá. Đã mất bao nhiêu thì giờ để bàn rồi, cạn tình cạn lý rồi. Bây giờ còn bàn gì nữa? Họ không chịu giao chìa khóa cho ta thì ta cứ phá cửa mà vô. Đình này không còn là của riêng họ nữa, của nhân dân rồi. Đồng ý các anh để lúa giống tạm ở hội trường. Nhưng ngày mai nếu nhận lãnh xăng dầu, phân bón thì các anh để ở đâu? Cũng cất trong hội trường à? Và tất cả tài sản của hợp tác xã đều nhét vào cái phòng nhỏ xíu xiu đó cho tới khi nào nhận được chìa khóa từ tay họ hay sao? Không thể như thế được.
               Năm Thân nói vừa dứt lời, Ba Thảnh liền ra hiệu cho ba thanh niên ngưng chuyển lúa. Ông nói với Năm Thân:
               - Hôm trước anh Mẫn mới phá cửa hội trường mà đã bị mang tiếng rồi.
               - Tiếng gì? Tư Mẫn sợ họ hả? - Năm Thân nói và cười khẩy.
Ba Trung nói:
               - Tui nghĩ Tư Mẫn không sợ họ đâu. Nhưng trong tình hình hiện nay, chúng ta làm căng quá cũng không lợi cho phong trào. Dân chúng ở đây vẫn còn tin vào thần đình. Đa số bà con mỗi khi qua lại trước đình vẫn dở mủ dở nón vái chào một cách kính cẩn.
               - Như vậy sao các anh không họp dân lại để giải thích?
               Mọi người không hiểu ý của Năm Thân muốn nói giải thích cái gì, đành im lặng nhìn nhau.
               Năm Thân và Ba Trung cảm thấy đã trễ giờ hẹn họp với Tư Mẫn, nên không ai nhắc ai, cùng một lúc quay xe đạp tới nhà Tư Mẫn.
               Tư Mẫn đương ngồi xếp bằng lên lòng ghế sa-lông, kê quyển sổ công tác trên đùi, thảo những điểm chính để trình bày trong buổi họp. Vừa thấy dáng Tư Mẫn, Năm Thân đã lên tiếng ngay:
               - Đồng chí Mẫn ơi! Có ai đang đợi đồng chí ngoài văn phòng hợp tác xã kìa.
               Tư Mẫn ngước lên nhìn hai người, tình thiệt hỏi:
               - Cô cán bộ thu mua heo phải không?
               Năm Thân và Ba Trung đều bật cười. Ba Trung cười to hơn:
               - Đồng chí đã ở kế bên chùa, lại nuôi heo, rồi phá đình nữa, bị mang tiếng là đúng rồi.
               Tư Mẫn hiểu ra ý nghĩa sự việc sau câu nói có ý trêu chọc của Ba Trung. Ông không cười. Mà cười sao được? Chính vì ông chủ quan nên tự hại mình. Ông trả lời:
               - Tui đương điên đầu vì chuyện đó đây. Tưởng rằng thế nào cũng thuyết phục được ông cậu cho họ gởi cái bài vị vô chùa thờ tạm thời, nhưng cậu tớ một mực từ chối. Ông đem giới luật nhà Phật ra để thuyết giảng cho tớ hiểu rằng chùa chỉ thờ Phật, chớ không thờ Thần.
               - Vậy là đồng chí không có cách giải quyết nào khác?
               - Tui chờ các đồng chí tới góp ý đây.
               Tư Mẫn rót nước trà mời Năm Thân và Ba Trung. Ánh mặt trời bỗng dưng chiếu thẳng vô chiếc bàn xa-lông chỗ ba người ngồi. Căn phòng sáng sủa hơn.
               Từ ngày có mặt Năm Thân và Ba Trung, Tư Mẫn không còn cảm thấy đơn độc trong công tác. Mặc dầu có nhiều vấn đề ba người không cùng quan điểm giải quyết, nhưng ai cũng biết nghe ý kiến của người khác để cuối cùng tìm ra biện pháp hay nhứt. Đối với Năm Thân những vấn đề đã biến thành nghị quyết thì phải thực hiện cho bằng được. Vì vậy khi bàn thảo mọi người phải tích cực đóng góp ý kiến, mổ xẻ rốt ráo vấn đề rồi mới đi tới biểu quyết chung. Do vậy các buổi họp do ông chủ trì luôn luôn kéo dài quá giờ qui định. Còn Ba Trung là người không ưa tranh luận nhiều, anh giống như một thầy thuốc, biết bắt trúng mạch các vấn đề được tranh cãi, rồi đề ra phương thức hành động mà đa số công nhận là hợp lý. Anh còn là người biết dung hòa tính cách lãnh đạo của Năm Thân và Tư Mẫn.
               Năm Thân mở cặp lấy sổ ghi chép ra để trước mặt rồi nói với Tư Mẫn.
               - Anh đương nghèo, không có chỗ ở, người ta biếu anh một căn nhà nhưng anh còn chần chờ chưa dọn đến ở và ngồi đó nói: “Tui chờ các đồng chí tới để giúp ý kiến đây”. Như vậy nghĩa là sao?
               Nói vừa dứt câu, Năm Thân đệm theo tiếng cười cởi mở. Cách xử thế của ông là vậy. Khi nào phê bình ai ông cũng dùng tiếng cười để xoa dịu lời nói của mình khiến cho người bị phê bình ít cảm thấy khó chịu và dễ chấp nhận ý kiến của ông.
               Tư Mẫn chép chép miệng trả lời:
               - Tui nói thiệt với các đồng chí nếu cái đình này không nằm trong thôn Phước Châu và tui không phải là con dân ở đây thì tui xử lý một cái rụp là xong ngay. Các đồng chí biết không? Khi tui phá cửa hội trường buổi sáng thì ngay buổi trưa bà con kéo tới đầy cả nhà cứ như đi biểu tình để phản đối! Họ nói nếu lập hợp tác xã để phá đình và biết đâu nay mai sẽ phá chùa, thì họ sẽ không vô, nhưt định không vô…
               - Như vậy đồng chí bó tay hả? Năm Thân hỏi lại.
               Tư Mẫn nghĩ bụng: “Chà! Sao ông cứ thích dồn tui vô chân tường?” Ông lập tức đổi sang chuyện khác:
               - Bây giờ có mặt các đồng chí, tui bỗng nhận ra vấn đề chính không phải là cái đình mà là chỉ tiêu chín mươi phần trăm nông dân vô hợp tác xã đã đề ra mà tui phải thực hiện cho bằng được.
               Ba Trung thấy đã tới lúc anh đưa ra ý kiến:
               - Theo tui trong tình hình quá mới và cấp bách này, vừa qua chúng ta giải quyết được nhiều vấn đế. Về chuyện cái đình, nó thuộc trách nhiệm của ủy ban. Tui sẽ mời cả ban trị sự của đình họp vào sang mai để giải quyết dứt điểm. Nếu họ vẫn cố tình không giao chìa khóa, không dời bài vị tạm thời thì ta sẽ có cách. Nhưng muốn cho dân chúng khỏi thắc mắc và có phản ứng, tui đề nghị đồng chí Mẫn cho họp cả thôn Phước Châu để thông báo về việc chính quyền tạm thời trưng dụng cái đình vì lợi ích chung của nhân dân dân trong xã.
               Tư Mẫn cảm thấy nhẹ người khi có Ba Trung đỡ bớt gánh nặng trên vai ông. Ông không muốn trút đẩy trách nhiệm cho người khác. Nhưng lâu nay, những công tác trọng tâm của xã ông vẫn phải gánh chịu một mình.
               Ông sung sướng nói:
               - Nhứt trí, tui hoàn toàn nhứt trí.
               Năm Thân góp ý thêm:
               - Phải giải thích cho họ hiểu rằng, ông thần đình không đem lại độc lập tự do, không cấp phát ruộng đất cho họ được. Nếu cứ tin theo thần đình thì họ sẽ nghèo đói suốt đời.


               2


               Lúa giống của xã viên đội Bốn nộp cho hợp tác xã tạm thời tập trung tại nhà đội phó Tiến Hơn, vì không có địa điểm nào thuận tiện hơn. Lâu nay ban Thuế của xã đã mượn nơi này để thu lúa nghĩa vụ của dân Phước Điền, nên trở thanh địa điểm quen thuộc đối với bà con.
               Trên chiếc bàn tròn chân xếp ăn kê nơi góc sân xi-măng, dưới tàn cây sa-bô-chi-ê rậm rạp, Tiến Hơn đương thu tiền cổ phần công hữu và tiền cổ phần sản xuất. Anh ta vui vẻ và ăn nói nhã nhặn với bà con hơn mọi lần. Mấy bà, mấy cô đương ngồi chờ đội trưởng Hai Nhã đi mượn cân về cân lúa, sốt ruột la um lên:
               - Làm ăn gì mà không chịu lo trước, tới cái cân cũng không có.
               - Cân với ký! Mỗi người phải “cúng cô hồn” chín ký lúa giống thì cứ lấy giạ ra mà lường.
               - Đừng có quang quác như gà mắc đẻ bà con ơi! Lúa của tui là lúa vàng lúa ngọc cần phải cân đong đo đếm chính xác.
               Mấy bà nghe tiếng của Quí, cậu ta vừa để nửa bao lúa trên vai xuống lan can, lại chuyển hướng tấn công về phía cậu.
               - Này, ăn trộm lúa của ai mà vác tới đây hả mày?
               Số lúa này của Bà-bảy-lò-rèn nhờ Quí mang tới đóng giùm. Sáng nay, bà bận lên ủy ban xã họp gia đình liệt sĩ.
               - Ăn trộm của ai thì kệ tui, miễn có lúa đóng thôi.
               - Tao nói miệng tao, mắc mớ gì mày mà mày xỉa cái miệng thúi vô.
               - Thôi, tui lạy mấy bà. Miệng mấy bà ăn trầu “thơm” như ống nhổ, tui nói không lại đâu.
               Quí vừa nói vừa làm bộ núng na núng nính đi tới chỗ mấy bà mấy cô đương túm tụm, rồi ngồi xề xuống kế bên một cô gái, quay miệng vô mặt cô ta thủ thỉ:
               - Em coi miệng qua thơm hay thúi. Mới đánh răng cách đây nửa năm chớ không phải ăn ở mất vệ sinh như mấy bà mấy cô đâu.
               Cô gái không nói không rằng, lấy chân đạp mạnh Quí một cái, khiến cậu té lăn cù giữa sân. Mọi người đều cười òa lên. Lúc này, Hai Nhã xách cái cân hí hửng bước vào, lên tiếng:
               - Nè, bà con làm gì mà cười om sòm như cái chợ vậy?
               - Anh Hai ơi, anh lên trên trời để mượn cân hay sao mà lâu dữ vậy?
               Một bà nói, bà khác thấy Hai Nhã đương xách cái cân tay thay vì cân tạ lại được dịp cười tiếp:
               - Trời ơi! Bộ anh tính xẻ thịt tui ra cân để bán hay sao mà mượn cái cân đó?
               Hai Nhã đã đi rạc cả chân khắp xóm tìm không ra cái cân tạ, cuối cùng phải mượn tạm cái cân tay lâu ngày không dùng của bà Năm Xoan. Ông phải dọn cả một đồng đồ lỉnh kỉnh ở xó bếp nhà bà mới lôi được nó ra. Bây giờ bị người châm chọc, ông tức mình nói:
               - Cân nào chẳng cân. Tui không móc họng bà để cân đâu mà lo.
Mọi người đều nhìn cái cân mà tức cười, nhưng ai cũng muốn mình được cân trước, hối hả gánh xách phần lúa của mình tới bu quanh Hai Nhã, nhao nhao lên:
               - Cho con cân trước chú Hai. Con tới đây trước tiên mà.
               - Tui cân trước. Hộ tui tới năm xã viên, gần nửa tạ lúa, phải ưu tiên mới được.
               - Ai đóng đủ tiền cân trước.
               - Tui đề nghị đong bằng giạ cho mau, chớ cái kiểu này tới mai cũng chưa chắc xong.
               Hai Nhã xua tay, lách mình ra khỏi vòng vây:
               - Đề nghị bà con ổn định trật tự. Bây giờ mình làm ăn có tổ chức chớ hổng phải lung tung như lâu nay đâu. Chờ tui tìm đây để treo cái cân cân cho tiện rồi tính.
               - Có nước điên! Cân tay mà đem treo.
               - Xưa nay ổng có cầm cân bao giờ đâu mà biết.
               Nãy giờ Tiến Hơn cặm cụi cộng sổ sách và đếm lại số tiền thu được cuả xã viên Bốn, rồi đứng dậy tới bên Hai Nhã làm như không biết chuyện gì đương xảy ra, hỏi:
               - Chuyện gì mà bà con lao nhao vậy chú?
               Hai Nhã trả lời cộc lốc:
               - Cái cân!
               Tiến Hơn thấy cái cân đã rỉ sét và hai bàn tay của Hai Nhã dính đầy rỉ, anh ta muốn cười, nhưng anh ta biết với Hai Nhã không phải lúc nào cũng có thể cười được, bèn nói:
               - Cái này làm sao cân được chú?
               - Thì cứ cân, khó khăn thì phải khắc phục chớ biết sao bây giờ? Mày cho tao xin sợi dây đi. Mau lên không thôi bà con chờ.
               Tiến Hơn quày quả bỏ ra nhà sau. Một lúc anh trở lại, thay vì mang sợi dây, anh ta xách theo một cái cân tạ. Mọi  người đều ngạc nhiên ồ lên và trố mắt nhìn anh treo cái cân lên cành cây sa-bô-chi-ê ở góc sân như đương xem một trò ảo thuật trên sân khấu. Hai Nhã sung sướng hỏi:
               - Mượn ở đâu ra vậy?
               - Của bà già. Không biết bả cho ai mượn mới lấy về tức thì. Anh mỉm cười trả lời.
              

               3


               Chín Thiệp nhận được năm trăm ký lúa giống cho đợt giao mạ đầu tiên của đội, chở về tới Cây Mít thì vừa nghe chuông nhà thờ Bình Tâm đổ mười hai giờ trưa. Chẳng có Hai Nhã hoặc Tiến Hơn, cũng chẳng có những người nhận ngâm ủ giống đứng đón như đã giao hẹn sáng nay. Hai thanh niên bốc vác và anh Sô, người chạy xe ba gác ở xóm chợ Nhỏ, đều than đói bụng hối hả về nhà, bỏ lại một mình anh cùng với những bao lúa nằm ngổn ngang. Thiệt ngán cho cái kiểu làm ăn như thế này quá! Sáng nay anh phải dùng tình cảm mới thuyết phục được hai thanh niên trong họ đạo và anh Sô cùng đi nhận lúa giống. Mới đụng đầu vô công việc của hợp tác xã, chưa bắt tay làm là họ đã hỏi công điểm rồi. Công điểm, định mức… những từ mới lạ mà anh chỉ hiểu lờ mờ làm sao dám giải thích cho họ thông suốt để họ an tâm thực hiện công việc của đội giao. Tối hôm qua, ông chủ tịch xã đã nói với ban chỉ huy đội trong một hai ngày nữa sẽ có cán bộ định mức về. Lạy Chúa, cầu xin định mức về lẹ lên. Nhược bằng không có thì cứ như tổ sản xuất, tổ vần đổi công lâu nay mà làm có hay hơn không? Chẳng ai đòi điểm của ai hết. Bây giờ vô hợp tác xã, tới nỗi mượn mấy cái bao đựng lúa giống họ cũng hỏi có được trả công điểm hay không. Vô lẽ cái gì cũng công điểm thì còn đâu là tình nghĩa nữa? Muốn làm sáng danh Chúa sao lại sống bo bo một mình?... Anh định chạy lên nhà Tiến Hơn, báo cho anh ta lúa giống đã chở về để đi kêu những người ngâm ủ tới nhận, nhưng lại sợ có tên nào léng phéng thấy được của bở, cõng mất một bao thì có nước đền oan. Anh vừa ca cẩm một mình, vừa đưa mắt nhìn tới nhìn lui coi có ai tới hoặc có người trong xóm đi ngang qua đây, nhờ nhắn Tiến Hơn hay Hai Nhã một tiếng. Tịnh không một bóng người. Giờ này thiên hạ lo ăn lo trưa nghỉ hết. Chỉ có vài chú chim sẻ ríu ra ríu rít trên đầu anh, chao lượn như muốn đáp xuống mặt đường mổ những hột lúa đổ. Tốt nhứt là cứ nằm ngả lưng trên những bao lúa này đánh một giấc, như vậy mình sẽ quên cơn đói vì đã quá bữa và những chú chim sẻ kia no vì không sợ ai xua đuổi. Anh xếp những bao lúa giống cho ngay để có chỗ nằm. Ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vô khuôn mặt anh, anh lấy mũ che kín. Mới chợp mắt anh đã nghe tiếng kêu của đứa con gái:
               - Ba, má sai con đem cơm cho ba.
               - Sao má mày biết ba ở đây mà cơm với nước?
               - Dạ, anh Mạnh nhắn. Ảnh nói ba biểu mà.
               - Tao có nhờ nó đâu. Trai tráng gì mới làm một chút đã kêu đói bỏ đi về. Đừng hòng đòi công điểm cao.
               Anh nói cho hả giận nhưng trong bụng thầm cám ơn thằng Mạnh. Cái thằng lanh chanh vậy mà thiệt dễ thương.
               Con anh đã bày sẵn bữa cơm dưới gốc cây mít. Anh ăn một cách ngon lành. Có phải vì đói mà ăn hóa ngon hay được ngồi ăn ngoài trời giữa ban trưa yên tĩnh như thế này? Anh vét nhẵn một cà mèn đầy cơm và ăn hết hai con cá trê nướng béo ngậy chấm với nước mắm gừng. Vợ anh còn bới cho cả một bi-đông nước trà giống như mọi khi anh ra đồng. Anh gài cà mèn đưa cho con:
               - Con xách về rồi ghé qua nhà bác Hai, bác Sáu và ông Mười thưa với họ là ba con nhắn ra nhận lúa giống nghe. Nhớ nói với má mày lo cỏ cho bò ăn đầy đủ để sáng sớm mai nó ra đồng “hạ thổ khai trương”  nghe!
               - Chừng nào ba về?
               - Xong việc thì về chớ hỏi cái gì? À! Con nhớ nấu cơm sớm nghe. Tối nay ba còn đi họp tận dưới xã nữa.
               Sáng nay, khi anh đi nhận lúa giống, Tư Mẫn báo cho anh biết tối nay có cuộc họp quản trị mở rộng đầu tiên của hợp tác xã có tham gia của ông bí thơ và ông chủ tịch xã. Tất cả thành viên trong ban chỉ huy đội đều có mặt, không ai được quyền viện lý do gì để vắng. Giờ này Hai Nhã và Tiến Hơn vẫn chưa biết tin. Anh định phát lúa giống xong sẽ đi báo cho họ. Công việc dồn dập mà cứ ngồi đây chờ thì nẫu cả ruột. Anh nhìn về phía dốc cầu bên kia sông trông ngóng. Từ sau bụi duối to cao ở đầu dốc, hiện ra bóng dáng bà Hai-sinh-sự đương đi như bị ma đuổi về phía bên này. Vậy là được một người. Anh khấp khởi mừng. Chuyện đi vận động người ngâm ủ giống cũng chẳng khác gì chuyện đi tìm người chuyển lúa giống. E còn khó hơn, vì theo ý kiến của ông Tư Mẫn thì nên giao cho người có kinh nghiệm và đáng tin cậy. Những người mình tin thì cậy không được. Nhờ tới nhờ lui họ cứ viện lý do giống không phải tự tay họ chọn, sợ ủ không nẩy mầm rồi bị đền bù. Phải chi giao cho mỗi xóm ngâm ủ một ít thì dễ. Đằng này số giống này sẽ tập trung cấy trên cánh đồng Vườn Bí, nên phần ngâm ủ và làm sướng mạ do bà con trong xóm anh đảm nhiệm. Hai Nhã đã nói nửa đùa nửa thiệt với anh: “Chú mày được vinh dự mở hàng cho công việc làm ăn của đội mình đó. Không khéo chẳng ra gì để nghe bà con chửi cho mà thúi cái lỗ nhỉ”. Ôi thôi! Mở hàng mà gặp bà Hai-sinh-sự thì có nước bán lúa giống mà ăn! Anh mỉm cười một mình.
               - Chị Hai, đi nhận lúa giống mà thúng gánh đâu rồi?
               Anh lớn tiếng hỏi khi bà Hai-sinh-sự còn ở cách xa anh tới chục thước.
               - Đi đóng lúa giống chớ nhận lúa giống đâu. - Bà cười mũi trả lời: - Chà! Tui nghe nói vô hợp tác xã rồi làm cái gì cũng bằng máy móc hết, ai ngờ tới cái cân cũng không có.
               - Ai nói với chị như vậy? Còn cân, sao chị biết không có? Tui nhận lúa giống bằng cân bàn chớ không phải cân treo như chị dùng để cân heo đâu nghen.
               - Thôi… thôi… chú khỏi cần khoe, tui đã biết sạch rồi.
               Bà nói với giọng mỉa mai, rồi kể cho anh nghe một hồi chuyện cái cân lúa giống của đội sáng nay. Chính vì vậy mà bà chưa đóng được lúa giống, phải gởi ở nhà Tiến Hơn. Bà đổ lỗi cho Hai Nhã không công bằng, không ưu tiên cho những người ngâm ủ giống, khiến bà trễ nải bao nhiêu công việc. Bà chưa mượn được thùng tô-nô để ngâm giống. “Thôi, tui không nhận công việc này nữa đậu, chú muốn giao cho ai thì giao”. Bà vừa nói vừa lên tay xuống ngón cứ như mọi chuyện không làm vừa ý bà đều do anh gây ra. Cuối cùng bà ngoe nguẩy bỏ đi. Anh hỏi với theo:
               - Chị dứt khoát không nhận ngâm ủ giống phải không?
               Bà cứ nín thinh đi một bề…
               Anh tự nhủ: may mà cả đội chỉ có một bà!
               Lúc này anh thấy hai vợ chồng anh Sáu và cha con bác Mười tay cầm giống gánh đương đi qua cầu. Anh quên cả chuyện giận bà Hai-sinh-sự, sung sướng nói thầm một mình: “Mở hàng như vầy là hên chớ không phải xui đâu nghen!”.


               4


               Khoảng hai ba tuần trở lại đây, xóm chợ Nhỏ rộ lên chuyện trộm cắp heo gà vào ban đêm. Tổ dân quân của Quí phân công nhau phục kích thường xuyên những ngã đường ra vô xóm. Và tối nay, khi Quí cùng Định nằm phục sau ụ gò mối ngay đầu đường giáp ranh với xóm Bình Tâm tới lúc gần nửa đêm, cả hai đều nghe tiếng lộc cộc phát ra từ chiếc vỉ sắt cũ lót làm cầu bắc qua mương. Định huých nhẹ cùi chỏ vô hông Quí. Quí hiểu ý, phát tay ra hiệu nằm im. Định áp tai sát mặt đất nghe ngóng… Ác thiệt! Trời tối đen như mực. Quí cố nhướn hết mi mắt nhìn quanh mà không thấy gì.
               - Có tiếng bước lần về phía mình.
               - Thiệt hông?
               - Anh cứ nằm như tui mà nghe.
               - Ừ. Phải dạn lên chớ “đừng bình tĩnh mà run” nghe!
               - Tui chỉ sợ anh bắn thôi.
               - Tao chỉ bắn khi nào chúng nó bỏ chạy.
               - Chớ không phải anh chạy trước à?
               - Còn lâu!
               Định bụm miệng, cố nén tiếng cười.
               - À, té ra mày nói xỏ tao. Nó gần thì sợ mình “bắn cứt trong quần”, còn nó xa thì mình “đâm đầu mà chạy” phải không? Để mày coi.
               - Nếu đúng là ăn trộm thì nó gan thiệt.
               Lúc này không còn nghe động tịnh gì. Quí nhìn chăm chăm vô chòm gò mả trước mặt, cách chỗ nằm chừng ba chục thước. Ở đó theo người ta đồn thì những đêm tối trời đứng gió như đêm nay có một con ma tóc dài chấm tới đất, bận toàn đồ trắng, chân đi hổng mặt đất, cứ tha thẩn quanh chòm gò mả khóc than cho số phận của mình một cách thảm thiết. Con ma đó chính là cô Sáu, em ruột của Ba Rền, bị một thằng Tây ở đồn Cầu Quay hãm tới chết dưới gốc cây duối đứng sừng sững kia. Nhớ lại lời đồn này, Quí cảm thấy sởn tóc gáy. Giá như cô Sáu hiện lên thiệt thì nó cũng “bắn”… hoặc “đâm”… thôi. Để tự trấn an, Quí chụp khẩu sung cạc-bin nhẹ nhàng lên đạn, cố không gây tiếng động. Bỗng có tiếng sột soạt ngay gốc cây duối. Quí giựt thót cả người, chỉa thẳng súng về chòm gò mả, bóp cò.
               Súng nổ, xé tan sự tỉnh lặng của xóm.
               - Người… người,… không phải trộm.
               Một giọng nói nghe rất quen la lên.
               Quí và Định cùng lúc nhận ra tiếng Ba Búa nên lấy lại bình tĩnh. Quí nạt lớn:
               - Đứng yên. Bộ trộm là trâu bò chớ không phải là người sao?
               Định bấm đèn pin, vạch một đường vòng cung soi sáng chòm gò mả. Hai bóng người hiện ra với một con bò bị cột xỏ mũi kéo đi. Lúc này, cả hai định bỏ chạy. Quí hô to:
               - Đứng yên, chạy thì bỏ mạng, đừng trách!
               - Tao đây mà Quí. Ba Búa đây mà Quí. Mày làm gì dữ tợn vậy?
               - Tụi mày lùa trộm bò của ai? Nói lẹ lên.
               Ngoài Ba Búa, Quí còn nhận ra tên Méo ở xóm Bình Tâm. Cả gia đình anh này, từ đời ông tới đời cháu, đều mua bò mổ thịt bán lậu. Cây đèn pin trên tay Định tự nhiên vụt tắt. Lợi dụng cơ hội này,  tên Méo liều mạng bỏ chạy, chỉ còn một mình Ba Búa đứng yên chịu trận.
               Khi tới gần Ba Búa, Quí xòe tay định tát vô mặt anh ta cho hả giận, nhưng mới đưa lên nửa chừng thì Ba Búa đưa tay ra gạt ra. Ba Búa xởi lởi nói:
               - Đừng giỡn mặt, mày Quí.
               - Không hơi sức đâu tao giỡn mặt với mày. Đ. mẹ, mày trộm bò của ai? Nói mau lên.
               - Tao không bắt trộm của ai hết. Ông Ba Rền bán cho thằng Méo. Nó mướn tao dắt ra đây xẻ thịt, tao cũng muốn kiếm một miếng thịt bò nhậu chơi, chỉ có vậy thôi.
               - Chớ không phải mày là thằng môi giới hả?
               - Ba Rền cần gì đứa môi giới. Tiến Hơn đi kêu thằng Méo tới bán chớ cần gì tới tao.
               - Tao không nói dài dòng với mày nữa. Đi về xã rồi hay.
               - Tao không có tội, tao không đi đâu hết.
               Quí xấn tới nắm tay Ba Búa, Ba Búa xô ra.
               - Mày giỏi, thử nhào vô coi.
               Quí tỏ ra bình tĩnh, cười gằn:
               - À, mày muốn kình cượng thì tao cho mày kình cượng. Đừng trách nghe con!
               Quí đưa khẩu súng cho Định cầm, hùng hổ xăn tay áo rồi xuống tấn đứng thủ thế:
               - Đ. mẹ, tao hỏi mày có đi không?
               Bộ tịch của Quí lúc này đã kìm giữ trái tim đương đập nhịp liên hồi của Định, không còn đong đưa vì mất bình tĩnh nữa. Định được nước lớn tiếng:
               - Ba Búa, anh nên “tự nguyện tự giác” đi. Mình là người ngay, về xã cứ khai thiệt hổng ai bắt tội vạ gì.
               Ba Búa chẳng thèm đếm xỉa tới lời khuyên của Định, nó cũng thủ thế đứng đợi miếng đòn tấn công của Quí. Nó tin sức mình có thể đánh ngã hai thằng to con như Quí. Dân bụi đời xưa nay có ngán ai đâu. Mày giỏi đánh thử coi. Còn thằng Định hả? Đồ tép riu theo đóm ăn tàn… Ba Búa đương nghĩ bụng như vậy thì bất ngờ “bốp” một cái. Một cú đấm chắc nịch trúng ngay màng tang của hắn. Hắn chưa kịp hoàn hồn thì bị bồi tiếp một miếng cùi chỏ vô ngay mắt trái. Ba Búa không ngờ Quí đã dùng một miếng võ hiếm đánh phủ đầu mình. Vốn quen đòn, anh cắn răng chịu đau lui dần về phía gốc duối. Quí thận trọng tiến theo từng bước một. Ba Búa, bất ngờ xoay nửa người đá một cú song phi vô mặt Định và Quí, Quí né sang một bên tránh khỏi, liền đưa tay bắt chân Ba Búa nhưng hụt. Trong khi đó Định bị trúng phớt qua mặt, cậu ta mất bình tĩnh té ngửa xuống đất, hai tay cầm cây súng giơ ngang lên cao còn hai chân vừa đạp lia lịa vừa la lên:
               - Anh em ơi, làng xóm ơi, ăn trộm, ăn trộm…
               Lợi dụng lúc Định té, Ba Búa nhảy vội tới bụi cây duối lấy ra một cái búa đập đầu bò. Nó giơ trước mặt Quí hăm he:
               - Đ. mẹ, tao đập nát đầu mày!
               Không thể chạy chối được nữa, tụi này đã có mưu đồ xẻ thịt con bò cày của Ba Rền ở ngay đây. Quí tức điên người, không còn thấy sự nguy hiểm của chiếc búa đập đầu bò đương đe dọa mình. Đã có búa thì ắt phải có dao để xẻ thịt bò. Mày búa tao dao, Quí bèn ra lệnh Định:
               - Định, trong bụi duối còn mấy con dao. Lấy ra mau!
               Ba Búa hươ búa dọa Định:
               - Đ. mẹ đừng hòng. Tới đó thì nát thây đó con!
               Định đâm ra lúng túng, nửa muốn hỗ trợ Quí bắt trói ngay Ba Búa, nửa lại sợ Ba Búa liều mạng búa mình một nhát thì khốn. Cậu ta liền nổ thêm một phát súng, vừa dọa Ba Búa vừa để báo động cho anh em khác trong tổ dân quân và bà con trong xóm biết,  rồi la lớn:
               - Anh em ơi, làng xóm ơi! Thằng Ba Búa ăn trộm bò, bắt được rồi…
               Những tiếng hú từ xa đáp lại. Tiếp theo là tiếng kẻng báo động vang lên dồn dập. Rồi trai tráng trong xóm phối hợp với anh em trong tổ dân quần cầm gậy cầm đèn chạy về phía thổ mộ.
               Trong đoàn người này có cả Tiến Hơn. Khi thấy mặt Ba Búa, Tiến Hơn chưng hửng. Anh ta hùng hổ xông tới như muốn ăn tươi nuốt sống Ba Búa, rồi văng tục một tiếng. Những người trong xóm đương có mặt ở đây khi thấy kẻ trộm là Ba Búa, vật bị mất trộm là đôi bò cày của Ba Rền thì xầm xì với nhau những lời bóng gió.
               - Mấy ai trồng khoai đất này.
               - Bụng làm dạ chịu.
               Một giọng nói hằn học thốt lên từ đám đông:
               - Đồ cái quân chịu đấm ăn xôi! Cho nó đi cải tạo cũng đáng.
               - Nó muốn phá hoại hợp tác xã đó chớ hổng phải chuyện trộm cắp thông thường đâu.
               Có tiếng phụ họa:
               - Quí! Mày trói nó lại giải về xã xử lý cho nó biết tay.
               - Phải đó. Trói nó lại.
               Lại có tiếng can gián:
               - Đánh chó phải kiêng mặt chủ nhà nghe!
               Mặc những câu chửi bóng chửi gió, Ba Búa vẫn ngồi lì mặt ra, miệng phì phèo điếu thuốc, còn Tiến Hơn thì giả đò vuốt ve con bò, đập những con mòng đậu trên người chúng và chép miệng liên tục. Trong lúc này, Quí và Định soi đèn vô các bụi rậm xung quanh chòm mộ. Chẳng ai biết hai đứa tìm gì. Một lát sau, chúng đem ra bốn bao bố, hai túi đựng quân trang của lính Mỹ, hai cây đòn gánh, hai cái dao bầu thiệt sắc và những sợi dây dù. Hai đứa để tất cả “chiến lợi phẩm” này trước mặt Tiến Hơn. Quí nói:
               - Anh Hai thấy “âm mưu” của tụi nó rành rành chưa?
               Tiến Hơn giả lả nói:
               - Hai đứa bay dở như cứt, để cho thằng đầu sỏ chạy mất thì lấy ai mà trị tội.

               
               5


               Mười lăm đôi bò cày của đội Bốn đều tập trung ở cánh đồng Vườn Bí trong ngày “hạ thổ khai trương”. Ba Trung đã báo cho Hai Nhã biết sáng nay anh sẽ ghé thăm tình hình. Hai Nhã thông báo tin này cho hai độ phó là Tiến Hơn và Chín Thiệp. Tiến Hơn cùng với đôi bò cày của mình có mặt trên cánh đồng sớm hơn mọi người. Anh ta không quên mang theo lá cờ đỏ sao vàng, tài sản duy nhất của chánh quyền thôn, cắm ngay trên bờ mương, chỗ cao nhứt.
               Mặt trời lên cao, nhưng những con bò còn thong dong gặm cỏ trên bờ ruộng và toán cày còn ngồi dưới hai gốc mít cạnh bờ mương, tranh cãi nhau về chuyện làm ăn trong hợp tác xã để chờ một vài người lùa bò ra đồng trễ. Hạnh, phụ trách định mức của đội giục Hai Nhã cho bò xuống ruộng cày ngay, vì công điểm tính trên đầu diện tích chớ không phải tính theo ngày trời. Lúc đầu, Hai Nhã cũng có ý chờ đủ bò cày của đội để xuống ruộng cùng một lần cho có khí thế, nhưng tới lúc này gần nửa buổi cày, ông giựt mình thấy mình đã tính sai, lật đật hối thúc mọi người:
               - Thôi, trưa trề trưa trật rồi. Mấy ông, mấy bà mắc quải, mắc cày xuống ruộng đi!
               - Bà nào ở đây? Hồi hôm “cọ quậy” chưa đã sao mà nhắc tới bà này bà nọ?
               - Mắc quải cho bò hay mắc quải cho ông đội?
               Những lời nói chọc ghẹo Hai Nhã không ác ý khiến mọi người cười ồ.
               Những đôi bò bắt đầu xuống ruộng. Hai Nhã giao bò của mình cho anh Biên cày. Chín Thiệp tìm chưa ra người nhận cày với bò của mình nên phải cho thằng con mười lăm tuổi còn đi học, mới tập cày, cày tạm, nhưng tổ cày có vẻ không đồng ý. Bảy Quéo, người đã đưa đôi bò cày của mình đi gởi nơi khác, bị kêu nhiều lần xuống ủy ban xã để học tập “chính sách và chủ trương lớn của Đảng và nhà nước”, cuối cùng phải đem bò về miễn cưỡng vô hợp tác xã, tỏ vẻ cau có khi cày chung một thửa ruộng với thằng nhỏ con của Chín Thiệp. Anh ta vừa hươ roi thúc bò vửa chửi đổng:
               - Đ. mẹ, tao ghét cái thứ dựa quải ăn rơm. Vậy mà tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa.
               Biên, tổ trưởng tổ cày, cày bên cạnh Bảy Quéo hiểu ý anh ta, lên tiếng:
               - Làm ăn tập thể thì trâu béo phải kéo trâu gầy chớ anh.
               - Mình kéo nó để nó ăn điểm bằng mình hà? Bộ nó cha mình sao?
               Thằng con Chín Thiệp không thể ngậm miệng được nữa, nói liền:
               - Tui có ăn điểm của ông đâu mà ông nói.
               Biên chỉnh lại:
               - Tài, mày nói như vậy là không phải. - Rồi anh nói với Bảy Quéo: - Điểm là điểm chung của tổ cày. Cày xong đợt này mình bình bầu với nhau, ai cày giỏi thì điểm nhiều, cày dở điểm ít. Có gì đâu mà lo, anh Bảy.
               Bảy Quéo hỏi vặn:
               - Làm sao biết ai cày giỏi, ai cày dở?
               Biên trả lời:
               - Đã nói bình bầu với nhau rồi mà. Còn đòi hỏi tủn mủn quá thì khó mà vừa lòng được từng người.
               - Chơi cái kiểu này khó chơi quá. Tao nghĩ thà làm riêng lẻ như mấy năm nay, tới mùa nộp đủ thuế cho nhà nước, khỏi ai thắc mắc ai, khỏi phải nuôi thêm mấy thằng cha đội nón cối, mấy đứa con nít ranh đi dạo trên bờ ruộng.
               - Anh nghĩ vậy sao xin vô hợp tác xã?
               - Xin à? Tao mà thèm xin à? Mày biết những người không chịu vô hợp tác đã bị ông bí thơ, ông chủ tịch xã mời về xã giần lên giần xuống ra sao hông? Nói xin lỗi chớ thiếu điều mềm như con bún!
               Bảy Quéo nhìn quanh quất không thấy bóng dáng ai, anh ta mạnh dạn nói tiếp:
               - Tao nói cho mày hay, đừng hòng muốn làm gì thì làm với mấy thằng cha cộng sản này. Nếu không mang cái “mạc” lính ngụy thì còn lâu tao mới chịu để cho tụi nó xỏ mũi. Mày cũng là “thằng lính ngụy”, mày hiểu chớ?
               Biên hỏi lại:
               - Ý anh muốn tui hiểu cái gì?
               - Thì một là Đồng Găng, xa hơn nữa là A.30 (1)...
               Biên không tán thành cách suy nghĩ của Bảy Quéo:
               - Mình đã được phục hồi quyền công dân, không làm điều gì sai phạm chủ trương đường lối của nhà nước thì sợ cái gì?
               Bảy Quéo cười xì một tiếng:
               - Mày ngây thơ quá Biên ơi! Nói vậy chớ không phải vậy đâu, để mày coi…
               Biên không muốn Bảy Quéo đưa câu chuyện đi quá xa những suy nghĩ của mình, anh nói:
               - Tui nghĩ anh có gan thì đừng vô hợp tác xã, mà đã chịu vô rồi thì làm cho tốt công việc của mình. Như vậy mình chẳng sợ ai mà còn được người ta nể nữa.
               Thấy Biên có vẻ không đồng tình với những ý kiến của mình, Bảy Quéo nói:
               - Nói cho vui vậy thôi chớ ta sao mình vậy. Người khác sống được thì mình cũng sống được. Có điều phải sống ngoắc ngoẻo thôi mày ơi!
               Nói vừa dứt câu, Bảy Quéo giục đôi bò:
               - Tiến lên, tiến lên, Pháo, Cộ... Mày chết tao chết. Mày sống tao sống.

***

               Những lưỡi cày rạch sâu vào da thịt của đất những đường ngọt lịm. Đất ứa máu. Máu của đất màu nâu sẫm thấm vào lớp da thịt mầu mỡ đang phơi dưới ánh mặt trời. Đất đương mở phanh lồng ngực thải hết khí độc ra ngoài để tới đêm, hấp thụ những dưỡng chất trần gian cho nay mai nuôi cây lúa lớn. Đất không bao giờ ngủ. Đất thức suốt đời. Bởi vì đất sanh ra để nuôi sống con người.


***
              
              Tiến Hơn nói hùa theo:Ba người cụng ly, cạn ly, rồi rót đầy ly. Ba Búa bưng lên chồng bánh tráng đã nướng. Đoàn Bê đưa cho anh ta ly rượu của mình rồi nói với Bảy Diện:
               Ba Trung sung sướng đứng nhìn một vài thửa  ruộng vừa cày bỏ ải xong. Có gần hai mươi năm rồi anh mới đặt chân lên cánh đồng Vườn Bí. Hồi nhỏ anh thường theo cha tới đây lượm phân bò để bán cho mấy người trồng bông ở Xóm Mới. Anh nhớ cánh đồng trông dưới mắt anh hồi đó khoáng đạt hơn, ít bờ vùng bờ thửa hơn. Bây giờ qua ngần ấy thời gian nó đã bị chia năm xẻ bảy ra từng mảnh từng mảnh. Đất sanh ra để nuôi sống con người, nhưng con người cố tình hành hạ đất vì quyền lợi riêng tư. Phải chăng đây là thời điểm bắt đầu trả lại giá trị thiệt sự cho đất?
               Đã gần trưa, những đôi bò cày đi với dáng mệt mỏi. Lưng áo của những người trai cày đã ướt đẫm mồ hôi. Họ nhìn thấy Ba Trung nhưng vẫn tiếp tục công việc.
               Sau khi xảy ra sự việc “trộm bò” của nhà Ba Rền, Tư Mẫn đã chỉ thị cho các đội đưa tất cả máy bơm nước về Trạm cơ khí của hợp tác xã tạm thời đặt tại nhà Rơi để kiểm tra lại trước khi đưa ra đồng. Mục đích của Tư Mẫn là lấy Trạm cơ khí làm trung gian để chuyển hai chiếc máy bơm nước F.10 của Tiến Hơn đã hóa giá về cho đội Ba. Tư Mẫn đề phòng trường hợp “bị mất trộm” lần nữa. Tiến Hơn cũng thừa biết ý đồ của Ban quản trị, nhưng anh ta cố nuốt giận làm mặt vui để chấp hành.
               Thấy cử chỉ không mấy tự nhiên của Tiến Hơn, Ba Trung muốn chứng tỏ cho anh ta biết, với mình chuyện đáng tiếc vừa rồi không có gì là quan trọng mà quan trọng là công việc hôm nay và những ngày sắp tới. Ba Trung lên tiếng:
               - Ông Hơn ơi! Liệu chừng nào thì mình cày lật xong cánh đồng này?
               - Phải mất nửa tháng mới xong.
               Bảy Quéo nói xen vô:
               - Làm gì tới nửa tháng, chừng một tuần là xong  liền.
               Tiến Hơn phản đối:
               - Thôi đi cha. Cày dối như cha thì một buổi cũng xong.
               Ba Trung cười và nói để giảng hòa ý kiến của hai người.
               - Mười ngày, các anh thấy có được không? Vì theo tui biết lúc còn làm cá thể một đôi bò cày phá rạ mỗi ngày cày hơn hai sào lận.
               Bảy Quéo nói:
               - Cá thể khác, tập thể khác. Sao bì với nhau được?
               Ba Trung hỏi lại:
               - Khác chỗ nào? Nghĩa là làm cho mình thì kỹ còn làm cho tập thể thì dối phải không?
               Bảy Quéo thổi hai tờ giấy quấn thuốc lá dính nhau cho bung ra rồi trả lời:
               - Làm cho mình giỏi thì được miếng to, dở thì ăn miếng nhỏ. Còn làm như vầy thì hay dở cũng hưởng đồng đều…
               Bảy Quéo bỏ lửng câu nói. Biên bực mình lên tiếng:
               - Cứ bao nhiêu đó lập đi lập lại hoài nhàm tai quá cha nội ơi!
               Bảy Quéo sừng sộ:
               - Nhàm sao được? Chuyện ai giỏi ai dở ăn công điểm ra sao như chú mày nói thì cho là được đi. Nhưng còn một người vừa làm đội vừa làm thợ cày thì ăn điểm nào, hay là ăn cả hai?
               Biên vừa động đuôi ri cày xuống đất, vừa cười và nói:
               - Hà… hà… từ sáng tới giờ anh ấm ức chuyện đó nên cứ giục bò đi thí mạng phải không? Sao đầu buổi cày không nói thẳng ra mà đợi tới bây giờ mới “nổ”?
               Bảy Quéo lấy điếu thuốc chưa kịp mồi lửa ra khỏi miệng cãi lại:
               - Nói với ai ở đây?
               Tài, con anh Chín Thiệp thanh minh:
               - Tối hôm qua cha tui đi năn nỉ chú Tám, em của chú Bảy đây để giao bò cho cày mà chú không chịu nhận. Kẹt quá, cha tui bắt tui nghỉ học một buổi để đi cày thế chớ không lẽ cho bò ở không?


               6


               Bảy Diện học chưa xong khóa bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cơ sở thì bỏ ngang về nhà. Trong thâm tâm, ông nghĩ trên thành phố đã lừa ông, đẩy ông đi một cách nhẹ nhàng để cho người khác tới ngồi vô cái ghế của ông. Ông đã bị một cú đánh nhẹđau tận tâm can. Trong võ thuật người ta gọi đây là một miếng đòn hiểm, có thể giết chết người không biết lúc nào… Còn trong chánh trị, miếng đòn này gọi là gì nhỉ? Giữa tình đồng chí với nhau, tại sao người ta không nói thẳng với ông rằng: “Anh già rồi, anh không còn khả năng làm việc nữa, anh nghỉ hưu cho, để người khác lên thay”. Đối xử thật như thế phải có tình nghĩa hơn không? Anh tạo ảo tưởng cho người khác vì anh không đủ can đảm nói thiệt thì anh là thằng tồi!
               Khi còn ở trường, Bảy Diện cùng một lúc nhận hai lá thơ: một của Đoàn Bê, một của Tiến Hơn, kể rõ về tình hình chi bộ, ủy ban và hợp tác xã. Ông đã tức giận muốn điên người và mất ngủ suốt đêm. Sáng hôm sau, ông lên văn phòng nhà trường gặp ông trưởng ban tổ chức xin nghỉ năm ngày, chỉ năm ngày thôi, về nhà để lấy thuốc gia truyền trị đau dạ dày. Nhìn hai mắt quầng thâm, khuôn mặt phờ phạc và dáng điệu thiểu não, ông trưởng ban tổ chức đã chấp nhận cho ông về phép sau khi đề nghị lấy giấy giới thiệu đi khám bệnh nhưng ông khăng khăng từ chối. Vậy là ông từ biệt nhà trường một cách không luyến tiếc. Ông vô cùng sung sướng suốt trên đường trở về nhà cứ như một người vừa được phóng thích. Nhưng khi về tới nhà, chiếc bong bóng căng tròn nỗi sung sướng trong nháy mắt đã nổ tung khi không còn thấy chiếc xe Honda và cái ti-vi 12 inches ở vị trí của chúng. Ông hỏi vợ ngay, vợ ông chưa trả lời đã khóc tức tưởi:
               - Ông đi học làm quan, làm tướng để mỗi mình thân già này ở nhà, kẻ trộm nó lẻn vào vét sạch… hu…hu… híc…híc…
               Ông bủn rủn tay chân. Đất chao đảo dưới chân ông. Ông muốn bổ nhào. Một tay vịn mép bàn, một tay kéo ghế, ông ngồi phịch xuống. Ông cảm thấy chiếc ghế sắt bọc nệm cũng không đủ vững chắc để chịu đựng sức nặng của nỗi uất ức càng lúc càng tăng trọng trong người ông. Ông đập bàn, hét to lên một tiếng “địt mẹ” để lật nhào cái sức nặng nghiệt ngã kia, nhưng nó vẫn ì ra đó, chỉ có hai cái ly uống nước và cơi trầu của vợ ông trên bàn rung rinh. Người ông nóng ran, toát mồ hôi hột. Ông hỏi vợ qua kẻ răng:
               - Trộm nó vào khi nào? Sao bà không tri hô cho hàng xóm biết?
               - Nó bỏ bùa mê thuốc lú. Có ông ở nhà cũng ngủ như chết thôi.
               - Tui hỏi bà khi nào? Còn mất những thứ gì nữa?
               - Đêm hôm kia. Mất thêm cái quạt, còn thứ gì nữa thì tôi không biết…
               - Trời! Cái máy quạt của thằng Hơn cho mượn đã ba năm nay. Bây giờ biết lấy gì đền cho nó.
               Bảy Diện uất nghẹn nơi lồng ngực, thở hắt ra từng hơi. Một đỗi ông mới nói tiếp được:
               - Bà đã báo cho công an biết chưa?
               - Thằng Ngươn làm hộ cái đơn báo cho công an xã. Ở xã họ đã lên lập biên bản rồi.
               - Lập biên bản thì được cái mẹ gì. Phải báo lên công an thành phố cơ.
               - Tôi có biết gì đâu. Bây giờ đã có ông, ông muốn báo ở đâu thì báo.
               Lúc này, Bảy Diện không còn tin tưởng bất cứ điều gì ở chánh quyền xã này nữa. Thời ông làm bí thơ, bốn năm trời, có vấn đề trộm cắp  nào xảy ra đâu. Công tác an ninh xã hội vào loại nhất thành phố. Ông mới vắng mặt có mấy tháng, không biết bao nhiêu chuyện lộn xộn, rắc rối đã xảy ra.
               Tiếp theo chuyện mất của là chuyện mất đất như đinh đóng vào tai ông, nhức nhối! Hương Khâm đã đưa mẫu ruộng hương hỏa của giòng họ Thái vô hợp tác xã rồi. Mẫu ruộng này, trên mặt giấy tờ đứng tên lão ta mới chết chứ. Như vậy hoa lợi ruộng đất lão sẽ hướng đứt trong suốt ba năm liền. Lâu nay, ông đã kiện lên thành phố, thành phố chưa chịu giải quyết. Lần này ông sẽ kiện  lên tỉnh, lên trung ương. Còn ruộng đất của riêng ông, hợp tác xã vẫn chưa đụng tới, nhưng đâu thể yên được với chi bộ này, khi mà ông không còn chức quyền gì nữa. Ông mất hết cả rồi sao? Mất tình cha con, mất của cải, đất đai, mất quyền hành, và sẽ mất thêm cái gì nữa? Không, không dễ dàng để mất tất cả đâu, nhứt là đất đai vì nó là tài sản của tổ tiên ông để lại. Không ai có quyền và cũng không có luật lệ nào bắt buộc ông phải đem đất vào hợp tác xã. Ông sẽ đấu tranh tới cùng để giữ lại đất. Vì có đất là sẽ có tất cả…

***

               Người tới thăm Bảy Diện đầu tiên không phải là Tiến Hơn hay Đoàn Bê mà là Năm Thân và Ba Trung. Ông miễn cưỡng mời hai người vô nhà và mời uống nước trà nguội tanh. Năm Thân hỏi thăm sức khỏe và chuyện học hành của ông. Ông miễn cưỡng trả lời:
               - Tôi đau dạ dày kinh niên, chịu không nổi cái lạnh ngoài đó nên xin về hẳn.
               Năm Thân vồn vả nói:
               - Nếu đồng chỉ về lại địa phương thì tốt quá. Chúng tôi đương cần đồng chí.
               Ông đáp lại một cách cay cú:
               - Các ông cần gì đến tôi nữa. Con trâu già này còn đâu sữa để má vắt…
               Năm Thân phản ứng:
               - Sao đồng chí lại nghĩ vậy? Dầu sao đồng chí cũng là người đi trước tụi tui mà. Ông bà ta nói kính lão đắc thọ. Hơn nữa, đồng chí là người địa phương, đã từng lãnh đạo địa phương trong một thời gian dài, am hiểu tình hình hơn tụi tui nhiều. Tụi tui phải cần tham khảo các ý kiến của đồng chí.
               Ngay từ phút đầu tiên tiếp hai người, Bảy Diện không bắt tay Ba Trung, cũng không kéo ghế mời Ba Trung ngồi. Ông coi thường Ba Trung vì lẽ anh là con bà Năm Xoan, đồng thời nét mặt và phong cách của anh ta hoàn toàn không hạp với nhãn quan của ông. Theo ông, Ba Trung không phải là người “cách mệnh chân chính” mà là một thằng trí thức tiểu tư sản chánh cống của chế độ Mỹ-ngụy - “đeo kính trắng, đóng thùng”. Vì vậy, khi nghe Năm Thân nhắc tới “người địa phương” ông thoáng nhìn Ba Trung và nói với giọng dè bỉu:
               - Người địa phương thì đã có ông chủ tịch đây rồi.
               Ba Trung nghe được mùi hằn học và mỉa mai trong giọng nói của Bảy Diện. Anh đã nhận ra trong cuộc gặp gỡ đầu tiên này, thái độ và lời nói của Bảy Diện đã minh họa đúng nhận xét của nhiều người từng trực tiếp nói với anh: Với Bảy Diện, ai không đội mũ cối hoặc mũ công nhân và không mang dép râu thì không phải là cách mạng. Đúng là có hiện tượng “mũ cối - dép râu” khá phổ biến trong xã, nhứt là trong giới thanh niên, sau 75. Có những thanh niên không có mũ cối, cũng không tìm ra được mũ công nhân họ bèn lấy mũ cảnh sát của chế độ Sài Gòn lột bỏ bộ khung trong để đội như một dấu hiệu “bảo đảm an toàn lý lịch bản thân”. Bởi vì đã xảy ra trường hợp một thanh niên đội chiếc mũ nồi xanh, không phải loại mũ nồi xanh của biệt kích Mỹ, đi họp đêm đã bị Bảy Diện phát hiện và từ đó ông phê bình cậu ta suốt ba tháng trời trong các cuộc họp của Hội liên hiệp Thanh niên xã. Bây giờ hiện tượng này không còn thấy trong xã nữa. Tự nhiên trong đầu của Ba Trung nảy ra ý nghĩ khôi hài: không khéo ông ta hỏi mình “mũ cối và dép râu” của anh đâu thì nguy! Từ ý nghĩ này, Ba Trung không còn cảm thấy khó chịu thái độ của Bảy Diện đối với anh. Anh cười, lên tiếng:
               - Bác Bảy này! Tui nghĩ ý đồng chí Thân muốn nhấn mạnh vấn đề người am hiểu tình hình địa phương chớ không phải là người địa phương. Có nhiều người địa phương bàng quang hoặc không am hiểu về tình hình làng xã của mình cho bằng người khác địa phương mà họ có tấm lòng với nó.
               Bảy Diện cũng cười, nhưng cười gằn:
               - Am hiểu tình hình địa phương. Các đồng chí nói đùa hay nói thật đấy?...
               Rồi ông im bặt. Năm Thân và Ba Trung, cả hai cũng cùng im lặng để chờ đợi một điều gì đó sắp bùng nổ từ trong lòng Bảy Diện. Bảy Diện cầm ly nước trà nguội trên bàn lên, lấy bàn tay kia ụp trên miệng ly, xoay nửa vòng qua lại vài cái rồi nói:
               - Các đồng chí tự cho mình am hiểu tình hình địa phương. Vậy tôi hỏi các đồng chí có biết kẻ nào “cướp tài sản” của tôi, của gia đình tôi trong khi tôi vắng nhà không?
               Năm Thân nói:
               - Mục đích của tụi tui tới đây trước là để thăm đồng chí, sau là để chia buồn về chuyện mất trộm vừa rồi.
               Ba Trung tiếp lời:
               - Bác yên tâm, hy vọng tìm ra thủ phạm. Công an xã đã tới đây khám xét hiện trường, thu thập những dấu vết khả nghi của kẻ trộm và cũng nắm được một số đối tượng khả nghi…
               Bà Bảy Diện ở nhà dưới nghe lóm chuyện mừng rỡ chạy lên hỏi:
               - Tìm ra được kẻ trộm rồi hả các ông? Bắt được chưa, thằng nào vậy?
               Bảy Diện vẫn còn tức, to tiếng với bà:
               - Thôi, tôi đề nghị bà im đi! Tốt hơn bà nấu hộ tôi ấm nước mới.
               Bà Bảy Diện vẫn ấm ức, thều thào kể lể:
               - Các ông nghĩ xem, suốt một đời người làm ăn lương thiện, vợ chồng tôi ky cóp từng đồng mới sắm được chừng đó, thế mà quân bất lương nó đã không hiểu được công lao của người nghèo khó…
               Năm Thân vừa cười vừa nói:
               - Nếu nó hiểu được công lao của người nghèo khó thì nó không phải là đứa bất lương chị ơi!
               Không ngờ câu trả lời Năm Thân đã vô tình chạm “nọc” của Bảy Diện, ông  trừng mắt khó chịu nhìn vợ. Bà hiểu ý chồng, đành im miệng.

***

               Ba Trung ra khỏi nhà Bảy Diện một đỗi thì Tiến Hơn lái xe vespa Sprint chở Đoàn Bê và Ba Búa tới. Thấy khuôn mặt của Bảy Diện còn phảng phất nét giận dữ, Đoàn Bê vội ân cần hỏi:
               - Giận ai vậy anh Bảy? Hay tin anh đi học về, tụi này tới thăm anh mà anh không vui thì tụi này cũng buồn đó nghe.
               Bảy Diện đối mặt giận ra vui:
               - Mời các đồng chí vào nhà. Sao các đồng chí biết tôi về mà đến thăm?
               Tiến Hơn nhanh miệng đáp:
               - Cháu có “ăng ten” chính xác và mau lẹ lắm bác ơi! - Anh ta quay sang nhìn Ba Búa rồi nói: - Cháu và anh Bê định tới thăm bác từ sáng lận, nhưng chưa tìm ra cái gì để cùng vui chút đỉnh. May sao có thằng em này, chắc bác đã biết nó, kiếm được chai “Ông già đi bộ”(1). Vì “đi bộ” nên tới giờ này mới tới…
               Mọi người ra vẻ khoái chí câu nói đùa của Tiến Hơn, cười thoải mái. Bảy Diện nói:
               - May sao các đồng chí đến đúng lúc, tôi vừa đuổi cổ thằng con của con mẹ Năm Xoan ra khỏi nhà. Hà… hà… hà…
               Đoàn Bê nghe vậy, không đợi Bảy Diện dứt tiếng cười, bèn hỏi:
               - Nó tới có việc gì không?
               Bảy Diện ra vẻ tự mãn:
               - Có gì đâu. Cả Năm Thân lẫn nó tới năn nỉ tôi làm “cố vấn” cho chúng. Tôi đường đường chính chính thế này mà đi làm “cố vấn” cho lũ khốn đó à?
               Đoàn Bê hí hửng:
               - Anh Bảy nói đúng. Bọn chúng nhờ phe cánh đưa về đây để cướp công của anh, nói thẳng ra là đá anh bay khỏi ghế một cách không thương xót. Những đứa ngồi mát ăn bát vàng như vậy thì tống cổ đi cho khuất mắt là đúng quá rồi. - Vừa nói dứt câu ông ta cười sằng sặc.
               Bảy Diện cảm thấy nghẹn nơi cổ, nói lớn:
               - Tôi nói thật với các đồng chí, tôi còn sống ở đất này thì bọn như Tư Mẫn, Năm Thân, Ba Trung đừng hòng ở yên với tôi. Hoặc là chúng đi hoặc là tôi đi. Nhưng tôi chẳng dại đi đâu cả. Đất này là đất của tôi, tôi sẽ đấu tranh đến cùng.
               - Thằng Trung có ra cái giống gì đâu bác. Cháu là bạn của nó từ thời hai đứa còn ở truồng. Cháu biết “tẩy” nó quá mà! Chẳng qua là một thằng cơ hội. - Anh ta chỏ miệng nói nhỏ vào tai Bảy Diện một vài ý gì đó khiến Bảy Diện gật gật đầu tán thành. - Đó, bác thấy chưa? Đã vậy, nó không biết thân, bây giờ lại lên mặt.
               Đoàn Bê xua tay nói:
               - Thôi, tạm dẹp chuyện đó qua một bên. Cái thứ cơ hội không đáng cho ta nhắc tới trong buổi hội ngộ này, mất vui, phải vậy không anh Bảy?
               Đoàn Bê thấy Ba Búa đương xớ rớ ngoài sân, nói như ra lệnh:
               - Búa, mày còn đợi gì không mở cốp xe mang hết vô đây?
               Nghe lệnh của Đoàn Bê, Ba Búa “dạ” vang một tiếng giống như lính tuồng. Nó mở cốp xe của Tiến Hơn lôi ra chai “ông già đi bộ” vuông đỏ - phần của nó, một con cá trầu nướng bẹ chuối - phần của Đoàn Bê, nửa ký heo quay, ba chục trứng vịt lộn chưa luộc, một chục bánh tráng mè chưa nướng và một gói rau sống - phần của Tiến Hơn. Nó lần lượt đem các thứ vô để trước mặt ba người. Tiến Hơn nói:
               - Mày xin bác gái ít than nướng bánh trước rồi mượn cái xoong luộc trứng.
               Ba Búa quen miệng chữi thề:
               - Đ. mẹ, tuân lệnh!
               Lúc này Bảy Diện đương mở tủ tìm ly uống rượu, lên tiếng cản:
               - Để yên đó. Các đồng chí cần gì tôi nhờ nhà tôi làm tất.
               Rồi ông quay sang hỏi Tiến Hơn:
               - Tôi có nhiều loại ly uống rượu, rượu đó uống loại ly nào vậy cậu Hơn?
               Tiến Hơn hỏi lại:
               - Các bác thích uống “sec” hay uống với sô đa?
               Rượu mà uống chung với sô đa thì còn gì là rượu! Bảy Diện và Đoàn Bê đều nghĩ như vậy. Nhưng uống “sec” là thế nào? Cả hai đều không hiểu, nhưng cũng muốn tỏ ra mình là người sành sỏi nên đồng ý uống “sec”. Theo yêu cầu của Tiến Hơn, Bảy Diện lấy ra bốn cái ly nhỏ dùng để uống nước trà. Tiến Hơn đỡ mấy cái ly từ tay Bảy Diện, nói:
               - Rượu Mỹ mà uống ly ta thì hơi tréo cẳng ngỗng đó bác.
               Đoàn Bê không hài lòng câu nói của Tiến Hơn, cự lại:
               - Cậu nói vậy là sai quan điểm. Ta uống rượu chớ uống ly đâu.
               Biết tính hay bắt bẻ của Đoàn Bê, Tiến Hơn im lặng. Anh ta lấy chai rượu khui nắp. Nắp rượu vừa bật ra, mùi thơm của rượu đã bay tràn vô mũi của Bảy Diện và Đoàn Bê. Mùi thơm quyến rũ tới mức Đoàn Bê không cưỡng nổi sự thèm khát. Ông ta không đợi Tiến Hơn trao ly rượu tận tay mình, vội cầm lấy khi anh vừa rót xong, đưa lên miệng đánh “trót” một hớp cạn ly, rồi đưa chóp lưỡi liếm qua liếm lại trên hai vành môi để vét sạch hết hương vị còn đọng lại ở đó. Đoàn Bê xuýt xoa:
               - Tuyệt! Tuyệt! Giá Lưu Linh ở gần đây, chỉ cần nghe mùi của “ông già đi bộ” thôi, tui cam đoan ổng sẽ mò tới liền. Anh Bảy đồng ý không?
               Bảy Diện không tán thành nhận xét của Đoàn Bê, ông chỉ lắc đầu không nói được, vì mới uống chưa thông cổ, nồng độ rượu mạnh tới nỗi làm co thắt những sợi cơ nơi cổ họng ông và càng nuốt vô bụng nó càng đốt cháy ruột gan ông. Ông nghĩ, thằng Mỹ làm ra cái gì nó cũng “có ý đồ đen tối” cả, ngay cả rượu nó cũng đánh lừa mình được. Ở trường bồi dưỡng cán bộ, giảng viên nhắc tới nhắc lui là gần đây, bọn địch lại “hô hào diễn biến hòa bình” và “chuyển lửa về quê hương”. Phải luôn luôn đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu thâm độc của kẻ thù! Đó là chơn lý của cách mệnh. Tốt nhứt là ta tuyệt đối không bao giờ đụng tới thứ rượu của đế quốc nữa. Ông lên tiếng:
               - Tớ thấy nó chả ngon lành gì. Thua xa rượu đế Ba Làng (3). Các đồng chí cứ uống, tôi uống rượu thuốc của tôi.
               Tiến Hơn cảm thấy tiếc chai rượu. Anh đã dặn Ba Búa mua cho được loại rượu này, với mục đích để Bảy Diện thưởng thức một hương vị mới lạ, - mở đầu cho một “bước chuyển mới”, - chớ không phải đãi Đoàn Bê. Bây giờ kẻ đáng được hưởng thì từ chối không uống, còn người dựa hơi thì đương khoái trá thưởng thức tới ly thứ ba rồi. Tiến Hơn cố ép Bảy Diện:
               - Tại bác uống “sec” chưa quen. Thứ này phải uống với sô-đa và nước đá mới ngon, để cháu sai thằng Búa đi mua nước đá.
               Bảy Diện khoát tay can:
               - Chớ nên thế! Tốn tiền vô ích, chúng ta phải biết tiết kiệm.
               Bảy Diện mở tủ búp-phê lấy ra một thẩu rượu thuốc còn nguyên mà ông đã ngâm từ lâu. Ông nhìn Tiến Hơn và Đoàn Bê, thầm nói trong đầu: “Bọn mày dại thì chết ráng chịu. Tao cần phải sống lâu, mà muốn sống lâu thì phải uống thứ rượu cải lão hoàn đồng này”. Ông nói:
               - “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn  hơn”. Ông bà ta nói chí lý thật!
               Đoàn Bê cầm ly rượu lên và phụ họa theo:
               - Đúng, anh Bảy nói đúng. Hôm nay tui chánh thức nâng ly với anh để chúc mừng “ngày về của anh và ngày về của chúng ta”. Tui nói chừng đó chắc anh hiểu…
               - Thằng này thấy vậy mà được việc lắm anh Bảy. Anh cần gì cứ nhờ nó.
               Bảy Diện nhìn khuôn mặt phảng phất nét nham hiểm, nhứt là cặp mắt ti hí và luôn luôn nhìn ngang liếc dọc, ông không có cảm tình với nó. Nhưng nghe Đoàn Bê giới thiệu, ông bèn hỏi:
               - Cậu đã biết chuyện trộm ở nhà tôi rồi, tiện đây tôi nhờ cậu giúp giùm tôi một việc.
               Ba Búa nhanh nhẩu trả lời:
               - Đ. mẹ thưa bác, tui xin sẵn sàng miễn là không ngoài khả năng của tui.
               - Cậu quen biết trong giới chợ trời, nhờ cậu hỏi dò xem kẻ nào mua, kẻ nào bán cái ti-vi và chiếc Honda của tôi...
               - Ti-vi mấy “in-sơ”, hiệu gì, có dấu hiệu đặc biệt gì không.
               Tiến Hơn trả lời thay Bảy Diện:
               - Chính cái ti-vi tao nhờ mày mua giùm chớ cái nào khác đâu mà hỏi.
               Ba Búa gật đầu trả lời:
               - Đ. mẹ, tui sẽ cố gắng hết mình. Nhưng… - Nó ngập ngừng một chút rồi nói tiếp: - Nếu tìm được người mua thì ít ra mình cũng phải mất một khoản tiền chuộc đó.
               Đoàn Bê xen ngang, phản đối:
               - Ở đó mà chuột với mèo. Thằng nào mua của gian thì phải đi tù!
               Ba Búa cãi lại:
               - Đối với dân chợ trời luật pháp làm sao bằng luật giang hồ.
               Nghe Ba Búa nói vậy, Tiến Hơn sợ Đoàn Bê bắt bẻ, làm to chuyện khiến buổi tiệc mất vui, anh vội nạt Ba Búa:
               - Thôi, im đi mày! Đừng nói bậy. Mày chỉ biết nhiệm vụ của mày là dò tìm cho ra cái ti-vi, chiếc Honda và cả cái quạt máy nữa, vậy phải không bác Bảy? Còn xử lý ra sao thì có người khác lo. Vậy thôi.
               Sau đó, Tiến Hơn nâng ly rượu lên trước mặt Bảy Diện nói:
               - Hai bác cứ tin tưởng khả năng của thằng Ba Búa đi. Bữa nay, mục đích cháu đưa nó tới đây cũng có ý nhờ nó lo giùm việc này. Bác yên tâm.

             
               7             





            Ba Trung về tới nhà, anh đi thẳng vô giường thăm cha. Cha anh đương ngủ một giấc ngắn trước bữa cơm chiều như thường ngày. Không thấy mẹ, anh xuống bếp. Mẹ anh đương chắt nước cơm vô tô để dành cho anh. Anh sanh vào năm mất mùa đói khổ, mẹ anh thiếu sữa nên nuôi anh bằng nước cơm, nước cháo. Lớn lên, anh gầy còm, mẹ anh lại tẩm bổ cho anh cũng bằng nước cơm thay vì sữa bò như những đứa con nhà giàu. Và càng lớn anh càng không thể thiếu hương vị nước cơm pha một ít muối hột. Nói cho chính xác hơn: anh nghiện nước cơm như người nghiện cà- phê hoặc rượu. Mẹ anh vần xong xoong cơm rồi nói với anh:

               - Sẵn có đường con đem về hôm qua, mẹ pha luôn cho nghe?
               - Con thích uống với muối hơn. Còn đường đó sao mẹ không bán đi để mua chút thịt hay chút cá ngon bồi dưỡng cho cha?
               - Cha con ăn cái gì ông cũng nói là hổng thấy ra sao hết. Với lại mẹ thấy con cũng cần tẩm bổ. Từ ngày con về đây tới giờ, mẹ thấy con ngày càng ốm tong ốm teo, đen thui đen thủi.
               Nghe mẹ nhận xét về sức khỏe của mình, anh bật cười:
               - Đúng là con có sụt cân thiệt, nhưng không tới nỗi ốm như cây sậy và đen như cột nhà cháy đâu mẹ.
               Bà Năm Xoan trách yêu:
               - Cứ cái kiểu đi ngày đi đêm như con riết rồi còn xương với da thôi.
               Ba Trung trấn an mẹ:
               - Mẹ đừng lo. Con biết được sức khỏe của con. Hơn nữa mọi công việc ở xã cũng tạm đâu vào đó hết rồi. Chỉ một hai tuần nữa thôi con sẽ đỡ vất vả hơn bây giờ.
               - Công việc của con, con làm, mẹ làm sao biết được. Nhưng… - Bỗng nhiên bà Năm Xoan nghẹn ngào, nói qua nước mắt: - Mẹ chỉ mong con đừng làm điều gì không phải với làng với xóm.
               Ba Trung hết sức ngạc nhiên trước thái độ của mẹ anh, anh hỏi:
               - Vì sao mẹ nói vậy, hở mẹ?
               Bà Năm Xoan lấy tay áo lau nước mắt, ôn tồn nói:
               - Con uống tô nước cơm đi chớ nguội. Uống xong, mẹ nói chuyện này cho con nghe.
               Ba Trung làm theo ý mẹ như một đứa bé ngoan ngoãn. Lúc này, mẹ anh đương gọt bí nấu canh. Anh kê đòn ngồi bên mẹ.
               Bà Năm Xoan đưa mắt nhìn anh. Trong ánh mắt của bà vừa có nét thương yêu, vừa có nét trách móc. Sau một phút đắn đo, bà lên tiếng:
               - Hổm rày đi đâu mẹ cũng loáng thoáng nghe người ta xì xầm con là một thằng cộng sản sắc máu. Có thiệt vậy không con?
               À, té ra cái giá mà anh phải trả trong thời gian củng cố chánh quyền và xây dựng hợp tác xã nông nghiệp vừa qua, là một câu sỉ nhục tới danh dự của anh. Những kẻ làm việc ở ủy ban xã lợi dụng danh nghĩa cách mạng làm điều xằng bậy đã bị anh kiểm điểm hay cho nghỉ việc sau khi kiểm chứng. Những người cố tình trốn tránh chánh sách hợp tác hóa nông nghiệp được anh mời về ủy ban giải thích, vận động. Những người đã vô hợp tác xã nhưng không chịu ra đồng, rủ nhau đi buôn nông sản phẩm tận Long Khánh bằng đường xe lửa, anh đã ra lệnh cho du kích xã chận bắt ở ga Phước Quang. Tất cả những người này, dưới con mắt của họ anh đúng là “một thằng cộng sản sắc máu”.
               Thay vì tức giận về lời đồn đại đó, Ba Trung bỗng tức cười. Anh cười sằng sặc khiến bà Năm Xoan ngạc nhiên trố mắt nhìn. Mẹ anh hỏi:
               - Con cười cái gì vậy?
               - Mẹ có tin lời đồn bậy về con như vậy không?
               - Mẹ tin con. Nhưng mẹ mong con làm bất cứ điều gì cũng phải nghĩ tới tình nghĩa xóm giềng, tới những người mà gia đình mình đã mang ơn.
               - Ai đã trách con điều gì với mẹ?
               - Người ta đâu dám nói xấu con trước mặt mẹ. Nhưng nhiều người trong xóm trước kia rất thân với mẹ, bây giờ tự nhiên họ làm lơ. Có khi suốt buổi cấy, họ không thèm nói với mẹ một câu. Con biết không? Mẹ của thằng Hơn, luôn luôn chị chị em em với mẹ, nhưng từ bữa xảy ra chuyện mất bò, chị ta nhìn mẹ không được nửa con mắt. Mẹ hổng biết tại sao.
               - Có gì đâu mà mẹ không biết thái độ của thím Ba? Nhưng thím xử sự với mẹ như vậy là không đúng. Dần dần rồi thím Ba sẽ hiểu ra thôi.
               - Ừ, mẹ biết. Trong vụ mất trộm bò của lão Ba Rền, người đáng trách không phải là con mà là thằng Quí, phải không?
               Ba Trung lại bật cười:
               - Mẹ thấy không? Chỉ một chuyện nhỏ vậy mà mẹ cũng suy xét không đúng huống chi người khác, với những chuyện to lớn hơn.
               Bà Năm Xoan im lặng. Ba Trung biết rằng mẹ anh là người hoàn toàn sống theo cảm tính và nặng tình cảm. Anh nắm bàn tay xương xẩu của mẹ và nói:
               - Mẹ à, mẹ nói mẹ tin con, con rất mừng. Con mong mẹ hiểu rằng việc làm của con không phải vì lợi ích một vài người mà vì lợi ích trên bốn ngàn dân xã này, trong đó có cả gia đình  mình và gia đình những người mình mang ơn nữa.
               Bà Năm Xoan ngập ngừng đưa mắt nhìn anh:
               - Trung à, còn một chuyện này… Lâu nay mẹ giấu con, bây giờ đã tới lúc mẹ phải nói thiệt với con…- Bà lại nghẹn ngào nói qua nước mắt: - Mẹ không muốn vì mẹ mà người ta khi dễ con…
               - Khi dễ về điều gì hở mẹ?
               - Con bình tĩnh để mẹ nói rồi liệu cách...
               Ba Trung không thể bình tĩnh được trước sự ngập ngừng của mẹ, nhưng anh cũng không dám lên tiếng hỏi dồn.
               - Hồi con chưa về đây, ông Bảy bí thơ thương tình gia đình mình, có cho mẹ làm rẻ một đám ruộng, mỗi mùa thu năm giạ lúa công. Trời xui đất khiến, ruộng bị rầy ám cháy hết, không gặt được hột nào. Năm giạ lúa của ông Bảy từ đó tới nay mẹ chưa trả được. Mẹ và em con tính mùa này làm cho hợp tác xã kiếm được hột nào thì trả hết cho họ. Nhưng sáng qua, bà Bảy lên đây đòi gấp năm giạ lúa đó. Mẹ năn nỉ bả chờ lãnh được lúa mẹ sẽ trả liền. Bả nói sao con biết không? “Con bà bây giờ là vua ở xã này, quyền hành, trâu bò, ruộng đất nắm trong tay thì đối với năm giạ lúa nợ có thấm vào đâu mà không trả được, bộ chị muốn quỵt luôn sao?” - Bà Năm Xoan mếu máo khóc: - Con ơi! Mẹ nói thiệt với con. Mẹ kêu trời không thấu vì người ta nói động tới con…
               Ba Trung cảm thấy choáng váng và đau xót biết bao! Càng thương mẹ anh càng tức giận về lời lẽ của bà Bảy Diện cố tình vu khống anh, anh lặng người một chút rồi nói:
               - Con xin mẹ đừng buồn, đừng lo gì nữa. Năm giạ lúa của bà Bảy Diện con sẽ đi mượn để trả tức thì. Còn những chuyện khác không đúng về con thì xin mẹ bỏ ngoài tai.

               - Ờ, con lo giùm mẹ, mẹ mừng. Nhưng đừng có làm điều gì để người ta khinh mình nghe con.



8




               - Thượng điền tích thủy, hạ điền khan
               Thủy lợi xoàng chính là thủy… hại
               Nghĩ qua nghĩ lại thủy lợi thiệt khôn
               Làm chẳng ra hồn cứ đòi công điểm…
               Quí vừa phụ giúp Rơi sửa chiếc máy bơm nước hiệu Trần Hưng Đạo (4) đặt ở cánh đồng Vườn Bí, vừa ngâm nga bài ca dao mới này. Chẳng ai rõ bài ca dao xuất xứ từ đâu, người ta chỉ nghe Quí hát khắp các cánh đồng trong hợp tác xã, cứ như cậu ta sáng tác. Không những Quí chỉ biết hát mà còn biết “chế biến” lời ca. Ở mỗi khâu công việc hay sự kiện xảy ra trong hợp tác xã, Quí đều có một hai câu hát minh họa. Chẳng hạn cách đây hai hôm, con bò cày của Bảy Quéo không biết vì lý do gì lăn đùng ra chết. Bảy Quéo không báo cáo cho đội biết, ông ta âm thầm gọi tên Méo ở xóm Bình Tâm qua bán đổ bán tháo. Méo xẻ thịt liền tại chỗ, không ngờ
 bị bà con lối xóm biết được. Ai đó vội báo cho Chín Thiệp, Chín Thiệp vừa nể tình hàng xóm, vừa cùng họ đạo với Bảy Quéo và tên Méo, nên cảm thấy khó ăn khó nói, Chín Thiệp ba chân bốn cẳng, băng đồng lội sông qua báo cho Hai Nhã. Hai Nhã tức tốc gọi thêm vài cậu thanh niên trong xóm cho “lực lượng thêm hùng hậu” tới nhà Bảy Quéo, bắt được tại trận. Và ngay sau đó, trong xóm đã nghe Quí ê a: 
                Tin đâu như sét đánh ngang
               Con bò đương sống chuyển sang từ trần
               Bảy Quéo bị phê trước sân
               Tên Méo bị phạp hai lần “cỏ-vê”.
   (Thực tế, Bảy Quéo bị đưa ra kiểm điểm trước đội . Anh ta cho rằng hợp tác xã chưa trả tiền hóa giá bò thì con bò đó vẫn thuộc quyền sở hữu của anh. Còn tên Méo bị giam ở ủy ban xã hai ngày để làm “cỏ vê” và bị phạt tiền).
               Chiếc máy bơm khi nổ được thì không chịu lên nước, lúc lên nước được đôi ba phút thì lại ì ạch tắt máy. Nó như muốn chọc tức cả Rơi và Quý. Rơi càu nhàu:
               - Sao Ban quản trị không điều hai cái F.10* tới đây có hơn không? Xăng đã khan, đã mắc hơn dầu mà còn xài thứ này thì không kinh tế chút nào hết.
               Tuy mệt vì đã quay cho máy nổ nhiều lần nhưng Quí cũng còn nói cà rỡn:
               - Chắc nó đòi uống bia hay cà-phê gì đây.
               - Thứ này cho uống nước lạnh cũng không đáng!
               - Anh nói giỡn hay nói… chơi đó. Của thành phố ưu tiên cho mượn chứ không phải chuyện đùa đâu.
               - Cũng quí thôi! Nhưng giả dụ như cho mượn thứ “xịn” hơn thì đỡ tốn công tốn sức mình biết chừng nào.
               - Anh đừng lo, nay mai sẽ có trạm bơm điện ở đây thì anh với tui “phẻ” re. Chỉ cần bấm nút một cái là a-lê-hấp, tưới mười cánh đồng như vầy cũng không sợ thiếu nước.
               Rơi biết Quí lập lại giọng điệu của Tư Mẫn mỗi khi nghe xã viên than phiền về chiếc máy bơm Trần Hưng Đạo này. Anh kiểm tra hết thứ này tới thứ khác trong máy, cuối cùng mới thấy là bộ “bạc” đã mòn! Chỉ có nước thay bộ “bạc” mới. Anh biết loại này có tiền là xuống chợ trời mua có liền. Nhưng khi vướng tới thủ tục hành (là) chánh thì phải làm báo cáo lên thành phố, chờ đợi duyệt, rồi phải qua cửa hàng vật tư trang thiết bị, qua ba bốn con dấu, qua ba bốn chữ ký, qua ba bốn bao thuốc lá thơm… Nhưng cây lúa đương chửa thì cần nước, không thể chờ đợi ai được.
               Anh nói với Quí:
               - Đúng là nó đòi uống bia. Mày đi báo cho Tiến Hơn biết liền đi để ảnh liệu coi xin điều cái mày nào về đây, chạy tạm ít ngày.
               - Không có bộ “bạc” nào thay tạm được hả?
               Quý hỏi để lấy lệ trong lúc nó chùi hai bàn tay dính đầy dầu máy đen sì xuống vạt cỏ trên miệng mương, rồi lại chùi thêm vào đũng quần trước khi quầy quả đi.

* Máy bơm nước của Nhựt Bản.
              
               Rơi dọn đồ nghề vô túi xách, sửa soạn ra về thì thấy dáng Đoàn Bê hiện ra từ lùm tre trước mặt. Thay vì chỉ vác cuốc đi theo nước ông ta còn vác cả cần câu cá tràu. Không được bầu vào ban chỉ huy đội Bốn, Đoàn Bê không tự ái, vẫn bám hợp tác xã, tình nguyện xin vô tổ thủy nông của đội để làm tổ trưởng. (Hộ của ông chỉ đăng ký xã viên có mỗi mình bà vợ, còn ông là cán bộ hưu đã có tiêu chuẩn của nhà nước rồi - đúng theo điều lệ của hợp tác xã quy định). Tổ thủy nông hay tổ thủy lợi mà bà con trong đội một mực gọi là “tổ thủy hại” đã làm Hai Nhã mất ăn mất ngủ. Chuyện nước, chuyện phân, đội đã giao cho Tiến Hơn. Tiến Hơn dựng lên Đoàn Bê, cốt để lấy công điểm đứng tên vợ ông ta. Thượng điền tích thủy, hạ điền khan. Nước ứ đầy mương, lúa cứ cháy vàng. Họp hành. Giải thích. Nhắc nhở. Phê bình. Liền sau đó tình hình khá hơn được vài bữa rồi lại vẫn như cũ, cứ như sợi dây thun khi kéo, khi trả.
               Đoàn Bê thấy Rơi, vồn vả nói:
               - Chào kỹ sư!
               Rơi cũng chẳng ưa gì Đoàn Bê nên đáp lại:
               - Thôi mà chú, xỏ xiên con cháu hoài.
               - Tao nói nghiêm chỉnh đấy. Ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa những người phụ trách công việc như mày đều là kỹ sư cả đấy. Nếu chưa phải kỹ sư thì cũng sẽ được bồi dưỡng thành kỹ sư. Còn chủ nhiệm hợp tác xã hả? Cũng kỹ sư tất! Thế mới xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa chớ.
               “Ông toàn nói dóc!” Rơi nghĩ thầm trong bụng, tốt hơn là ông làm tốt công việc theo nước đi.
               Đoàn Bê thấy chiếc máy bơm đứng máy, hất hàm nỏi:
               - Sao? Liệt rồi hả?
               Rơi gật đầu.
               - Không sửa được à?
               Rơi gật đầu.
               - Tệ dữ vậy?
               Lúc này Rơi mới lên tiếng:
               - Trình độ của cháu chưa trị được “chúng dở hơi” của nó.
               Đoàn Bê lại lên lớp:
               - Tao thấy tuyệt đại đa số bà con xã viên ta chưa có tinh thần bảo quản tài sản xã hội chủ nghĩa gì hết. Cứ sử dụng bừa, hư rồi bỏ đó. Cái máy này rồi cũng cùng số phận như thế cho coi.
               Rơi không thèm để ý nhận xét này của Đoàn Bê, anh im lặng. Đoàn Bê nói tiếp:
               - Mày biết không? Chẳng hạn như xe cải tiến của hợp tác xã, tay Tư Mẫn lại lấy đi kéo gạch, kéo cát để xây chuồng heo…
               Rơi nghĩ chắc Đoàn Bê muốn lấy lòng mình về chuyện anh không tán thành việc ban Quản trị mua mười chiếc xe cải tiến từ cửa hàng vật tư nông nghiệp. Chuyện này anh đã “ngứa miệng” nói với Tiến Hơn và anh cũng đã phân tích cho Ba Trung - người mà anh tin rằng “có thể hiểu được vấn đề” - về cái bất tiện và bất lợi của nó. Gọi là “xe cải tiến” chớ thiệt sự nó là “xe cải lùi”. Với số tiền đó, Rơi có thể đóng cho hợp tác xã hai chiếc xe bò một con. Đoàn Bê muốn lôi mình về phe cánh ông ta. Rơi lại nghĩ thầm. Nhưng chính ông ta cũng đã mượn nó để kéo lúa đi xay nữa huống hồ… Anh nói bóng gió:
               - Cháu thấy ở đội mình cũng có người sử dụng nó vào việc riêng tư đó chú.
               Đoàn Bê “hừ” một tiếng rồi giả lả bắt qua chuyện khác:
               - Anh Bảy đã nói gì với mày chưa?
               - Nói gì hả chú? Lâu nay cháu… cháu vì công việc bề bộn nên ít khi gặp ba cháu.
               - Mày không thèm nhìn mặt anh Bảy thì nói toạc ra cho rồi. Như vậy là không đúng đâu con! Tao biết anh Bảy rất thương mày. Nhiều lần anh Bày tâm sự với tao về chuyện gia đình, nên tao rất thông cảm với anh Bảy và cũng rất thương mày. Mày biết không? Anh Bảy đương đấu tranh với thành phố để lấy lại đám mẫu hương hỏa của họ Thái giao hẳn cho mày đó. Mày là đích tôn kia mà.
               Rơi nghĩ: đấu tranh vì mình hay đấu tranh vì ông ta? Mà đấu tranh làm sao được khi đám ruộng đó đã đưa vộ hợp tác xã dưới tên của Hương Khâm? Rơi biết khi ông Hương giao nó cho hợp tác xã, ông ta cũng đau lòng xót ruột lắm. Nhưng giữ nó lại thì cha anh sẽ tranh giành với họ tộc với lý do là để cất nhà thờ họ. Điên khùng sao mà cất nhà thờ họ chơ vơ giữa đồng! Trước sau gì ông Hương cũng không thể giữ nó được, thà giao cho nhà nước ông ta còn được tiếng “giác ngộ cách mệnh”.
               Rơi cười xởi lởi, trả lời:
               - Ruộng đó là ruộng hương hỏa, giả dụ ba cháu có lấy lại được thì cũng của dòng họ chớ đâu phải của riêng mà giao cho cháu, thưa chú?
               Đoàn Bê nghiêm mặt nói:
               - Sao lại giả dụ được? Tao dám cam đoan với mày là anh Bảy sẽ lấy được. Lệnh của mấy ảnh ở trển mà thằng Trung và Tư Mẫn dám không thi hành à? Mày chuẩn bị làm tiệc ăn mừng đi thì vừa. Này, nhớ cho tớ uống rượu với nhé!
               Đoàn Bê cười một cách khoái trá. Rơi không hiểu vì sao mà khi nghe Đoàn Bê cười ra tiếng là anh cảm thấy khó chịu. Anh lên tiếng để át tiếng cười:
               - Nếu kết quả đúng như chú nói thì cháu cũng chẳng nhận nó làm gì.
               Đoàn Bê cụt hứng, mắng Rơi:
               - Mày ngu quá! Vô lẽ tao nói sự đời cho mày nghe. Mày biết không? Ở các hợp tác xã nông nghiệp miền Bắc, người ta quí đất hơn quí vàng ấy. Họ tranh nhau từng li từng tí ấy.
               - Ngoài đó khác, ở đây khác. Người ta khác, cháu khác.
               - Mày cứ ngoan cố, hèn chi anh Bảy giận là phải.

               Đoàn Bê “hứ” một tiếng rồi vác cuốc bỏ đi.




9


  





               Lịch gieo cấy của đội Bốn đã trễ mất mười ngày. Hôm nay là ngày cấy đám ruộng cuối cùng của đội. Tối qua, Hai Nhã đã kêu gọi tinh thần “tự nguyện tự giác” của chị em trong tổ cấy ở xóm cây Sung, vậy mà giờ này chỉ lèo tèo vài người. Hai Nhã đứng trên bờ ruộng cao nhìn xuống nhúm người đương cắm cúi cấy, không vừa lòng, lên tiếng hỏi:

               - Bà tổ trưởng “lặn” đâu mất rồi mấy bà?

               Một chị ngước mặt nhìn lên, thấy Hai Nhã bận cái quần đùi rộng ống, mắc cỡ bèn tảng lờ tiếp tục cấy.

               Không thấy ai trả lời, Hai Nhã hơi cáu, hỏi tiếp:
               - Bộ điếc hết rồi chắc, chị Sáu đâu rồi mấy bà?
               Đám cấy tự nhiên nổi lên cười sặc sụa. Có bà cười phun cả bã trầu xuống ruộng.
               - Vắng chị Sáu một bữa mà nhớ rồi sao?
               Một bà lên tiếng.
               Chị Sáu là vợ của Sáu Đường. Sáu Đường chết vì ngộ độc thịt chình ở Trảng Én trong lúc đi làm công ích khai hoang. Các bà ghép đôi chị với Hai Nhã. Hai Nhã không hiểu vì sao các bà rộ lên cười, cứ thản nhiên đứng dạng chân, hỏi:
               - Bộ bị đỉa thọc lét gang bàn chưn sao mà cười dữ vậy?
               Mấy bà mấy chị vẫn cứ cười. Hai Nhã tức mình lội thẳng xuống ruộng. Một bà bạo miệng nói:
               - Tụi nó thấy “con đỉa to” đương đeo lủng lẳng trên người ông đội nên cười…
               Hai Nhã hiểu ra, ngượng ngùng nói đỡ.
               - Bá láp! Mấy bà chỉ được nước nói bậy. Bữa nay chị Sáu vắng mặt hả?
               Bà bạo miệng trả lời:
               - Bả “trốn làm” rồi.
               - Cái bà này! Sao vắng nhiều dữ vậy?
               - Còn hỏi? Bộ ông không biết gì sao?
               - Biết gì? Mấy bà muốn làm thì làm, muốn nghỉ thì nghỉ. Tự do, tùy tiện. Người ta dùng “phương pháp” thì mấy bà chửi bới lung tung mà lơi ra thì mấy bà lờn mặt.
               Bà bạo miệng chẳng chịu thua, đốp chát lại:
               - Ơ! Ông đội này hay thiệt. Ông mắng ai ở đây? Bộ hồi hôm mò vợ bị vợ đá lọt xuống giường, sáng ngày giận cá chém thớt hả?
               Hai Nhã biết mình nói không lại bà bạo miệng này rồi, bèn xuống giọng:
               - Tui nói mấy bà vắng mặt, còn mấy chị thì đáng được biểu dương, vừa lòng chưa?
               Hai Nhã cúi xuống ruộng quơ những bó mạ rãi tới gần chân người cấy. Bà bạo miệng làm lành:
               - Ờ, nãy giờ sao không làm vậy cho chị em nhờ. Bộ anh không biết tại sao họ rủ nhau nghỉ hết hở?
               Lúc này Hai Nhã mới sực nhớ ra đây là mẫu ruộng hương hỏa của dòng họ Thái. Phân nửa chị em trong tổ cấy này đều là con cháu họ Thái. Hai Nhã nghĩ đây cũng là cách chống đối hợp tác xã. Giòng họ này ghê thiệt! Ông nói:
               - Bẻ nạng chống trời không được đâu. Chiều nay tui sẽ điều tổ xóm đạo và tổ xóm Chợ nhỏ xuống cấy cho dứt điểm.
               Bà bạo miệng lên tiếng:
               - Thôi ông ơi! Coi chừng u đầu sứt trán như tối hồi hôm đó.
               Hai Nhã ngạc nhiên hỏi:
               - Lại chuyện gì xảy ra nữa?
               - Còn chuyện gì nữa! Tan họp về, theo đường phe Hương Khâm với phe Bảy Diện lời qua tiếng lại rồi cấu xé nhau cũng vì đám ruộng này, bộ anh không hay biết gì hả?
               Từ ngày Hương Khâm đưa tự tiện đưa mẫu ruộng hương hỏa vô hợp tác xã, vết nứt trong tình cảm họ hàng giữa phe ông và phe Bảy Diện toạc ra ngày càng lớn. Hai phe như hai dòng điện ngược chiều ngấm ngầm chạy trong từng lời nói, hễ gặp nhau thì tóe lửa, mặc dù ngoài mặt (vì có lớp vỏ bọc) vẫn giao tiếp bình thường. Ruộng của phe Hương Khâm thì các bà quá khích của phe Bảy Diện không bước xuống và ngược lại. Vợ Sáu Đường và vợ Mười Trong thù hiềm nhau từ ngày họp họ năm ngoái, nên có dịp là hai bên nói cạnh nói khóe nhau.
               Vợ Mười Trong khơi mào trước:
               - Ai hổng biết có cái “dù ông đội” che…, muốn nghỉ thì nghỉ muốn làm thì làm.
               Vợ Thái Ngươn phụ họa:
               - Chị Mười nói nghe như thiệt. Tốt khoe, xấu che là lẽ thường tình.
               - Nè, tao không động mồ động mả con nào hết đó nghe! Liệu hồn mà nói bậy.
               Vợ Mười Trong đốp lại:
               - Hay chưa? Khi không mà khai “lạy ông tui ở bụi này”.
               Vợ Sáu Đường đương đi phía trước, vụt đứng lại chận đường vợ Mười Trong, chỉ tay vô mặt thịnh nộ:
               - Nè, tao móc họng mày ra cho chừa cái tật ăn càn nói bậy nghe!
               Vợ Mười Trong xông tới, nói xóc óc:
               - Chà, ỷ thế ông đội làm oai dữ ta!
               Vợ Sáu Đường chạm tự ái, bất ngờ tát vô mặt vợ Mười Trong. Lúc này hai dòng điện thiệt sự chạm nhau, tóe lửa nơi mắt vợ Mười Trong. Vợ Mười Trong phản ứng theo bản năng, túm được mớ tóc trên  đầu vợ Sáu Đường ghì xuống. Vậy là màn đánh đấm, xé quần xé áo, đào mồ đào mả cả dòng họ Thái ra chửi nhau được diễn một cách ngoạn mục giữa đêm khuya. “Vở kịch” chỉ có hai diễn viên chính của hai phe, những người còn lại chỉ đủ sức theo dõi năm ba phút đầu rồi ra về ngủ lấy sức cho ngày mai ra đồng sớm, không ai biết nó kết thúc lúc nào.
               Sáng sớm hôm sau, “vở kịch” được diễn thêm một màn vĩ thanh.
               Hương Khâm xồng xộc đi vô nhà Sáu Đường, mặt hầm hầm hỏi lũ nhỏ đương ngồi quanh rổ khoai lang luộc:
               - Mẹ bay đâu?
               - Má con ngoài chuồng gà.
               - Nói mẹ mày lên đây tao biểu.
               Thấy thái độ giận dữ của ông Hương, sợ chuyện chẳng lành xảy ra cho mẹ mình, lũ con Sáu Đường ngồi im như thóc. Hương Khâm nạt lớn:
               - Không đứa nào chịu đi hả? Rặt nòi của con gái mẹ mày, cứng đầu cứng cổ!
               Vợ Sáu Đường nghe tiếng của Hương Khâm từ đầu, nhưng cứ giả lơ, quét cho hết đống phân gà ít ỏi đổ vô hố ủ phân xong mới thong dong đi lên:
               - Ai hỏi tao cái gì đó bay?
               Hương Khâm giận sôi lên:
               - Mày dám hỗn với tao hả con đĩ kia?
               Vợ Sáu Đường giả lả:
               - Ủa, bác Ba hả? Mời bác vô nhà uống nước. Bác có chuyện gì mà lên nhà con sớm vậy?
               Hương Khâm vẫn đứng ngoài sân, hỏi gằn từng tiếng:
               - Con kia, mày biết mày đương ở trên đất của ai không?
               Vợ Sáu Đường vừa cầm cây chổi cùn quét sân vừa trả lời:
               - Bác hỏi hay chưa? Thì đất của vợ chồng tui.
               - Chà, mày cậy thế thằng nào mà trả lời ngang ngạnh vậy? Mày tưởng dòng họ Thái không có quyền đuổi cổ mày ra khỏi chỗ này hả, con đĩ kia?
               Vợ Sáu Đường ném mạnh cây chổi xuống sân, giận dữ nói:
               - Nè, tui nói cho bác biết. Bác giỏi đuổi tui ra khỏi cuộc đất này thử coi.
               - Mày dám thách tao hả?
               - Tui không thách ai hết. Phải thì nghe, quấy thì lấy que gõ đầu.
               Hương Khâm tức lồng lên như một con hổ bị đạn bất ngờ, hét lớn:
               - Trời ơi, bà con làng xóm ơi! Con vợ thằng Đường dám lấy chổi đánh lên đầu tui đây, bà con ơi!
               Nhà Mười Trong nằm sát nhà Sáu Đường. Khi nghe tiếng la của Hương Khâm, Mười Trong như đã chực sẵn, vọt nhảy qua hàng rào để tiếp ứng. Cùng lúc đó, Bảy Diện từ đầu ngỏ đi vô đã làm chùn bước Mười Trong khi anh ta có ý định dạy cho vợ thằng Sáu Đường một bài học xử thế, vì cả gan sỉ nhục ông Hương, nhưng trong thâm ý của anh ta là để trả thù cho vợ.
               Bảy Diện lên tiếng:
               - Chuyện gì mà la lối om sòm vậy chú Ba?
               Hương Khâm nói qua hơi thở:
               - Cha thằng Rơi, mày xử dùm tao chuyện này đi.
               - Chuyện này là chuyện gì?
               - Con vợ thằng Đường nó cả gan lấy chổi đánh lên đầu tao, mày coi có được không? Có thằng Trong làm chứng đây.
               Vợ Sáu Đường phản đối:
               - Ông đừng ngậm máu phun người. Khi không ông tới đây gây sự, lăng mạ tui, rồi vu oan giá họa tui. Đó, anh Bảy nghĩ thử coi có được hông?
               Hương Khâm rướn gân cổ lên nói:
               - Mày dám kêu cả dòng họ Thái ra chửi, tao không cạo đầu thì thôi, mày còn nói léo nói lận nửa hả?
               - Con đĩ nào bịa chuyện ra vậy? 
               Mười Trong lên tiếng:
               - Giòng họ Thái này, xưa nay không ai dám động tới, vậy mà mày lại cả gan. Mày cậy thần cậy thế thằng nào nói thử tao nghe.
               Vợ Sáu Đường bỏ ngoài tai lời nói a dua của Mười Trong. Chị phân bua với Bảy Diện:
               - Anh Bảy là người hiểu biết. Anh nghe bác Ba nói vậy có lý không? Tui có điên khùng đâu...
               Cũng như Hương Khâm, Bảy Diện đã nghe được xảy ra sự việc đêm qua. Ông không mấy ưa vợ Sáu Đường. Theo ông, chị ta không “trung thành với ông đến cùng” như Sáu Đường. Chị quá tích cực với “cái gọi là” hợp tác xã của Tư Mẫn và nghe đâu lại mèo mả gà đồng với Hai Nhã nữa. Nhưng vì ghét Hương Khâm, ông trách lấy lệ:
               - Thím Sáu ăn nói phải giữ lời, không nên la lối om sòm làm mất trật tự trong làng trong xóm. Tui nói thật với thím, tui còn sống đây, ai xúc phạm đến dòng họ Thái thì tui không bỏ qua đâu nhé!
               Mười Trong được nước, nói theo:
               - Tui hoàn toàn nhứt trí với anh Bảy.
               Bảy Diện ném cái nhìn sang Mười Trong:
               - Còn chú nữa, chú cũng nên dạy thím Mười phải biết ăn biết ở với bà con dòng họ. Tui nghe tối hôm qua vợ chú kêu cả tên cha tui ra chửi nữa đấy.
               Mười Trong chưng hửng, nói đỡ:
               - Ai dám bịa chuyện ra nói với anh như vậy?
               - Còn ai bảo? Chẳng là vợ chú có tiếng “hiền” xưa nay cơ mà!
               Mười Trong im lặng. Hương Khâm và Bảy Diện cũng im lặng. Cả vợ Sáu Đường cũng im lặng. Cả hai phe đều chờ đợi một vụ nổ lớn từ một chuyện nhỏ. Nhưng hai “thủ lĩnh” cảm thấy lúc này không phải thời  cơ để châm ngòi. Nói cho nhau biết chừng đó là tạm đủ rồi. Hương Khâm nhổ toẹt một bãi nước miếng trên sân nhà Sáu Đường ra về. Bảy Diện cũng nhổ trả lại một bãi nước miếng. Bầy gà con vừa được vợ Sáu Đường thả ra khỏi chuồng, tưởng thức ăn, chúng nhào tới giành nhau mổ, nhưng thất vọng. Nỗi thất vọng của chúng cũng giống như nỗi thất vọng của đám bà con nít đứng quanh nhà Sáu Đường để hóng chuyện. Nhìn thấy họ, vợ Sáu Đường gai mắt, lấy cái chổi quét sân đuổi đàn gà và chửi đổng:

               - Ở đây có cứt đâu để ăn mà nháo nhào lên vậy?




10








               Bảy Diện rất đau lòng khi thấy ruộng của hợp tác xã đã sắp làm cỏ đợt một trà lúa cuối, đồng thời chuẩn bị gặt trà lúa đầu mà ruộng của ông chưa cấy được đám nào. Từ hơn tháng nay, Tiến Hơn cứ hứa cho bò xuống cày giúp ông nhưng rồi cù cưa cù nhầy chẳng thấy đâu cả. Hắn lấy cớ là bò và máy cày của hắn phải đi cày yểm trợ cho các đội khác để kịp thời vụ. Mỗi lần họp chi bộ, ông nghe Tư Mẫn báo cáo những kết quả bước đầu đáng phấn khởi của hợp tác xã rõ là chối tai. Trung ương chủ trương vận động nông dân vào hợp tác xã, nhưng ở địa phương lại bắt buộc, phải nói là cưỡng bức mới đúng. Ông đấu tranh trong chi bộ phải làm đúng chủ trương ở trên vậy mà đa số có chịu tiếp thu ý kiến của ông đâu. Chúng nó (ông gọi tất cả những ai không tuân thủ ý kiến của ông như vậy) đã sai mà không chịu sửa sai, rõ thật “cá mè một lứa”! Thời buổi này chân lý thuộc về đám đông. Ông thấy Đoàn Bê nói có lý. Đoàn Bê càng có lý hơn khi hắn phân tích tình hình cho ông thấy rằng: Tư Mẫn làm mạnh việc xây dựng hợp tác xã là dựa vào Năm Thân (Đảng) và Ba Trung (chánh quyền). Hai tay này tích cực ủng hộ hắn. Hợp tác xã càng mạnh thì không riêng gì Tư Mẫn mà cả dòng họ hắn đều có lợi. (Nhìn chung, họ Trịnh ở thôn Phước Châu xưa nay đâu có miếng đất nào cắm dùi). Thử rà soát coi, hầu hết các bộ phận trong ban Quản trị đều là bà con dòng họ hoặc tay chân của Tư Mẫn. Ngay trưởng ban Kiểm soát là Hai Thìn và cán bộ phụ trách cung tiêu là Ba Thảnh đều là những “phần tử phản bội cách mệnh”. Hai tên này đã từng tham gia kháng chiến chín năm rồi bỏ về thành. Đó là chưa kể những thằng “cầm súng chống nhân dân” như thằng Huy – kế toán trưởng, thằng Thụ - phó chủ nhiệm thường trực. Toàn những đứa “có vấn đề” cả.

               Đoàn Bê nói với ông:

               - Anh thấy lúc anh còn làm bí thơ, những thằng như vậy có ngóc đầu lên nổi không? Vậy mà bây giờ chúng ngang nhiên đè lên đầu lên cổ nhơn dân mình. Mình giải phóng đất nước để cho chúng nó hưởng à? Thiệt là vô lý! Muốn đánh thắng chúng, mình phải biết dựa vào quần chúng, theo sát từng hành động cụ thể của chúng, thu thập những bằng chứng ỷ thế lộng quyền không thể nào chối cãi được của chúng. Tới chừng tình hình cho phép, ta “beng một tiếng” là dứt điểm ngay.
               Đoàn Bê đã cho ông coi quyển sổ “tội ác của ba tên” mà hắn viết tắt ở trang đầu là: TAC3T. Trong đó, Tư Mẫn chiếm nhiều trang nhứt.
               Và để hâm nóng lại “tinh thần cách mạng tiến công” của mình, chiều nay Bảy Diện ra đồng để coi thử những kết quả “bước đầu đáng phấn khởi” của chúng nó ra sao.
               Cánh đồng Vườn Bí đỏ da dưới ánh nắng chiều, lúa dậy thì đang xanh mơn mởn. Từ trước 75 tới giờ, cánh đồng Vườn Bí chưa có mùa nào tốt hơn mùa này. Quả thiệt bà con nói không sai. Nhưng thử hỏi một mình tay Tư Mẫn thì làm được cái thá gì? Nếu không có Đảng lãnh đạo? Thế mà hắn cứ huênh hoang trong chi bộ mới ức chứ! Nếu không phải là hợp tác xã điểm, ở trên không tích cực chi viện xuống đủ thứ thì đừng hòng lên mặt.
               Nói về việc quản lý ruộng đất, ông đã đi trước tay Tư Mẫn gần nửa thế kỷ. Tư Mẫn chỉ là một gã đánh xe ngựa, chẳng biết cái bừa có mấy răng, thế mà bây giờ lại lãnh đạo nông dân sản xuất! Thế mà Đảng gọi là sử dụng đúng người đúng việc. Bảy Diện tự hào nhớ lại trai trẻ huy hoàng. Hàng núi lúa, núi rơm, núi người, hàng trăm công việc, tất tất đâu ra đó, mà chỉ mỗi mình ông quản lý. Ông chỉ cần hô một tiếng là kẻ ăn người làm đều sợ run chớ đâu như bây giờ, ban này, bệ nọ đủ thứ, họp hành hò hét đủ điều mà có ai sợ đâu. Ông phải chứng tỏ cho ở trên thấy khả năng của ông.
               - Anh phải hành động!
               Câu nói của Đoàn Bê thiệt chính đáng.
               Tiếng máy bơm nước nổ xình xịch làm ông chối tai. Cứ gầu sòng gầu giai là khỏi tốn xăng tốn dầu gì ráo. Tiết kiệm là chủ trương của Đảng và nhà nước kia mà. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa có máy bơm nước đâu mà người ta vẫn canh tác được, vẫn “hạt gạo cắn làm đôi” kia mà. Bây giờ có máy bơm để cho chúng nó có cơ hội xén bớt xăng dầu. Đoàn Bê báo cáo với ông là ngày đó tháng đó hợp tác xã chở một tấn xăng từ cảng về tới ban Quản trị, đoạn đường dài mười mấy cây số đã bay hơi mất một trăm lít! Chuyện này thì Tư Mẫn không thể lên mặt trước chi bộ được rồi. Để đó rồi hẳn hay với ông. Trong cuộc đấu tranh này, Đoàn Bê quả là tay có nhiều mưu lược. “Ta phải kiên trì mới thắng được chúng nó anh Bảy hà”. Đúng!
               Từ cuối cánh đồng Vườn Bí, giáp giới với thôn Phước Nhơn, Bảy Diện đi qua chiếc cầu khỉ tới đường rầy xe lửa. Đám thanh niên trong xã làm rẫy, đốt than trên núi Hòn Dựng đương chuyển than, củi, mì, bắp trên những chiếc xe bi chạy ken két trên đường rầy. Chúng thấy ông, cứ thao láo mắt nhìn, chẳng chào chẳng hỏi. Ông phải đi dọc theo đường rầy để về nhà. Đường ngoằn ngoèo làm ông mỏi cả chân, nhưng tránh được vùng ruộng riêng chưa cấy của ông để khỏi phải sốt ruột trong khi nhìn ruộng của hợp tác xã đã phủ kín một màu xanh ngứa mắt. Ông đã nhờ vợ Sáu Đường hôm nay qua bên Phước Thịnh mướn thêm vài người cấy, chẳng biết kết quả ra sao. Chuyện ruộng nương, nhà cửa, con cái, đến chuyện làng xã tất tất cứ rối lên, đảo lộn tất cả kể từ ngày ông đi học…
               Bước chân vô nhà, ông đằng hắng một tiếng thiệt lớn, để báo cho vợ biết sự có mặt của ông. Vợ ông, từ nhà sau cuống cuồng chạy lên nói một hơi:
               - Ông nó ơi! Có kết quả rồi, có kết quả rồi. Tôi biết thế mà. Ở dưới xã họ lên…
               Ông đương buồn, đâm bực, cắt ngang lời nói của bà:
               - Họ lên có việc gì?
               - Họ mời ông xuống ủy ban…
               - Tôi không đi đâu cả.
               - Ấy, ông khéo nói. Thằng Quí nó đưa giấy báo cho gia đình ta biết đã bắt được kẻ trộm rồi.
               Ông thở phào một cái, dịu giọng với vợ:
               - Trời! Thế mà bà làm tôi cứ tưởng chúng nó mời xuống ủy ban để tịch thu ruộng đất của ta chứ. Sao, nó bảo sao?
               - Cậu ấy nói vắn tắt là công an thành phố vừa báo cho xã biết đã tóm được trọn ổ bọn trộm, trong đó có vụ trộm nhà ta. Có cả thằng gì nhỉ? Thằng gì có cặp mắt ti hí mà hôm ông mới về, nó đến đây với cậu Hơn và chú Bê để nhậu ấy?
               Câu hỏi của vợ  như chiếc đòn bẫy, bẫy ông giật nẫy người. Ông sửng sốt thốt lên:
               - Trời! Thằng… thằng… Ba Búa đàn em của thằng Hơn. Thế mà thằng Hơn dám mang nó đến đây giới thiệu với tôi. Nhìn mặt nó lần đầu, tôi biết nó là đứa đầu trộm đuôi cướp ngay mà.
               - Ông còn nói tướng! Thế tại sao lúc đó tôi nghe ông nhờ nó…
               Bảy Diện nói khỏa lấp:
               - Nhờ, nhờ cái gì nào? Tôi còng đầu nó chứ nhờ! Thằng Quí có báo bao giờ ta lấy lại các thứ đã mất không?
               Vợ ông xịu mặt nói:
               - Tôi có hỏi nhưng cậu ấy trả lời không biết, chỉ bảo sáng mai mời ông xuống ủy ban làm việc cụ thể.
               Bảy Diện bất ngờ tỏ vẻ bất mãn:
               - Ủy ban bảo tôi phải đi hầu chúng à? Chánh quyền phải lo cho dân chứ!
               Vợ ông rất ngạc nhiên trước thái độ của ông, cự lại:
               - Ơ! Cái ông này hôm nay rõ điên! Của mình mất mình phải lo đi tìm đi hỏi chứ đợi người ta mang đến dâng tận miệng cho à?
               - Bà không biết sáng mai tôi bận coi cấy ruộng nhà à? Bà đi đi.
               Vợ ông háy ông một cái rồi nói:
               - Ông có kỵ đến ủy ban thì tôi đi. Đừng lắm lời nữa.
               Bà ngoe nguẩy bỏ ra giếng. Còn ông, ông khấp khởi mừng thầm, buột miệng nói vừa đủ nghe một mình:
               - Thế là ta thắng lợi.
               Không ai biết được câu nói của Bảy Diện ám chỉ điều gì.


               11


               Hai Nhã đương cắm cúi sửa chiếc bồ đập lúa sau nhà thì nghe tiếng con gọi:
               - Cha ơi, có khách!
               - Ai vậy? - Ông hỏi nhưng không rời khỏi công việc.
               Có tiếng vọng từ nhà trên:
               - Thôi, đừng làm gà làm vịt chi mắc công. Nghe nói anh có hai con heo sắp xuất chuồng, bắt một con làm thịt đãi khách cũng được.
               - À! Ông trưởng ban kiểm soát hở? Ngồi chơi chờ một chút nghe. Tui đương lỡ tay.
               - Chuyện gì đó cũng không quan trọng bằng chuyện này đâu. Lên đây ta trao đổi một chút.
               Hai Nhã bỏ cây kim khâu xuống, vừa đi vừa nói lầm bầm:
               - Mấy cha nội nầy thiệt! Cái gì cũng gấp hết. Chạy theo mấy cha thiếu điều bở hơi tai.
               Hai Nhã lên nhà trên, thấy Hai Thìn và Huy đương ngồi trước hiên nhìn ra đám mía mới kéo hàng xì xầm với nhau chuyện gì không rõ. Ông đằng hắng rồi lên tiếng:
               - Mời mấy ông vô nhà uống nước.
               Huy chỉ ra đám mía, nói:
               - Nghe nói chú mua được chiếc xe đạp nhờ trúng mùa mía vừa rồi phải không?
               - Bậy! Tính ra còn lỗ công nữa là khác… Thời buổi này, hổng có chiếc xe đâm ra kẹt đủ chuyện.
               Hai Thìn nói:
               - Vậy mà có đứa dám nói anh mới làm đội trưởng chưa được một mùa đã mua được xe đạp…
               Đã sốt ruột vì phải bỏ dở công việc mà cứ nghe Hai Thìn nói toàn chuyện bá xàm, Hai Nhã đâm cáu, cự nự:
               - Bộ chuyện gấp của mấy ông là vậy hả?
               - Thôi mà anh Hai, giỡn một chút cho vui mà. Muốn chuyện nghiêm chỉnh thì có chuyện nghiêm chỉnh.
               - Chuyện gì? Mời hết vô nhà đi.
               Huy mở cặp lấy quyển sổ ghi tài sản cố định của hợp tác xã để lên bàn. Anh lật đến phần của đội Hai, lấy cây viết chận lại (những động tác này làm cho Hai Nhã sốt ruột) rồi từ tốn hỏi:
               - Thưa chú, chú có nắm được hết diện tích ruộng thực tế mà hợp tác xã đã giao cho đội và diện tích ruộng canh tác không?
               Hai Nhã lúng túng trả lời:
               - Ban Quản trị giao cho đội bao nhiêu thì làm hết bấy nhiêu, còn hỏi tới hỏi lui gì nữa?
               Hai Thìn nói:
               - Anh không nắm rõ con số diện tích cụ thể ruộng của đội hả?
               Hai Nhã “chậc” lưỡi trả lời:
               - Chà, cái này mấy ông nên hỏi thằng Hơn. Nó giữ hết giấy tờ sổ sách của đội. Cứ hỏi nó, nó trả lời trot lọt hết. Còn tui… tui… chịu…
               Hai Thìn bắt đầu vô đề:        
               - Ông Nhã này, chuyện này đụng tới Tiến Hơn nên tụi tui muốn anh xác minh cụ thể. Hai sào ruộng gò ở vùng mộ Cô Sáu các anh có đưa vô diện tích canh tác của đội không?
               - Anh hỏi cắc cớ quá. Ruộng đó là ruộng nghĩa  mà.
               Huy nói với giọng ôn tồn cổ hữu của anh:
               - Đúng là chú không nắm vững diện tích canh tác của đội mà ban Quản trị đã giao. Chính điểm này Tiến Hơn đã lợi dụng…
               Hai Nhã bị chạm tự ái, nói cắt ngang:
               - Sao chú biết tui không nắm vững? Chú “thực tế” bằng tui à?
   Hai Thìn nói:
               - Anh đừng nóng vội. Tiến Hơn nó qua mặt anh, giấu nhẹm hai sào ruộng đó để canh tác riêng. Vậy mà tui tưởng anh…
               Hai Nhã tức giận kêu lên:
               - Hết nước hết cái rồi! Cái thằng đó nó lại phỉnh tui. Lâu nay nó nói với tui ruộng nhà thờ, ruộng chùa, ruộng hương hỏa, ruộng nghĩa không nằm trong diện hợp tác xã quản lý.
               Huy nói:
               - Đúng vậy. Nhưng chính sách đã qui định cụ thể trong từng trường hợp. Trường hợp hai sào ruộng này không nằm trong những quy định đó.
               Hai Nhã hỏi:
               - Ai nói cho mấy ông biết nó giấu để làm riêng?
               Hai Thìn đáp:
               - Tụi này làm việc có sổ sách, giấy tờ, có kiểm tra kiểm soát hẳn hoi chớ đâu phải nói miệng không thôi.
               Hai Nhã chép miệng tỏ vẻ bực tức vì Tiến Hơn coi thường ông, dám qua mặt ông trong chuyện này. Ông hỏi:
               - Bây giờ mấy ông xử ra sao? Tui thấy lúa đã tròn mình đất rồi…
               Hai Thìn cười rồi hỏi lại Hai Nhã?
               - Anh có để ý hai sào ruộng đó tốt nhứt vùng không?
               Hai Nhã im lặng.
               Vậy là sự việc đã rõ trắng đen. Chính Tiến Hơn và Bảy Quéo đã thông đồng với nhau canh tác đám ruộng này. Ban kiểm soát đã yêu cầu bộ phận định mức, kế toán, kế hoạch rà lại các phiếu ghi công điểm, các chứng từ phân phối vật tư, diện tích canh tác cụ thể của đội Bốn đều thấy mọi chi phí đầu tư cho đám ruộng này là của hợp tác xã. Về phần giống thì chưa xác minh được của Tiến Hơn hay của hợp tác. Vì bà con cho biết Tiến Hơn đã bắt mạ riêng để cấy. Nhưng bộ phận kế hoạch so sánh tỉ lệ giống giao cho đội với diện tích cấy qua các đợt thì thấy đợt này diện tích cấy ít hơn. Phần này không lần ra manh mối.
               Hai Thìn nói với Hai Nhã:
               - Sự việc đã rõ rồi. Hợp tác xã mời ban chỉ huy đội đúng hai giờ chiều mai xuống văn phòng làm việc. Anh chịu khó thông báo giùm cho Tiến Hơn và Chín Thiệp nghe.
               Hai Nhã chưa nguôi giận:
               - Tui có dính dáng tới chuyện này đâu.
   - Thôi mà anh Hai. Tụi tui mời anh xuống làm chứng, vì anh là đội trưởng.
               - Đúng. Ngày mai tui xuống, mang theo lá đơn xin rút lui về làm xã viên thường cho nó khỏe.

 

12


               Hôm nay là chủ nhựt, trong khi Tiến Hơn sửa soạn mở tủ lấy tiền đi chơi đá gà ở xóm Xưởng thì thằng Côn lù lù xuất hiện. Tiến Hơn ngạc nhiên vì sự có mặt của thằng Côn, vì chiều hôm qua anh ta đã hẹn với nó cứ chờ ở nhà, anh ta sẽ đem xe xuống rước. Thằng Côn thông báo việc đám ruộng gò Cô Sáu đã bị “xù”. Tư Mẫn la lối om sòm, đòi đem Tiến Hơn ra trước ban Quản trị để kiểm điểm. Theo thằng Côn thì Tư Mẫn tuyên bố không thể cho qua như chuyện “trộm bò” được. Tư Mẫn nói là làm chớ không phải nói chơi. Anh ta đã bị Tư Mẫn chơi mấy “đòn” rồi. Tình hình có vẻ nghiêm trọng đây. Phải tìm cách dập tắt “đám cháy” này liền.
               Tiến Hơn đành “hy sanh” trận đá gà mà anh ta đã chờ cả tuần nay. Anh ta đi bộ tới thẳng nhà bà Năm Xoan. Nhà bà Năm Xoan có vẻ sang sủa hơn từ ngày Ba Trung về. Cái không khí hiu quạnh nó đã lẩn đâu mất rồi. Những chậu cảnh bằng xi-măng mà ông Năm đúc từ thuở nào, đã bỏ không một thời gian dài, bây giờ đã được sắp lại trong sân nhà với nhiều loại cây cảnh, nhiều loại hoa. Tay này cũng “nghệ sĩ” lắm đây - Tiến Hơn nghĩ thầm. Mà nghệ sĩ thì chơi được.
               Anh ta thấy Ba Trung đương sửa bộ đi đâu đó, vội lên tiếng:
               - Chà! Ngày nghỉ không đi chơi sao ông chủ tịch?
               Ba Trung nghe giọng Tiến Hơn, ngạc nhiên hỏi:
               - Còn ông, bữa nay chủ nhựt không đi đâu sao?
               - Đi thăm đồng ngang qua đây, thấy ông ở nhà, ghé vô rủ ông đi uống cà- phê chơi.
               - Tui mắc đi mua mấy tấm tôn về lợp lại chái bếp cho bà già. Lâu nay nó bị dột, bà già cứ than hoài mà mình không rảnh, bữa nay thì không hẹn được nữa.
               - Ồ, tưởng chuyện gì chớ chuyện này dễ như chơi! Tui lợp chuồng bò còn dư một số tôn. Mình đi uống cà-phê xong rồi ghé nhà tui lấy về mà xài.
               Bà Năm Xoan ở trong nhà nghe Tiến Hơn đề nghị, bà muốn cho Trung đỡ mệt và mau xong việc, vội lên tiếng:
               - Phải đó. Mày cho tao mượn đỡ, bữa nào tao mua được sẽ trả lại.                      Ba Trung đương phân vân trước sự vồn vã của Tiến Hơn thì lại nghe mẹ anh nói vậy, bèn lên tiếng:
               - Nếu ông còn dư thì cho tui mượn đỡ.      
               Tiến Hơn nói khích thêm một câu:
               - Được rồi. Lâu ngày bè bạn mời ông một ly cà phê mà sao ông khó tánh vậy hà? Tui mời bạn chớ có mời ông chủ tịch đâu.
               Hai người tới quán cà-phê cô Đờn. Chặng đường từ nhà Ba Trung tới đây đối với Tiến Hơn là chặng đường “thắng lợi” đầu tiên trong việc dàn xếp ổn thỏa vụ hai sào ruộng gò Cô Sáu. Tiến Hơn kêu hai ly cà phê sữa nóng và bốn điếu thuốc Samit. Anh ta cầm điếu thuốc mời Ba Trung, Ba Trung từ chối:
               - Tui chỉ hút thứ đen, thứ này không hạp, hút vô là tui ho tới đứt gân cổ.
               (Không phải Ba Trung sợ “Samit nói ít hiểu nhiều” mà nó đã quật ngã một vài người bạn cùng cơ quan với anh trước kia. Thiệt sự là anh ghiền thứ thuốc nặng. Thời sinh viên anh chỉ toàn hút Bastoz xanh, bây giờ anh hút Nông Nghiệp).
               Tiến Hơn khai thông “chặng đường” kế tiếp:
               - Trước kia tui nghe thím Năm nói ông học nông nghiệp, chắc biết Trung tâm thực nghiệm nông nghiệp Nha Hố chớ?
               - Tui có đi tham quan ở đó một lần, vào dịp hè, khi còn là sinh viên.
               - Tui có người em con ông cậu ruột, tốt nghiệp kỹ sư nông nghiệp ở Liên Xô đương công tác ở đó. Năm ngoái nó mang về cho tui mấy ký giống lúa mới, gọi là IR.36. Thứ này năng suất cao, sức kháng rầy mạnh hơn loại 732 mà hợp tác xã mình đương trồng.Tui đã nhân nó ra liên tiếp hai mùa rồi, thấy khả quan lắm.
               - Tui nghe bà con đương bàn tán về giống này nhiều. Thấy nhiều người trong xã đã phá vườn cây ăn trái để trồng nó.
               - Tui nghĩ mùa tới hợp tác xã mình có chừng nửa tấn giống loại này để nhân lần ra thì “ăn đứt” cả thành phố này.
               - Hôm trước, đồng chí Tư Mẫn có bàn với tui chuyện này. Dự tính ta sẽ lấy 732 đổi IR. 36 với tỷ lệ trội mười lăm phần trăm. Lập hẳn một cánh đồng trồng giống mới, loại bỏ dần giống 732 đã thoái hóa. Ông coi đội Bốn có thể phụ trách luôn cánh đồng nhân giống được không?
               Tiến Hơn mừng như mở cờ trong bụng. Ba Trung đã vô tình mở toang cánh cửa thoát hiểm cho anh ta.
               - Nếu các ông tin tưởng khả năng tụi tui thì tụi tui sẵn sàng nhận thôi. Nhưng tui ngại một điều… - Tiến Hơn ngập ngừng để thăm dò thái độ của Ba Trung.
               Ba Trung hỏi:
               - Ngại chuyện gì?
               - Về giống. Nếu đổi mỗi chỗ một ít tui sợ thế nào cũng bị pha tạp, không được thuần lắm. Ông thấy chuyện đổi lúa giống mùa rồi không? Đủ thứ phức tạp. Lúa đội Một mùa nay bị sâu rầy nhiều hơn các đội khác cũng vì đổi theo kiểu bình quân, mỗi người một giạ cho nó công bằng. Tui thấy thà ít mà chắc. Mình nhân lên chừng một hai vụ là có giống cấy đại trà cho toàn hợp tác xã.
               Ba Trung nói:
               - Ý ông là lúa giống đã có sẵn và sẵn sàng đổi hết cho hợp tác xã phải không?
               Tiến Hơn giả vờ phản đối:
               - Ý chết! Nói cho vui vậy thôi chớ tui có hột nào đâu mà đổi.
   Tiến Hơn nói xong, cười khoái trá khiến Ba Trung ngạc nhiên:
               - Tui nói nghiêm chỉnh mà ông tưởng chuyện đùa hà?
               Lúc này Tiến Hơn mới tới “bước dứt điểm”.
               - Ông Trung này! Có chuyện này tui muốn giữ bí mật cho tới phút chót để làm mấy ông ngạc nhiên chơi, nhưng tới bây giờ thì lộ hết rồi… (Theo thói quen, Tiến Hơn cầm điếu Samit mời Ba Trung, Ba Trung lịch sự cầm rồi để lại trên dĩa). Anh ta nói: - Hút đi cho vui. Tui muốn nói với ông về chuyện giống IR.36 đó mà.
               Thấy Tiến Hơn úp úp mở mở, Ba Trung sốt ruột hỏi:
               - Chuyện gì thì ông cứ nói thẳng ra.
               - Hồi nãy tui có nói với ông thằng em con ông cậu ruột của tui bây giờ nó làm giám đốc Trung tâm Nha Hố. Nó nói giống IR.36 là thứ mới nhứt ở Đông Nam Á, chưa nơi nào trồng đại trà. Khi nó mang về cho tui, tui nghĩ ngay tới hợp tác xã mình. Tui âm thầm gây nó ra, tới mùa vừa rồi tui chọn được ba giạ giống thượng hạng cấy ở hai đám ruộng gò cô Sáu. Tui định tới chừng lúa đỏ mắt, sắp gặt sẽ báo cho ban Quản trị biết, nhưng chưa gì, có một số người lẽo mép, tưởng tui giấu ruộng của hợp tác xã để làm tư lợi đi báo cáo cho ban Quản trị… Ông nghĩ có xui, có oan cho tui không? Ruộng đất chớ phải cây kim sợi chỉ sao mà dấu? - Anh ta cười rất trịch thượng rồi tiếp: - Lâu nay tui thấy làm cán bộ kiểu như tụi tui mệt quá ông Trung à. Chẳng ăn được cái dải gì, còn bỏ của nhà ra nữa mà lúc nào cũng bị thiên hạ dòm ngó nghi ngờ.
               Ba Trung nhìn thẳng vô mặt Tiến Hơn, dò xét coi thực giả ở chỗ nào, nhưng anh không thể phân biệt được. Anh tin vào thiện ý của Tiến Hơn và anh cũng không nghĩ rằng Tiến Hơn dám dấu ruộng của hợp tác xã làm tư lợi. Đâu phải ban chỉ huy đội có mỗi mình anh ta, muốn làm gì thì làm. Ba Trung nói:
               - Đó là lỗi tại ông. Ai biểu ông chơi trò cút bắt với mọi người.
   (Ngay lúc này, Ba Trung nhớ tới sự ma mãnh của Tiến Hơn hồi nhỏ, khi cùng chơi trò cút bắt với bọn trẻ trong xóm. Tiến Hơn thường chạy luôn về nhà ở hẳn, mất công đứa đi tìm quanh quất không thấy. Biết tính hắn như vậy, bọn trẻ không cho hắn tham gia chơi thì hắn trả thù bằng cách chỉ cho đứa tìm đúng chỗ đứa trốn).
               Tiến Hơn chớp chớp mắt:
               - Tui đã “bật mí” cho ông hết rồi đó. “Thành thật khai báo thì cách mệnh khoan hồng” mà.
               Ba Trung cũng đề phòng mưu mẹo của Tiến Hơn:
               - Tui nghĩ bây giờ ông nên gặp ngay đồng chí Tư Mẫn, đừng đợi tới chiều. Sự việc nghiêm trọng đó. Chuyện này thuộc phạm vi và quyền hạn của hợp tác xã, ông hiểu chớ?


               13


               Lúa ngoài đồng vàng mơ, trong nhà mờ con mắt.
               Ngoài đồng, lũ chim sẻ đàn đúm kéo nhau về, thản nhiên mở tiệc liên hoan, ca hót nhảy múa trên những cánh đồng lúa đương chín. Cùng với lũ chim sẻ là lũ chuột tới mùa động cỡn, chuẩn bị lương thực, hang ổ để sanh đẻ. Chúng chẳng cần biết con cái của chúng, những chú chuột chưa mở mắt, còn đỏ hỏn, sẽ được trầm mình trong chảo mỡ sôi để làm đồ nhấm cho dân nhậu. Chúng cứ đẻ vô tội vạ.
               Chiến dịch “đuổi chim, diệt chuột, bảo vệ mùa màng” được phát động rầm rộ. Ban văn nghệ xã cổ động chiến dịch này bằng một đêm văn nghệ ngoài trời, phục vụ bà con nhiều tiết mục: vọng cổ, bài chòi, ca nhạc Liên Xô, ca nhạc trong nước và có cả kịch nữa. Tiết mục ăn khách nhất là tấu hài bài: “Chim, chuột” do Quí tự biên tự diễn. Nó giả tiếng chim, tiếng chuột rủ nhau đi phá hoại tài sản của nhơn dân khiến mấy ông mấy bà, mấy cô và mấy em nhỏ cười thắt ruột. Những thằng bù nhìn thì đứng giương oai trên các cánh đồng. Những vỏ cua đựng bã diệt chuột nằm rải rác trên các bờ ruộng. Cùng với chiến dich này là kế hoạch chuẩn bị thu hoạch. Rơi đương đóng một cỗ máy giê lúa để chọn lúa giống. (Nói là máy cho có vẻ hiện đại chớ thiệt sự phải có người ngồi quay cánh quạt bằng tôn. Có điều đỡ mệt hơn, hiệu quả hơn và năng suất cao hơn). Nhà kho đã mua sẵn bao, bồ, nia, thúng… Bếp lửa lò rèn của Mười Trong luôn luôn đỏ những câu liêm. Nhà nào có bồ đập lúa đều đem ra sửa lại tươm tất để cho hợp tác xã mướn với ba điểm một ngày gặt. Tiếng đuổi chim lộc cộc phát ra từ những chiếc bồ cạp bằng tre, hay tiếng ơi ới từ cửa miệng nhiệt tình của đám trẻ, tiếng búa rèn cắc cụp suốt ngày, đã thôi thúc những người vốn thờ ơ với hợp tác xã cuốn theo không khí chuẩn bị này. Một vài người trong xóm đã mang danh là xã viên nhưng chưa có công điểm, giờ đây tới nhà Hai Nhã xin cho làm bất cứ công việc gì của hợp tác xã, để có điều kiện đi thu hoạch.
               Hai Nhã trả lời liền:
               - Được. Đội chưa tìm ra người đập bức bình phong có vẽ hình con cọp và bứng cây phượng cổ thụ trong sân miếu Bà để làm sân phơi. Ngay bây giờ tới đó, tui chỉ cách cho làm.
               Nghe như vậy, họ lại vái dài từ chối:
               - Đã lấy đình bây giờ còn đập miễu nữa hả?
               - Mấy ông là cách mệnh không sợ thánh thần bẻ cổ chớ tui là dân chay, tui ngán lắm. Xin ông đội tha dùm.
               Hai Nhã bực mình cự lại:
               - Mấy người tưởng hợp tác xã này là cái chợ chắc. Ai muốn vô cứ vô, ra cứ ra, muốn làm cũng được, không làm cũng được. Tui nói thiệt, ngày nào tui còn làm đội mấy người đừng hòng đợi người ta dọn mâm sẵn rồi tới cầm đũa nghe.
               Ông nói để lấy uy chớ thiệt ra, chính ông cũng không dám đứng ra làm cái chuyện phạm thần phạm thánh. Dầu sao Bà cũng là người đã có công lập ra cái xóm nhỏ này từ đời cố tỉ cố lai. Những bậc tiền hiền trong xóm đã nhớ công ơn của Bà, lập nơi thờ phượng trang nghiêm. Chẳng ai cần biết tên Bà là gì, nhưng hàng năm cứ tới rằm tháng ba nhằm tiết thanh minh nhà nào cũng ít nhứt một hai người, có nhà đông đủ, tụ họp về đây cúng lạy Bà rồi ăn uống, đùm túm đem về cho người ở nhà đồng thời bầu ra thủ bổn mới. “Vui vẻ cả làng” chỉ được mỗi năm một lần thôi. Nhưng cũng không chỉ có vậy. Trước kia mấy năm liền, ông làm thủ bổn, được canh tác hai sào ruộng gò cô Sáu để lo phần hương hỏa cho Bà, ông được mùa liên tiếp, nên sanh ra chuyện trâu cột ghét trâu ăn. Chính Ba Rền đã ngấm ngầm vận động các bậc hào lão trong làng lật đổ ông để đưa lão lên thay. Nhưng Bà là người luôn có cặp mắt công minh. Ba Rền nhận làm thủ bổn chưa kịp hả hê mừng thì đất nước xảy ra biến cố 75. Oái oăm thay! Bây giờ lại chính ông phải làm cái công việc mà lương tri không cho phép. Nhưng không làm thì không được. Đá, gạch, vôi, cát đã để sẵn đó rồi. Ngày kia thợ sẽ khởi công. Sáng nay, trong lúc thăm đồng định sản lượng, Tư Mẫn đã hỏi ông công việc tiến hành tới đâu rồi? Ông ngập ngừng trả lời:
               - Kẹt quá! Tìm chưa ra “thiên lôi”.
               Tư Mẫn nói khích ông:
               - Nếu anh không dám thì tui làm thay cho. Xã đương phát động phong trào bài trừ mê tín dị đoan đó.
               Chuyện này đâu phải là mê tín. Chuyện nay là ơn nghĩa. Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây chớ. Ông cứ gà gà mắc tóc. Ông gợi ý với Chín Thiện:
               - Chú mày là người công giáo, chú mày đứng ra đảm nhiệm công việc này dùm tao chớ tao khó xử quá.
               Chín Thiệp làm dấu thánh, trả lời:
               - Lạy Chúa, anh Hai “đừng xịt chó vô gai”, tội nghiệp em út!
               Còn khi ông gợi ý với Tiến Hơn thì anh ta vừa chắp tay vái ông, vừa nói:
               - Chú ơi! Con tui còn nhỏ dại. Cho tui sống để nuôi tụi nó…
               Không biết nhờ ai được nữa trong khi cái cày đã đặt trước mũi con trâu, cuối cùng rất may cho Hai Nhã là nhờ được thắng Quí. Hai Nhã sắm một mâm lễ vật gồm: một bình bông điệp, bảy miếng trầu, bảy miếng cau, một đĩa bánh ngọt và một bình rượu lễ để cúng và xin phép Bà trước khi tiến hành công việc.
               Hai Nhã chỉnh tề trong bộ quốc phục: quần màu cháo lòng, áo dài đen, đội khăn đóng, hay tay cầm ba thẻ nhang để trước trán, vẻ mặt tôn kính, ông khấn to:
               - Kính lạy thần hoàng thổ địa, ông đất, bà miếu, bốn phương tám hướng, ma quỉ thánh thần ngự trị trong khu thổ địa này. Hôm nay là ngày… tháng… năm… kính lạy Bà, con tên là Nguyễn Văn Nhã, bà con kêu là Hai Nhã, cha của bảy đứa con còn nhỏ dại. Có trời chứng giám, trước giờ con làm ăn lương thiện, chưa làm điều gì thất đức, phạm thượng thánh thần, âm hồn khuất bóng. Nay cũng vì công việc chung của hợp tác xã, Tư Mẫn là chủ nhiệm đã biểu con cứ lấy, cứ đập phá gia cư tài sản của Bà. Vì Tư Mẫn bắt buộc mà con phải làm, kính lạy Bà thương tình người cha già của bảy đứa con nhỏ dại, vợ thì ốm yếu, không thể ở một mình nuôi con được. Kính lạy Bà thương con, đừng bắt tội, có bắt tội thì bắt tội Tư Mẫn…
               Hai Nhã cung kính vái lia lịa trước bà thờ Bà. Ông cắm nhang lên bát rồi vừa lạy vừa khẩn lâm râm trong miệng.
               - Vì Tư Mẫn bắt buộc… Người cha của bảy đứa con… vợ thì bịnh quanh năm…
               Lạy xong, ông ra hiệu đến phiên Quí.
               Nãy giờ Quí đã cố cắn môi để khỏi bật cười khi nghe Hai Nhã khấn, nhưng tới lúc này thì nó không còn đủ sức nén chặt “cái lò xo cười” được nữa. Tiếng cười sặc sụa bật ra, đẩy không khí trang nghiêm bên trong miễu Bà bay ra ngoài trời trong nháy mắt.
               Hai Nhã trừng mắt nhìn Quí, nạt lớn:
               - Hừ, mày dám báng bổ thánh thần hở. - Ông lại xá xá trước bàn thờ Bà: - Kính lạy bà miễn chấp cho nó. Xin Bà thông cảm. Tất cả đều do Tư Mẫn mà ra…
               Lúc này Quí đã làm mặt nghiêm như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Quí với điệu bộ hết sức cung kính, đứng trước bàn thờ chắp tay khấn:
               - Lạy bà, vì công điểm mà lát nữa con phải đập bức bình phong và bứng gốc cây phượng. Nếu bà có bắt tội thì bắt tội ông đội trưởng, tức là Hai Nhã, vì ổng biểu con làm, chớ đừng bắt tội con tội nghiệp…
               Lời khấn của Quí như dòng điện bất ngờ chạm vô người Hai Nhã, ông quên rằng mình đương đứng ở chỗ trang nghiêm, hoảng hốt thốt lên:
               - Tổ cha mày, ăn nói bậy bạ vậy hở Quí?!
               - Dạ, tại chú biểu con cứ làm đi, đừng sợ gì hết, có chuyện gì chú chịu cho.
               - Tao nói là nói vậy thôi. Tổ cha mày, tao có chết thì tao cũng vặn cổ mày chết theo luôn.
               Quí lại chọc tức Hai Nhã:
               - Í à, nghe chú nói ớn quá! Thôi, con không dám làm đâu. Con về…
               Hai Nhã đành nuốt giận, xuống nước:

               - Bà là người hiển linh đã chứng giám lòng thành của chú cháu mình rồi đó. Thôi lạy Bà đi con. Nói vậy chớ chung qui là tại Tư Mẫn biểu, có gì Bà cũng bỏ qua cho chú cháu mình. 




14







               Hai Nhã thức dậy  khi con gà trống gáy báo thức. Ông ăn tô cơm nguội, uống lẹ gáo nước lạnh trong vò rồi bương bả qua cánh đồng Vườn Bí. Ông rất mừng khi thấy Tiến Hơn và Chín Thiệp đã có mặt. Hai người đương hút thuốc nói chuyện. Họ nói chuyện gì thì ông không biết.
               Sáng nay là buổi gặt đầu tiên của hợp tác xã. Hai Nhã đã ghi đậm ngày tháng này cũng như ngày tháng cắm rẻ mạ đầu tiên xuống đây trong quyển sổ công tác. Cánh đồng còn ướt đẫm sương đêm. Những giọt sương còn bịn rịn bên thân lúa. Hơi lạnh của sương quyện cùng hương thơm của lúa len lỏi vô tận cùng mỗi tế bào phổi của ông. Ông hồi hộp chờ đợi tiếng kêu xào xạc của câu liêm cắt vô thân lúa. Ông hỏi Tiến Hơn và Chín Thiệp:
               - Mọi chuyện hai chú xếp đặt đâu vô đó rồi hả?
   Tiến Hơn trả lời cốt để chứng tỏ cho Hai Nhã thấy anh ta luôn luôn làm tròn vai trò của mình.
               - Xong ngay. Có gì đâu mà chú lo.
               - Giỡn hoài. Mày tưởng là chuyện cơm bữa sao?
               Sáng qua, trong cuộc họp giữa Ban quản trị và các đội, Tư Mẫn đã thông báo sáng nay có mấy ảnh trển đưa một phái đoàn gồm báo, đài tới đây để quay phim, chụp hình để tuyên truyền cho hợp tác xã điểm của thành phố.
               Bây giờ thì không thể “xong ngay” như Tiến Hơn nói được.
               Tiến Hơn và Chín Thiệp đưa mắt nhìn nhau lo ngại. Hai người mới nói cho nhau biết xã viên đã to nhỏ rằng có đi gặt cũng không được hưởng hột nào, hợp tác xã sẽ thu hết. Không biết tin đồn này bắt nguồn từ đâu, nhưng suốt ngày hôm qua hai người tới từng nhà nhắc nhở họ sáng mai ra đồng sớm, thái độ của họ hầu hết đều “ậm ừ” cho qua chuyện. Có người còn dè bỉu: “Ruộng của mấy ông thì mấy ông gặt đi!”
               Lúc này thì Hai Nhã đã hiểu ra vấn đề, ông thốt lên:
               - Thôi, đứng đây mà nói cù nhầy cù cưa hổng được tích sự gì. Bây giờ chú Hơn ở đây chờ tổ nào tới trước thì chú chỉ ruộng cho họ gặt, cứ năm người một bồ như đã định. Còn tui và chú Thiệp đi vận động tiếp. Lỡ phái đoàn lên đây mà chỉ có hai ba bồ dưới ruộng thì tui với mấy chú có nước độn thổ chớ không mặt mũi nào ăn nói với người ta được. Sao họ cứ bày đủ chuyện cho mình khổ như vậy hổng biết. Đi, đi chú Thiệp!
               Tiến Hơn tránh được việc “đi vận động tiếp”, mừng rơn. Anh ta còn nhớ hôm qua đi nhận bao đựng lúa từ kho hợp tác xã về giữa đường, gặp vợ Bảy Quéo và bà Hai-sinh- sự. Hai bà đi chợ Nhỏ về. Bà Hai-sinh-sự kêu giựt ngược:
               - Chở bao làm gì nhiều dữ vậy, mày?
               - Hợp tác xã cho đội mượn để đựng lúa đây.
               Bà Hai-sinh-sự nói với vợ Bảy Quéo:
               - Đó, thím thấy chưa? Tui nói có sai đâu. “Cời làm cối ăn” mà!
   Tiến Hơn vặn lại:
               - Cời nào làm, cối nào ăn? Mấy bà cứ phát ngôn cho sướng miệng.
               Vợ Bảy Quéo nói chữa:
               - Chị Hai nhắc tới chuyện hai sào ruộng gò cô Sáu đó mà! Chú bỏ công bỏ của ra làm rồi cuối cùng hợp tác xã hưởng trọn hết.
               Tiến Hơn chẳng thanh minh, nói bâng quơ:
               - Mấy bà nói bậy không sợ bị kiểm điểm à.

***

               Mặt nước sông Quán Trường lấp lánh ánh sáng đầu ngày. Những gợn sóng lăn tăn đương chắt lọc chút không khí trong lành còn sót lại trong đêm để trao hết cho đất trời. Bầy bò bên xóm chợ Nhỏ tán loạn chạy băng qua sông, khi trong bầy có một chú bò cày trửng mỡ đuổi theo con bò cái tơ. Và trên chiếc cầu tre mới bắc ngang qua đoạn sông hẹp, các bà các cô xã viên vừa khiêng bồ đi gặt, vừa đùa nghịch. Người sau đẩy người trước, một cô suýt té xuống sông  nếu không vớ kịp trụ cầu. Tiếng la ó, tiếng cười đùa lất phất trong không khí khi chìm khi nổi.
               Bà Bảy-lò-rèn đã lựa trước những người cùng gặt chung bồ của bà.
               Tới bờ ruộng, bà Bảy-lò-rèn đứng nhìn một lượt khắp cánh đồng, chỉ thấy rải rác vài ba cái bồ và một số ít người túm tụm xung quanh, chưa ai bước chưn xuống ruộng. Không thấy một ai trong ban chỉ huy đội, bà la toáng lên:
               - Bớ mấy ông đội! Dù đi đâu hết rồi mà hổng cho bà con xuống ruộng?
               Có tiếng trả lời từ chiếc bồ khác:
               - Mới tới mà làm tàng phải không? Mấy ông đội còn đi “gỡ đường rầy” làm kẻng đánh báo giờ gặt.
               - Mới sáng sớm mà đi “gỡ đường rầy” rồi hả?
               Tiến Hơn từ trong bụi rậm phía đường rầy bước ra, lên tiếng:
               - Sao mấy bà không trách mình tới trễ mà lúc nào cũng đem mấy ông đội ra la làng la xóm?
               Bà Bảy-lò-rèn cãi lại:
               - Giờ này mà trễ? Đã đủ người gặt chưa mà kêu trễ?
               Tiến Hơn đáp:
               - Đủ thiếu gì cũng gặt.
               Bà Bảy-lò-rèn hỏi gằn:
               - Mạnh ai nấy gặt hả?
               Hễ “nước” với “lửa” đụng nhau thì “nước” sẵn sàng chịu thua. Tiến Hơn chùn bước nói:
               - Nói vậy chớ để tui phân chia bồ nào gặt đám nào hẳn hoi, không thể lộn xộn được. Mấy bà phải biết sáng nay mấy bà được lên ti-vi đó, sướng chưa?
               Vậy là mọi người liền bàn tán tới chuyện lên ti-vi hơn là so bì ruộng tốt, ruộng xấu, ruộng to, ruộng nhỏ. Khi Tiến Hơn phân ruộng gặt, bồ nào cũng kèn cựa qua loa rồi đua nhau xuống ruộng.
               Lúc này đã có thêm một bồ ở xóm Cây Sung và một bồ ở xóm Bầu Sen. Khi Tiến Hơn thấy bà Hai-sinh-sự và vợ Bảy Quéo khiêng bồ chạy hối hả tới ruộng, miệng la ơi ới “chờ tui với, chờ tui với”, thì anh ta rất ngạc nhiên đồng thời cũng phục tài vận động của Hai Nhã. Tiến Hơn tới gần hỏi nhỏ bà Hai-sinh-sự:
               - Không sợ “cời làm cối ăn” hả?
               - Chưa biết. Nhưng nghĩ lại công sức mình bỏ ra mà để cho chúng hưởng hết cũng tiếc.
               Thấy hai người đều bận thêm bên ngoài chiếc áo “trây-di” của lính Mỹ có bốn túi lớn, Tiến Hơn hỏi đùa:
               - Nghe nói có lên ti-vi thím Hai với chị Bảy diện kỹ quá!
               Bà Hai-sinh-sự nguýt anh ta một cái, đáp lại:
               - Lẽ đương nhiên.
  
***

               Thóc lúa ở đâu, bồ câu tới đó. Nhưng trên bờ ruộng gặt sáng nay, không thấy một bóng bồ câu nào mà chỉ toàn con mót. Người mót đông hơn người gặt. Người trong làng đã đành, người khác làng, khác xã cũng thúng, cũng que đập rạ kéo tới. Lại có cả mẹ của Tiến Hơn và vợ Bảy Diện nữa! Và đông nhứt là đám con cái của xã viên đương gặt dưới ruộng. Mặc dầu đội đã thông báo và nhấn mạnh điểm then chốt trong nội quy thu hoạch của hợp tác xã là: cấm ngặt xã viên đi gặt mà đưa con theo mót, nếu không chấp hành lần thứ nhất sẽ bị cảnh cáo trước đội và không được tính công điểm trong ngày hôm đó, lần thứ hai không được tham gia thu hoạch suốt vụ. Vậy mà họ không sợ, cứ đem con đi! Có vài xã viên lại không chịu đi gặt mà đem con theo mót với mình.
               Hai Nhã không rời mắt khỏi đám người đi mót. Ông đã bực mình khi nghe mẹ Tiến Hơn ngồi than đói than khổ với vợ Bảy Diện vì ruộng đất, bò cày, máy bơm đều bị nhà nước tịch thu hết, bây giờ lại thấy bà liếc nhìn chừng ông rồi nhớm bước chân xuống ruộng, khiến đám con nít ngấp nghé hùa theo, ông không thể nín được:
               - Chú Hơn, chú mời mấy người kia lên bờ giùm tui.
               Tiến Hơn cố tình tránh đám con mót, đương lom khom gom giùm lúa đưa tới bồ của bà Hai-sinh-sự, giả đò không nghe tiếng của Hai Nhã. Hai Nhã tức mình, bước xâm xâm tới chỗ Tiến Hơn. Ông mới đi được mười bước thì cả đám con mót không ai đợi ai sà xuống ruộng gặt. Nhanh như chớp, họ tranh nhau từng ôm rạ mới đập xong, có người quơ lấy quơ để một hai nắm lúa chưa đập. Giành giựt, chửi bới giữa người mót với nhau, giữa người mót với người gặt làm huyên náo cả cánh đồng. Hai Nhã không còn biết cách nào để đuổi hết đám con mót lên bờ, ông vơ vội một nắm rạ vừa chạy, vừa giơ lên thị uy mấy đứa con nít, nạt lớn:
               - Cái lũ mắc dịch này! Có lên bờ hết hông? Tao đánh chết hết bây giờ.
               Nhiều đứa thấy Hai Nhã hùng hổ sợ bị ăn đòn, chạy vội lên bờ, chỉ một hai thằng nhóc cứ lì như đất cục, đứng trơ trơ dưới ruộng nhìn ông. Ông túm được một thằng, giựt lấy cái thúng, hỏi:
               - Mày con ai?
               Có tiếng trả lời thay cho thằng lỏi:
               - Con ghẻ của ông đó, ông không nhận ra sao?
               Và mọi người cười ồ.
               Hai Nhã đoán ra là con của Sáu Đường, nhưng không biết là đứa thứ mấy vì nhà này con đông không thua gì nhà ông. Từ ngày Sáu Đường “chết vì miếng ăn”, vợ con anh ta càng túng thiếu hơn. Mấy đứa lớn đều bỏ học. Đứa con gái đầu mới học lớp sáu lớp bảy gì đó nghỉ học ở nhà theo mẹ đi làm cỏ lúa, gánh phân để kiếm công điểm. Vợ Sáu Đường chỉ biết bám vô hợp tác xã chớ không biết làm gì khác. Số công điểm của chị ta từ đầu vụ tới nay đương dẫn đầu cả hợp tác xã về phía nữ. Nghĩ thương cảm hoàn cảnh của vợ con Sáu Đường, khó khăn hơn nhiều người trong đội mà vẫn xăng xái công việc của đội, thỉnh thoảng ông đem cho mấy đứa nhỏ vài con cá đánh lưới được hoặc năm mười cũ khoai lang, khoai mì. Trong các buổi họp đội, hễ nhắc tới công việc là ông luôn luôn nêu gương vợ Sáu Đường. Chính vì những sự kiện này mà chẳng bao lâu cả hợp tác xã đồn ầm lên rằng: “Ông già mà còn dê, vợ con đùm đề lại đi mê con mẹ sề”. Mặc kệ chúng đồn gì thì đồn, ông chỉ làm theo lương tâm thôi.
               Lúc này cái thúng trẹt của thằng nhóc trên tay Hai Nhã đương chờ thái độ xử trí của ông. Bỗng nhanh như cắt, cái thúng trẹt bay vù lên bờ ruộng. Hai Nhã chỉ theo cái thúng đương lăn tròn nói với thằng nhóc:
               - Lên đi mày, lên liền! Tao bắt được một lần nữa, phải biết…
               Nhiều tiếng nhao nhao từ đám con mót:
               - Ông đội ơi! Có giỏi thì đuổi “bà cộng sản” với bà Ba Rền kia.
               “Bà cộng sản” là nhóm từ mà dân trong làng dùng để chỉ vợ Bảy Diện. Hai Nhã chẳng ưa gì Bảy Diện, bởi Bảy Diện hễ mở miệng là “nói chánh trị”, nhưng lại ghét nghe thiên hạ gọi xách mé như vậy. Hai bà này đương thản nhiên ngồi đập lúa mót trên tấm nhựa trải trước mặt, ngay cạnh bồ đập lúa của nhóm bà Hai-sinh-sự. Đã tới lúc Tiến Hơn không thể thờ ơ trước cảnh tượng này nữa, hai người cùng bước tới chỗ hai bà nói một hai câu gì đó rồi nhẹ nhàng dọn dẹp giùm “đồ nghề” và mang lên bờ ruộng cho họ. Hai bà cũng chịu lên bờ, không phản đối, nhưng không quên ôm theo mỗi người một ôm rạ lớn hơn vòng tay, tới nỗi cứ mỗi bước đi là từng chùm rơi vãi ra.
               Đám con mót đã chịu ngồi yên trên bờ ruộng đập rạ. Như một “sĩ quan chỉ huy mặt trận”, Hai Nhã đi kiểm tra một vòng các bồ đập lúa. Ông đương tiến tới nhóm của bà Hai sinh sự thì nghe có tiếng rầm rì:
               - Ổng tới kìa mấy bà, coi chừng đó!
               Bà Hai-sinh-sự trả lời:
               - Ổng tới mược ổng, mình có làm gì đâu mà sợ.
               Mọi người đương nói đương cười bỗng im lặng, cắm cúi gặt, đập. Bà Hai-sinh-sự và vợ Bảy Quéo đứng bồ, thấy Hai Nhã tới gần, hai người cố tình vung mạnh tay đập cho tơi nắm lúa. Hai Nhã tinh ý, ông cúi xuống chỗ đống rạ vừa đập xong, còn ấm hơi tay, cầm lên một nắm đưa trước mặt vợ Bảy Quéo hỏi:
               - Thím coi như vầy được hông?
               Lúa đập chưa chín. Những hột lúa chắc còn dính nhiều nơi gié. Nhưng vợ Bảy Quéo vẫn chống chế:
               - Ông nói sao? Đập vậy mà còn chê hả?
               Hai Nhã muốn nổi dóa lên, nhưng ông kịp thời nghĩ sáng nay chính ông đi năn nỉ mấy người này ra đồng. Nếu không có cái chuyện chụp ảnh quay phim, cần có đông người cho xôm tụ, thì ông chẳng cần thuyết phục họ làm gì. Làm ăn dối trá như vậy chỉ hại cho tập thể. Ông nuốt giận, nói với giọng nhẹ nhàng:
               - Hừ, làm dối mà còn cãi hả?
               Vợ Bảy Quéo thấy ông có vẻ xuống nước, lại lấn tới:
               - Lúa dai như đỉa, ông giỏi đập thử coi!
               - Sao mấy bồ khác họ đập chín?
               Vợ Bảy Quéo nói xỏ xiên:
               - Họ ăn nhiều, họ mạnh.
               Bà Hai-sinh-sự bắt đầu sinh sự, nói xóc óc:
               - Họ giỏi, sao ông không để họ gặt hết đi. Kêu chị em tui tới đây làm gì? Bộ ở đây thiếu người cho ông mắng hả?
               Hai Nhã thấy cần phải khóa miệng bà Hai-sinh-sự lại, ông nói:
               - Tui nhắc nhở mấy bà là để tránh chuyện rơi vãi, mất mát hột lúa, ảnh hưởng không tốt tới giá trị ngày công của mấy bà, của bà con khác. Chớ tui có giữ hột lúa để rồi tui đem về nhà cho vợ con tui đâu.
               Một tiếng nói băng quơ phát ra từ bờ ruộng:
               - Ai biết được.
               Hai Nhã biết rõ ai nói câu đó, nhưng ông vẫn giữ vẻ mặt bình thản, ung dung đi tới chỗ mẹ Tiến Hơn và vợ Bảy Diện. Hai bà cũng làm ra vẻ tự nhiên chào ông. Ông vừa hỏi vợ Bảy Diện vừa lấy tay xới đống rạ:
               - Anh Bảy dạo này khỏe không chị?
               Lúc này, vợ Bảy Diện lại trả lời không mấy tự nhiên:
               - Cám ơn ông đội… Có gì mà ông đội phải xới tung lên thế?
               Mẹ Tiến Hơn lấy cái thúng chận lên đống rạ của mình, nói:
               - Già cả, đi làm cho hợp tác xã không nổi, phải chịu xấu chịu hổ đi mót mà anh làm gì dữ vậy, anh Hai?
               Hai Nhã nói nửa đùa nửa thiệt:
               - Mấy bà mà đi mót hả? Đi bêu rếu hợp tác xã thì có!
               Rồi ông im lặng làm theo ý của mình. Khi mẹ Tiến Hơn và vợ Bảy Diện ôm rạ lên bờ, ông thấy trong mỗi ôm rạ đều lòi ra một bó lúa chưa đập. Ông trừng mắt nhìn hai bà rồi nói:
               - Cái bồ nào “cố tình vô ý” để lúa đi lạc tới đây, tới mà lấy về.
               Nghe ông nói, thằng con của Sáu Đường cười một cách ngây thơ và nói:
               - A ha! Lúa mà biết đường đi lạc.
  

               15


               Gần nửa buổi gặt, đoàn cán bộ mà Hai Nhã gọi là “bá quan văn võ” mới tới. Tính theo thứ tự thì có: Năm Thân - bí thơ, Hai Thìn - trưởng ban Kiểm soát, Mười Su - phó Chủ nhiệm, Ba Thảnh – phụ trách cung tiêu và Côn - thủ kho lúa. Chỉ toàn cán bộ trong xã, không thấy ai ở thành phố, ở tỉnh, cũng chẳng thấy máy chụp hình, máy quay phim, chỉ thấy một bó bao đựng phân u-rê còn mới tinh và một cái cân tạ. Tội nghiệp cho sự chuẩn bị tiếp đón và mong đợi của Hai Nhã. Cũng tội nghiệp cho ông phải nghe những lời trách móc, xỏ xiên của những người vốn không ưa ông đương lao xao trên cánh đồng. Hai Nhã đưa mắt nhìn cánh đồng một lượt. Lúc này, không biết có phải từng bồ đương tranh nhau để đạt được nhiều diện tích thu hoạch, hay muốn làm mặt với “bá quan văn võ” mà họ không còn đem chuyện người khác ra nói hành nói tỏi để làm vui. Ai nấy đều cắm cúi làm việc trong im lặng. Cả đám con mót ngồi trên bờ cũng im lặng chờ đợi thời cơ thuận tiện để tấn công xuống ruộng đợt tiếp. Hai Nhã thấy bó bao và cái cân tạ bèn hỏi Mười Su:
               - Đi cân lúa ở đâu mà đem bao theo nhiều vậy?
               Mười Su cười cười không trả lời, đưa mắt nhìn Năm Thân:
               - Mình bắt đầu hội ý được chưa anh Thân?
               Năm Thân lại nhìn Hai Nhã, trả lời:
               - Tìm chỗ nào có bóng mát mình ngồi họp một chút đi đồng chí, một mình đồng chí thôi, để mấy anh em kia coi gặt.
               Hai Nhã thấy cả Năm Thân lẫn Mười Su đều nói lấp lửng. Ông cảm thấy có điều gì không ổn đương cựa quậy trong cái nhìn thăm dò của hai người hướng về phía ông. Phải chăng “tin thất thiệt” mà Chín Thiệp và Tiến Hơn đã cho ông biết hồi sáng sắp thành “tin thứ  thiệt”? Ông thắc mắc chẳng lẽ như vậy sao? Chẳng lẽ nhà nước phỉnh dân? Nếu dân không có miếng ăn, đói khổ, không còn sức lực để làm ra của cải thì nhà nước sống bằng gì? Không, ông không tin chuyện “mèo đẻ ra trứng đó”. Nếu “phái đoàn” chỉ có những người của ban quản trị, ban kiểm soát và bó bao cùng cái cân tạ kia thôi thì chuyện đó có thể xảy ra, nhưng theo một chiều hướng khác hợp lý hơn chớ không thể như tin đồn được, đàng này lại có cả Năm Thân nữa. Mỗi thắc mắc đó giống như những chân rạ mới gặt xong, đương đâm vô gan bàn chân của Hai Nhã, động đến trái tim khiến ông tê tê buốt buốt.. Ông muốn được giải thoát “cái đau” này càng sớm càng tốt, ông chỉ tay về phía cây me trên bờ ruộng ven xóm nói với Năm Thân:
               - Muốn mát thì mời tới góc me kia!

***

               Không còn hồ nghi gì nữa. Sự thực đã bày ra. Lúc đầu là toán du kịch xã, súng ống đình huỳnh, bước lên từ bến lội. Kế đó là toán bốc vác của hợp tác xã, toàn những thanh niên khỏe mạnh. Sự xuất hiện của những người này đã làm cho cánh đồng ngưng thở, mọi người ngưng hẳn công việc đương làm. Giờ phút này, Hai Nhã giống như người mắc xương gà, nuốt vô chẳng đặng nhả ra chẳng đừng. Chẳng ai hiểu rõ hoàn cảnh, tâm trạng xã viên trong đội hơn ông. Nhưng dù muốn dù không thì sự đã rồi! Ông không thể chống đối lệnh trên được. Trong buổi họp dưới gốc me, ông đã trình bày rõ tình hình phức tạp đương diễn biến trong buổi gặt đầu tiên này. Nó hoàn toàn không thuận lợi cho quyết định của trên. Ông đề nghị hoãn lại cái quyết định không đúng lúc kia tới ngày mai hay ngày kia càng tốt, để cho xã viên họ hưởng được thành quả lao động của họ  Nhưng Năm Thân nói: “Đây là nghĩa vụ của hợp tác xã đối với nhà nước, trước sau gì ta cũng phải hoàn thành. Hoàn thành sớm thì điểm thi đua của xã ta sẽ cao hơn các xã khác. Vả lại ta là hợp tác xã điểm, đồng chí nên nhớ vậy, không được quyền thua các xã phường khác”.

***

               Ba Trung và Tư Mẫn xuất hiện cùng với hai người lạ mặt, một người vai đeo máy chụp hình, một người tay xách cái cục sắt có hình thù lạ hoắc, hao hao giống cái “la-đô” có gắn ống dòm. À, cái máy quay phim! Một tiếng hô làm ra vẻ trang nghiêm nhưng cố tình trêu chọc phát ra từ cánh đồng:
               - Phái đ…o…à…n… tới! Tiếp theo là giọng nhại một khúc nhạc quân hành.
               Khi mọi người biết đó là hai anh phóng viên báo đài thì họ nhao nhao lên tiếng chọc ghẹo:
               - Mấy bà coi kia! Thằng đó nó vác “cái cục gì” mà đi không muốn nổi…
               - Còn phải hỏi. Vác con c… chớ vác gì.
               Lúc này, Hai Nhã không còn thiết tha tới chuyện chụp hình quay phim nữa. Và ông cũng không vồn vã lắm khi nhận cái bắt tay đầy nhiệt tình của hai anh phóng viên. Tư Mẫn niềm nở hỏi ông:
               - Đã chuẩn bị xong hết rồi chớ đồng chí Nhã:
               Ông ậm ừ rồi gật đầu. Thực ra ông chẳng biết mình phải làm gì cho phút giây quyết định sắp tới. Câu nói của Năm Thân còn in đậm trong trí ông: “Đây là nghĩa vụ của hợp tác xã đối với nhà nước…”.  Cầu trời đừng có chuyện rắc rối xảy ra trên cánh đồng này. Mọi chuyện đều êm đẹp hết thì rằm này con sẽ đem chè xôi tới đây cúng tạ trời đất, thần hoàng thổ địa, anh linh các chiến sĩ… Ông thầm khấn.
               Hai Nhã đứng giữa cánh đồng nói lớn:
               - Đề nghị bà con tạm nghỉ tay, tới đây họp một chút.
               Nhắc nhở, thúc giục, lôi kéo, mười lăm phút sau buổi họp mới bắt đầu dưới ánh nắng gay gắt đương dội xuống cánh đồng.
               Tư Mẫn, người chủ trì buổi họp, đứng lọt thỏm giữa vòng vây của xã viên. Ông nói thiệt to để át tiếng xầm  xì của mọi người:
               - Bà con chớ nghe lời tuyên truyền xuyên tạc của phản cách mạng muốn phá hoại hợp tác xã. Hợp tác xã không bao giờ phỉnh bà con. Ai nói hợp tác xã phỉnh bà con là phản động, bà con có hiểu không?
               Lúc này mọi người mới thiệt sự im lặng, chờ đợi và chăm chú nghe Tư Mẫn nói tiếp:
               - Tui nhơn danh chủ nhiệm hợp tác xã, xin thông báo cho bà con biết: Vì danh dự của xã nhà, một xã có truyền thống cách mạng từ thời chống Pháp tới giờ, một xã đã ba năm liền đứng đầu thành phố về chỉ tiêu lương thực giao nạp cho nhà nước, vì thế năm nay chúng ta không thể không sớm hoàn thành và hoàn thành vượt mực chỉ tiêu lương thực mà thành phố đã giao cho chúng ta. (Có tiếng than trời, tiếng í à làm gián đoạn lời nói của Tư Mẫn)… Hợp tác xã chúng ta là hợp tác xã điểm, xã chúng ta là lá cờ đầu của năm phong trào thi đua trong toàn thành phố. Vì vậy tôi kêu gọi bà con nêu cao tinh thần cách mạng, đóng góp nghĩa vụ lương thực cho nhà nước trước. Khi thu hoạch trà lúa tiếp theo, hợp tác xã sẽ tạm ứng ngay cho bà con. Bà con có thắc mắc gì không?
               Im lặng. Một thứ “im lặng đáng sợ” khiến Tư Mẫn hết sức ngạc nhiên, ngột ngạt. Ông lên tiếng:
               - Nếu bà con không có gì thắc mắc thì yêu cầu bà con trở lại công việc và chuẩn bị cho lúa lên ghe.
               Không ai đứng dậy và không ai lên tiếng trả lời sau câu nói của Tư Mẫn. Bà Hai-sinh-sự định mở miệng thì bị cái nguýt sắc như dao cau của bà Bảy-lò-rèn ngồi đối diện chặt dứt lời nói ngay từ cửa miệng. Tư Mẫn cảm thấy mình bị trói chặt giữa vòng vây bởi sự “im lặng đáng sợ” này và những cái nhìn thiếu thiện cảm của mọi người. Chưa bao giờ ông rơi vô tình thế này. Ông đâm ra lúng túng quay qua nói với Hai Nhã:
               - Đồng chí nói với bà con trở lại công việc đi chớ!
               Hai Nhã tới bên bà Bảy-lò-rèn nói:
               - Chị Bảy, ông chủ nhiệm đã hứa vậy thì bà con mình hãy vui lòng làm tròn nghĩa vụ đi cái đã.
               Lời nói của Hai Nhã vô tình khai thông sự uất ức trong lòng bà Bảy-lò-rèn. Bà to tiếng:
               - Tụi tui làm ra hột lúa thì để cho tụi tui hưởng cái đã chớ. Tui hỏi mấy ông nhà nước có tay lấm chưn bùn, đổ mồ hôi sôi nước mắt dưới ruộng đâu mà đòi ăn trên ngồi trước. Bộ mấy ổng ăn trên ngồi trước quen rồi hay sao mà muốn gì được nấy. Mấy ông cứ hứa cái này tới hứa cái khác. Hứa… hứa… lộn, hứa… lèo, coi tụi tui giống như con nít, nên tụi tui không tin nữa.
               Hai Nhã không ngờ bà Bảy-lò-rèn lại ăn nói thẳng thừng như vậy. Ông vội cắt ngang:
               - Chị Bảy, chị nhớ là chị đương nói chuyện với…
               Hai Nhã nói chưa dứt câu, thấy Ba Trung ra hiệu cứ để cho bà Bảy nói tiếp, ông im lặng. Bà Bảy-lò-rèn được trớn nói hăng thêm:
               - Chú Hai dừng dạy khôn tui. Tui biết tui đương nói chuyện với ai, với cấp nào lắm chớ. Các ông tự xưng là cách mệnh, lúc nào cũng bô bô nói lo cho dân nhưng tay thì lẹ làng thò vô túi của nhơn dân. Tui nghe các ông nói “nhơn dân làm chủ chánh quyền”, nhưng trái lại thì “chánh quyền làm chủ túi tiền của dân”. Trúng quá đi chớ! Nếu nói tui nói sai thì các ông thử trả lời cho tui biết tại sao tụi tui làm mà không cho tụi tui hưởng trước? Mấy ông nói bọn địa chủ phong kiến ác ôn, nhưng người dân làm rẽ ruộng cho họ, tới mùa gặt còn được thấy hột lúa ở nhà mình trước kia mà. Tui nói nôm na bao nhiêu đó thôi.
               Ba Trung đã quen tánh của những bà “mẹ phong trào” nên dễ thông cảm trước những lời nói thẳng như tát nước vô mặt của bà Bảy. Anh ta vừa cười, vừa nói để cho bà Bảy thấy rằng anh không hề ghim gút trong lòng những lời nói kia:
               - Bác Bảy nói hết rồi phải không? Bác nói “chánh quyền làm chủ túi tiền của dân” thì con hỏi bác chánh quyền và dân ở đây là ai? Có phải là con với bác, với má con, với bà con cô bác ở đây? Nếu đúng vậy, thì con chưa móc túi ai bao giờ. Còn bác và bà con ở đây nói hợp tác xã đã phỉnh dân, bắt bà con làm cho tới khi cây già trái chín mà không cho hưởng cái gì hết, thì chính con là người đầu tiên phản đối chuyện này chớ không phải là bác hay bà con ở đây. Còn chuyện giao nạp lương thực cho nhà nước trước thì ta phải làm theo yêu cầu ở trên và đương nhiên phải làm vì đây là nghĩa vụ. Đồng chí chủ nhiệm đã hứa khi thu hoạch trà lúa tiếp theo sẽ tạm ứng cho bà con thì chắc chắn phải làm đúng như vậy chớ không thể hứa lèo được.
               Ba Trung cười, quay sang Tư Mẫn nói:
               - Nếu đồng chí hứa lèo thì nhân danh chánh quyền, tui bắt hợp tác xã phải ứng lúa cho bà con ngay chớ không được nói một hai gì nữa hết.
               Hai Nhã thấy trên khuôn mặt mọi người đã tan đi dòng máu nóng, nhìn thấy dễ chịu hơn. Ông nói với bà Bảy-lò-rèn nhưng cốt để mọi người cùng nghe:
               - Chú Trung nói vậy chị nghe lọt tai chưa? Tui đã nói không có chuyện “mèo đẻ ra trứng” đó đâu, mà chị đâu thèm nghe, cứ đòi đấu tranh cho được, làm như thời trước không bằng.
               Bà Bảy-lò-rèn mắng lại:
               - Thôi, nín đi ông đội. Ông cứ làm như người hay. Nếu ai cũng như ông không dám đấu tranh để cho họ ăn quen cứ đè lên đầu lên cổ mình thì chịu sao nổi.
               Hai Nhã nói để chọc tức:
               - Nói tội vong hồn anh Bảy, chớ tui thấy trừ anh Bảy ra, xưa nay có ai dám đè chị đâu.
               - Lảng xẹt! Cái miệng như ống nhổ lâu ngày. Bà Bảy-lò-rèn mắng Hai Nhã xong, thúc những người trong tổ: - Thôi, đi làm bà con ơi! Trù trừ miết, không khéo đỏ đèn cũng chưa về tới nhà.

***

               Chuyện đưa lúa về hợp tác xã để chuẩn bị giao lương cho thành phố tưởng giải quyết như vậy là êm xuôi, nhưng khi tổ bốc vác bắt đầu chuyển lúa của bồ bà Hai-sinh-sự thì bị chận lại. Bà Hai-sinh-sự ngang nhiên ngồi trên bao lúa, chỉ thẳng tay vô mặt anh tổ trưởng bốc vác:
               - Tao biểu mày để yên đó, mó vô là sanh chuyện đó nghe!
               Anh tổ trưởng cười giả lả:
               - Đừng giỡn chớ “mẹ chiến sĩ”!
               - Thì mày cứ thử rờ vô đi.
               Anh tổ trưởng tưởng bà nói đùa, đưa chân đạp mạnh bao lúa cùng lúc năm lấy tay bà kéo ra. Sẵn cái câu liêm đương cầm trong tay, bà Hai-sinh-sự phát ngang mặt anh tổ trưởng.
               - Mày tưởng “bà” giỡn mặt với mày hả?
               May cho anh tổ trưởng né kịp lằn câu liêm. Anh hoàn hồn, tức giận chưỡi thề:
               - Đ. mẹ, bà ngon phải không?
               Bà Hai-sinh-sự bước sấn tới, giang hai chân, một tay chống nạnh, tay kia vẫn lăm lăm chiếc câu liêm:
               - Mày đ. mẹ ai ở đây?
               Thấy điệu bộ của bà Hai-sinh-sự như chực ăn sống nuốt tươi mình, anh thanh niên vội bỏ đi về phía đăt giàn cân lúa, nói lớn:
               - Mấy ông đội ơi! Bồ kia không cho chuyển lúa.
               Vợ Bảy Quéo nói với những người trong bồ:
               - Mình cứ giữ lúa lại coi thử chúng làm gì.
               Bà Hai-sinh-sự không buông tha cho anh tổ trưởng:
               - Để tao hỏi thằng này cho ra lẽ…
               Lúc này, Hai Nhã từ chỗ cân lúa đã tới kịp thời.
               - Cái gì mà la lối um sùm vậy?
               Bà Hai-sinh-sự vẫn vin vô câu chửi thề của anh tổ trưởng mà bù lu bù loa, la oang oang cả cánh đồng. Hai Nhã thừa biết lòng dạ của bà này từ chuyện ít muốn xít cho nhiều. Từ sáng tới giờ bà đã tức, đã giận đến cành hông mà chưa có cớ gì nói cho hả dạ. Từ chuyện chuồn lúa cho bà Bảy Diện và mẹ Tiến Hơn, tới chuyện bà và vợ Bảy Quéo thông đồng lấy lúa hột đựng đầy trong túi áo “trây-di”, ấm nước, lon “gui-gô” bới cơm ăn trưa, tưởng qua mặt được ông, ai ngờ bị ông lật tẩy. Bây giờ bà phản ứng lại bằng cách giận cá chém thớt.
               Hai Nhã trợn mắt nhìn bà:
               - Tui hỏi chị, ai dám không cho hợp tác xã vác lúa, lên tiếng đi!
               Bà Hai-sinh-sự vỗ ngực nói:
               - Con này đây! Mày làm thịt tao hả?
               - Chị xách động bà con phải không?
               - Tao không “xách” không “động” ai hết. Lúa của dân làm ra, chưa ai xách về nhà hột nào, cán bộ lại quảy đi hết. Ông là ông đội, đã thề thốt đội cần xã viên, xã viên cần đội, sao bây giờ lại bỏ bà con tui? Ông nói thử coi?
               - Ông chủ nhiệm đã giải thích cặn kẽ rồi, bà còn lải nhải gì nữa?
               - Tui nói cho thấu tai thiên đình thôi.
               Đã tới lúc bà Hai-sinh-sự muốn “sinh sự”. Những lúc thế này, người trong xóm trong làng nghĩ bà bị cốt đồng nhập, quang quác đủ thứ chuyện không ăn nhập gì nhau, nghe rất vô lý và chói tai khiến mọi người xung quanh vừa tức, vừa cười. Bà giả tỉnh, giả điên ngồi lên những bao lúa chất đống, tru tréo:
               - Trời ơi! Ông làng ông xã cướp công của tao, cho chồng con tao chết đói, ông trời ngó xuống mà coi!
               Hai Nhã tức giận, nắm hai tay bà kéo đi. Bà trì lại, nhảy đành đạch như một con vịt bị cắt tiết.
               - Mày muốn cướp lúa của tao, sẵn thịt tao đây, mày ăn luôn đi.
               Hai Nhã không ngờ mình đã rước họa vào thân. Ông cầu cứu Ba Trung:
               - Trung, mày có cách nào khoá miệng bả lại không?
               - Chú cho mọi người trở lại công việc đi. Cử để một mình bả ở đó.
               Ba Trung tới bên bà Hai-sinh-sự nói một cách nhỏ nhẹ:
               - Thím Hai, thím có chịu im và để cho người ta vác lúa về kho không?
               - Mày là ông gì mà nói với tao câu đó? Có ông trời xuống đây tao cũng cứ nói, cứ ngồi lì ở đây. Dân “làm chủ” mà không được no, còn “đầy tớ” thì ú ù như con heo…
               - Thím nói thêm một tiếng nữa, tui cho du kích bắt trói đem về xã bây giờ. Đừng có giả mù sa mưa.
               Hai Nhã đưa mắt nhìn Ba Trung, vội can:
               - Trời ơi, mày làm vậy coi sao được?
               Ba Trung giận ra mặt, nạt lớn:
               - Việc gì cũng có mức độ thôi chớ. Không thể để bả muốn làm gì thì làm, chửi bới lung tung như vậy được. Du kích đâu?
               Vợ Bảy Quéo, người lợi dụng tính đồng bóng của bà Hai-sinh-sự, đã xúi bà ngồi cản đồng lúa, thấy thái độ cương quyết của Ba Trung, vội chạy tới nói:
               - Xin ông chủ tịch thông cảm. Tính bả xưa nay là vậy, ông chủ tịch cũng đừng chấp nê chi, tội nghiệp!
               Rồi chị ta tới bên bà Hai-sinh-sự giả đò khuyên lơn:
               - Thôi chị Hai. Chị đừng nói động tới mấy ổng không khéo mang họa vào thân. Đứng dậy đi. - Chị ta lại nói nhỏ vô tai bà Hai: - Ông chủ tịch xã đó, chị không biết ổng hả? Coi chừng ổng cho du kích bắt thiệt chớ hổng phải giỡn đâu. Chuồn lẹ đi.
               Vợ Bảy Quéo đỡ bà Hai-sinh-sự đứng dậy. Bà vừa đi một cách thiểu não, vừa lẩm bẩm trong miệng:
               - Tao không ngán thằng nào hết. Nó giỏi trói tao thử coi. Từ xưa tới nay chưa có đứa nào sợ con này mà…

***

               Sự kiện xảy ra trên cánh đồng Vườn Bí trong ngày hôm nay đã được ghi lại trong quyển sổ TAC3T của Đoàn Bê. Đoạn cuối như sau: “Chủ tich xã có hành động hiếp đáp quần chúng, hắn ra lệnh cho du kích bắt trói xã viên Nguyễn Thị Hai, tục gọi là bà Hai-sinh-sự, khi bà này đã mạnh dạn đứng lên tranh đấu đòi quyền lợi chánh đáng của tập thể xã viên đội Bốn. Nếu không có chị Bảy Quéo cùng một số xã viên chơn chánh khác, mạnh dạn đấu tranh bảo vệ bà Hai thì chắc chắn bà này sẽ bị đưa về xã nhốt vì tội phản động mà chủ tịch xã đã chụp mũ”.
  
***

               Ba ngày sau. Vào tối thứ bảy, đài truyền hình đã chiếu trong chương trình thời sự một đoạn phim dài chừng mười phút, giới thiệu những nét đại cương về việc thành lập hợp tác xã điểm Phước Chung cùng những kết qua bước đầu đáng phấn khởi. Trên màn ảnh, chủ nhiệm Tư Mẫn đứng giữa canh đồng đương thu hoạch, bên cạnh chiếc bồ đập lúa, tay ôm một bó lúa trĩu hạt, miệng trả lời những câu phỏng vấn. Qua những câu trả lời, Tư Mẫn đã chứng minh cho mọi người thấy tính ưu việt của “xã hội chủ nghĩa” trong phương thức tập thể hóa nông thôn. Tiếp theo đo là cảnh đoàn xe giao lương chở những bao lúa căng tròn, chạy vun vút trên một đoạn đường làng mà không ai nhận ra là ở đâu.
               Khi coi xong đoạn phim thời sự này ở nhà Tư Mẫn, Ba Trung bật cười hỏi Tư Mẫn:
               - Đồng chí hài lòng chớ?
               Tư Mẫn biết Ba Trung hỏi xách mé, và chính bản thân ông cũng không ngờ nhà đài “ráp nối” tài tình đến như vậy. Ông trả lời:
               - Tôi không ngờ mấy cha đó “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Nhưng nghĩ cho cùng thì cũng có lợi cho phong trào chung, nhứt là trong thời điểm này.
               Ba Trung nói nửa đùa nửa thiệt:
               - Đồng chí có nghĩ mình đương làm xiếc trên dây trong lúc tình hình hợp tác xã của ta chưa được ổn định hoàn toàn không?
               - Nhưng ở trên muốn vậy thì đồng chí phải làm sao?
               Ba Trung cũng chưa tìm ra câu trả lời cho chính mình khi ở trên muốn vậy. Anh nói:
               - Tui nghĩ chúng ta phải thận trọng hơn khi tiếp xúc với mấy ông ở đài, ở báo. Đừng để “cái tiếng” nó át đi “cái miếng” đồng chí ạ.







   (1) Johnny Walker: một loại rượu mạnh của Mỹ.

(2) Tên gọi hai trại tù do Việt Cộng thiết lập ngay sau 75 ở trong tỉnh Phú Khánh.
(3) Nơi chuyên sống về nghề nuôi heo, nấu rượu nổi tiếng ở Nha Trang của đồng bào miền Bắc di cư năm 1954.