PHẦN BA
ĐỨNG
MŨI CHỊU SÀO
1
Sau Tết, sương muối làm rụng những
bông xoài. Mọi người mừng thầm vì được mùa chua thì thua mùa lúa, và ngược lại.
Hợp tác xã mùa này trúng lớn. Trúng được là nhờ toàn bộ ruộng sình đều cấy
giống lúa 732. Có đám tính ra năng suất đạt tới năm tấn trên một hecta. Lúa
ngoài đồng đã gặt xong, đương cày bỏ ải. Lúa nghĩa vụ cho nhà nước đã hoàn
thành và hoàn thành vượt chỉ tiêu giao. Lúa công điểm của xã viên trong phương
án ăn chia vụ này tạm thời tính bốn ký lúa khô một công. Ai nấy đều mở cờ trong
bụng chuẩn bị đại hội sơ kết đồng thời bầu Ban quản trị và ban Kiểm soát nhiệm
kỳ II vào ngày mai.
Hợp tác xã chưa có hội trường. Hai
kỳ đại hội xã viên đã qua đều được tổ chức nơi gian giữa của đình làng. Cái bệ
thờ thần đình xây bằng gạch vẫn còn giữ nguyên làm bàn thờ di ảnh ông Hồ Chí
Minh. Trên mái đình có thêm những ổ chim sẻ vì sân đình đã sửa thành sân phơi
và cạnh đó là nhà kho - mới xây năm ngoái - chứa đầy lúa.
Mấy cán bộ trẻ của hợp tác xã làm
công việc trang trí hội trường đã về hết. Giờ này chỉ còn Tư Mẫn và Ba Trung
cùng những con chim sẻ đùa giỡn trên mái đình. Hai người muốn trao đổi với nhau
một số vấn đề liên quan tới việc bầu bán ngày mai.
Nhơn sự đưa vô danh sách ứng cử ban Quản
trị và ban Kiểm soát miết tới trưa nay chi bộ mới thống nhứt lần cuối cùng. Phe
Bảy Diện muốn đưa Đoàn Bê vô ban Quản trị, đồng thời đưa Thái Ngươn - người có
công phát hiện vụ thằng Khả, thủ kho vật tư, đã tuồn một trăm ký phân urê bán
cho con buôn trên đường chở về hợp tác xã - thay Hai Thìn. Bảy Diện đã không sử
dụng Ba Thảnh ngay từ khi ông về làm bí thơ chi bộ xã này. Ông biết Ba Thảnh có
tham gia kháng chiến chín năm rồi bỏ về thành. Trong thời gian từ năm 1966 tới
năm 1972 làm sở Mỹ - tin này do Tiến Hơn cung cấp - nên cất được căn nhà theo
kiểu vila to nhứt làng Phước Châu. Đồ dùng trong nhà từ đôi đũa tới bộ xa-lông
hầu hết là đồ của đế quốc Mỹ. Lại là đảng viên đảng Dân chủ của Thiệu, vậy mà
sau 75, Ba Thảnh đùng một cái nhảy lên chức chủ tịch Ủy ban quân quản xã, làm
khó dễ không biết bao nhiêu thanh niên xin xác nhận lý lịch đi làm hoặc thi vô
các trường chuyên nghiệp, trường đại học. Trong số những nạn nhơn của Ba Thảnh
có cả thân nhơn của ông. May mà ông có “tinh
thần cảnh giác cách mạng cao độ” nên sớm loại tên này ra khỏi chánh quyền
cách mệnh. Nhưng tới khi ông đi học thì chính tay Tư Mẫn lại đưa tên “phản bội”
này vô hàng ngũ cách mệnh. Bảy Diện nói một cách hùng hồn trước chi bộ rằng:
“Vì muốn bảo vệ Đảng, bảo vệ chánh quyền cách mệnh nên tôi yêu cầu các đồng chí
phải đuổi cổ những tên sâu bọ này ra khỏi mọi tổ chức của cách mệnh”. Tư Mẫn
lại bảo vệ Ba Thảnh tới cùng. Ông không nhắc gì tới quá khứ của Ba Thảnh, chỉ
nói: “Đặt trường hợp các đồng chí sống trong vùng địch tạm chiến, các đồng chí
cũng có thể rơi vô số phận như Ba Thảnh. Ba Thảnh không phải là người có nợ máu
với nhơn dân như Bảy Diện gán ghép. Nếu có nợ máu với nhân dân tại sao trong
thời gian đồng chí làm bí thơ không đưa anh ta đi học tập cải tạo? Đồng chí
Diện và ông Bê hạch tui tại sao sử dụng Ba Thảnh? Nhiều lần tui đã trả lời rõ
trước chi bộ vấn đề này rồi. Tui không lập lại thêm mất thì giờ vô ích. Tui chỉ
nói chuyện hiện tại. Các đồng chí đều phải công nhận là chính Ba Thảnh đã biết
đưa năng suất của hợp tác xã ngày một cao, giá trị ngày công của xã viên ngày
một tăng, đời sống của xã viên ngày một ổn định. Chính Ba Thảnh đã góp công lớn
trong việc hợp tác xã đạt được bằng khen của Hội đồng Bộ trưởng trong năm rồi
và ở trên đương đề nghị Hội đồng Nhà
nước xét thưởng cho hợp tác xã huân chương lao động hạng ba trong năm nay. Hợp
tác xã cần anh ta”. Đoàn Bê lên tiếng: “Tui thấy ông Mẫn - Đoàn Bê không thèm gọi Tư Mẫn là đồng chí từ ngày xảy ra
“vụ xi-măng” - lúc nào cũng tôn thờ chủ nghĩa cá nhơn. Những thành tích mà hợp
tác xã đã đạt được không do công một cá nhơn nào hết. Tất cả là do sự lãnh đạo
sang suốt của Đảng, cụ thể là chi bộ này. Nếu không có Đảng lãnh đạo thì làm
sao có bằng khen, có huân chương nay mai, có lúa, có gạo… Vừa rồi, chúng ta đã
học tập và quán triệt nghị quyết của trung ương nói về việc cần tăng cường hơn
nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào hợp tác hóa nông thôn. Chắc ông Mẫn
cũng quán triệt sâu sắc như tui, như các đồng chí chớ?” Tư Mẫn đã phản đối: “Tăng
cường sự lãnh đạo chớ không phải tăng cường nhơn sự. Nếu Đảng lãnh đạo mà không
có con người cụ thể thì chẳng khác gì ông chủ nhà đưa ra những món ăn mà chẳng
có ai đi chợ và biết nấu nướng. Ta cần người giỏi nấu chớ không cần người giỏi
ăn”.
Ba Trung và Tư Mẫn đều nhận thấy phe
của Bảy Diện nổi lên giành quyền lợi chỉ trong vòng nữa tháng nay, bắt đầu từ
khi Năm Thân đột ngột được thành phố rút về làm giám đốc Công ty Vật tư nông
nghiệp. Ghế bí thơ, tạm thời do Ba Trung kiêm nhiệm. Anh biết tình hình đoàn
kết trong chi bộ sẽ lại xấu như trước kia nếu anh không bình tĩnh, cương quyết
và khôn ngoan như Năm Thân. Anh đánh giá được uy tín của Đoàn Bê đối với xã viên. Về anh chàng Thái Ngươn là “gà
nhà” của Bảy Diện thì miễn bàn. Nghề chính của anh ta là thợ hồ. Khi hết việc
thợ hồ thì anh mới chịu ra đồng. Đối với Bảy Diện, hễ là cán bộ cách mệnh thì
phải có lý lịch trong sạch. Còn như Hai Thìn, người mà ông cho rằng chỉ biết
dựa vô hợp tác xã để lãnh lúa chớ không biết làm gì trong quyền hạn của một
trưởng ban Kiểm soát, để cho tay Tư Mẫn xỏ mũi lôi đi. Nhưng trong thâm ý của
Bảy Diện là muốn loại Tiến Hơn, người được đề cử vô ban Kiểm soát. Ông nghi rằng
chính Tiến Hơn đã đâm thọc với mấy ảnh ở
trển buộc ông phải đưa toàn bộ ruộng vô hợp tác xã, nếu không chấp hành thì
ở trên không giải quyết cho ông lấy
lại thửa ruộng hương hỏa. Ai cũng biết cậu ruột của Tiến Hơn hiện thời là ủy
viên thường vụ thành ủy. Mối quan hệ giữa Bảy Diện và Tiến Hơn “có vấn đề” từ
đó mà ra. Cuối cùng, Ba Trung cũng nhượng bộ yêu sách của phe Bảy Diện, nếu anh
làm căng quá thì không có lợi trong tình thế hiện thời. Anh ta tin rằng xã viên
sẽ sáng suốt chọn người thay họ điều hành hợp tác xã. Nhưng Tư Mẫn thì không
hài lòng về sự nhượng bộ của Ba Trung. Tư Mẫn lý luận việc đưa Đoàn Bê từ danh
sách ứng cử ban kiểm soát qua danh sách ứng cử ban quản trị chắc chắn có lệnh
miệng của ai đó ở trên. Còn trường
hợp của Thái Ngươn thì ông không quan tâm. Chẳng ai bầu cho anh chân trong chân
ngoài hợp tác xã.
Ba Trung hỏi Tư Mẫn:
- Đồng chí có nghĩ rằng Hai Thìn
hoặc Ba Thảnh sẽ rớt trong kỳ bầu cử này không?
Tư Mẫn trả lời với giọng đầy tự tin:
- Không thể nào xảy ra trường hợp
đó.
- Đồng chí có chủ quan không?
Tư Mẫn cười, trả lời:
- Đồng chí nhớ câu: đi với bụt mặc
áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy chớ?
- Như vậy liệu có vi phạm quyền dân
chủ của xã viên không?
- Đồng chí đừng lo… Dân chủ cũng
phải có sự lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc là vậy mà. Ngay cả việc chọn nhơn sự
vô danh sách ứng cử mỗi ban khi được cấp ủy giao, tui cũng tính toán kỹ để đạt
được kết quả tốt rồi. Bây giờ tình huống có thay đổi chút ít, tui nghĩ cũng
không sao.
- Chớ sao sang nay đồng chí lại tỏ
vẻ bực tức khi tui chấp thuận đề nghị của Bảy Diện.
- Cá nhơn tui với Bảy Diện và thằng
Bê ra sao thì đồng chí biết rồi, còn hỏi han gì nữa. Thâm ý của họ là muốn loại
tui chớ hổng phải loại Ba Thảnh hoặc Hai Thìn đâu…
Những con chim sẻ không còn đùa giỡn
trên mái đình. Cụm loa truyền thanh trên nóc nhà kho đương phát một bài ca ngợi
cách làm ăn của hợp tác xã Phước Chung. Ba Trung chuẩn bị ra về thì thấy ông
Hiển, trưởng ban Cải tạo Nông nghiệp thành phố, hối hả đạp xe tới.
- Hên quá! Gặp cả hai đồng chí ở
đây.
Ông Hiển bắt tay Ba Trung và Tư Mẫn.
Ba Trung hỏi:
- Có việc gì gấp lắm sao mà phải đi
giờ này, đồng chí?
Ông Hiển vô đề ngay:
- Tui muốn báo cho các đồng chí biết
hai vấn đề. Hồi năm giờ chiều nay, tui nhận được điện thoại của một vị ở thành
ủy hỏi tại sao trong danh sách ứng cử ban quản trị không có tên Đoàn Bê. Tui đã
trả lời: “Đồng chí an tâm, tui vừa nhận được báo cáo mới nhứt của ủy ban xã
Phước Chung. Đoàn Bê đã được đưa vô danh sách bầu cử ban quản trị vào ngày mai
rồi”. Vị ở thành ủy đó sung sướng nói qua điện thoại: “Tôi thấy thằng đó có khả
năng đấy. Mặc dù nó có sai lầm chút đỉnh trước kia, nhưng đã được phục hồi Đảng
tịch. Vì danh dự và uy tín của Đảng, các đồng chí phải tạo điều kiện cho nó
phát huy tốt khả năng”. Đó là vấn đề thứ nhứt. Vấn đề thứ hai xin báo với các
đồng chí chuẩn bị đón đoàn thanh tra nông nghiệp của thành phố về làm việc với
hợp tác xã ta bắt đầu từ ngày mai…
Ba Trung và Tư Mẫn đều hết sức ngạc nhiên về “vấn đề thứ hai”, mặc
dầu cả hai đều biết tỉnh đã có chủ trương thành lập các đoàn thanh tra nông
nghiệp ở các huyện, thị và thành phố trực thuộc với mục đích kiểm tra việc thực
hiện chánh sách ruộng đất và phong tráo hợp tác hóa ở các địa phương. Tư Mẫn
hỏi:
- Sao họ tới đột ngột vậy?
Nói vừa xong, ông ta cảm thấy mình
hỏi như vậy là ngớ ngẩn, bèn hỏi tiếp:
- Đoàn có mấy người, đồng chí Hiển?
- Bảy người, kể cả tui. Trong danh
sách là vậy. Nhưng thực tế tui cũng vừa nhận được lệnh triệu tập sáng ngày mai
phải có mặt ở Ủy ban nhân dân tỉnh để chuẩn bị tháp tùng phái đoàn đi tham quan
và học tập các hợp tác xã tiên tiến ngoài Bắc. Không dự đại hội với các đồng
chí được kể cũng tiếc. Đồng chí Minh, phó ban sẽ thay tui. Tui mong việc bầu cử
sẽ diễn ra tốt đẹp.
Tư Mẫn chép chép miệng nói:
- Chà, lạ quá! Từ chuyện Đoàn Bê,
tới đoàn thanh tra đột xuất, tới việc đồng chí đi tham quan. Chuyện gì cũng đột
xuất và khẩn trương hết. Tui có cảm tưởng chúng ta đương còn ở trong thời kỳ
đánh Mỹ chớ chưa hẳn là thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nói vừa xong, Tư Mẫn cười sằng sặc.
Ba Trung lên tiếng:
- Đã nói là thanh tra thì ai mà báo trước
để anh chuẩn bị đối phó. Tui nghĩ ngày mai họ tới là tiện. Khi đó chúng ta mời
họ dự đại hội xã viên luôn.
Bỗng nhiên, cụm loa truyền thanh xã
phát ra một ra một tràng liền:
- … Sở dĩ hợp tác xã Phước Chung đạt
được những thành tích nêu trên là nhờ sự lãnh đạo của thành ủy ủy ban nhân dân
thành phố và sự quan tâm giúp đỡ của các ban ngành trong thành phố và trên hết
là sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ và chính quyền địa phương cùng sự quyết
tâm của toàn thể cán bộ và xã viên nỗ lực phấn đấu xây dựng một nông thôn mới
ngày càng giàu đẹp hơn tạo nền móng vững chắc cho công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa xã hội…
“Thuyền trưởng” thông báo:
2
Đoàn Bê không thuyết phục được Bảy
Diện cùng đi dự tiệc chiêu đãi ông Sơ, phó đoàn thanh tra và ông Phấn - người
mà theo lời giới thiệu của ông Sơ là “lâu năm trong nghề thanh tra” ở Lầu Bốn -
tên gọi nôm na nhà hàng quốc doanh lớn nhứt thành phố. Ý Bảy Diện muốn làm cao,
ông ta nói: ai muốn tới nhà tui thì tới, tui không tới với ai hết. Đoàn Bê cho
biết: “Đầu tiên, anh em định đãi các vị ấy ở nhà anh, sau bàn đi tính lại thì
sợ phiền chị”. Bảy Diện tự nhắc nhở mình phải tránh tiếng với dư luận, nhứt là
trong tình hình hiện tại.
Địa điểm buổi chiêu đãi này lại thay
đổi vào phút chót, khi mọi người đều có mặt dưới chân Lầu Bốn thì ông Sơ đề
nghị nên đi chỗ khác kín đáo hơn. Ở đây, dân nhậu phần lớn toàn là những quan
chức ở thành phố, không tiện lắm. Tiến Hơn gợi ý tới quán gỏi cá ở đầu cầu Bà
Rá. Mọi người đồng ý, phóng xe đi liền.
Bàn tiệc năm người, vì bên chủ có thêm
thằng Khả, anh cán bộ cung tiêu bị “cho thôi việc”, nhưng nó được coi là “chủ
xị” của bữa tiệc này. Nó nhường chai Mạc-ten mua ở chợ trời cho ông Sơ khui và
huyên hoang nói:
- Theo cháu biết, Liên Xô người ta
dùng Mạc-ten để hạ thủy một chiếc thuyền. Người thuyền trưởng được vinh dự khui
chai rượu đó. Hôm nay, cháu xin nhường cái vinh dự đó cho chú.
Tiến Hơn bắt bẻ:
- Trật lất! Người ta khui sâm-banh
chớ hổng phải khui Mạc-ten, mày ơi!
Đoàn Bê nôn nóng:
- Thì rượu nào cũng là rượu. “Thuyền
trưởng” cho tàu chạy đi!
Ông Sơ nhìn chai rượu trước mặt, nói
bằng giọng khiêm tốn:
- Khi không các đồng chí phong tôi
làm “thuyền trưởng”, chẳng biết mình có xứng đáng với nhiệm vụ được giao không,
chẳng biết thuyền ra khơi có được thuận buồm xuôi gió không. Nhưng mình vì mọi
người, tôi xin nhận lãnh trách nhiệm.
Đoàn Bê lên tiếng:
- Đồng chí đừng lo, có tụi tui hỗ
trợ tới cùng.
Kế tiếp là tiếng cụng ly lách cách
biểu lộ tình cảm phấn khởi của mọi người. Đoàn Bê - Ực. Im lặng. “Thuyền trưởng” - Ực.
Tiến Hơn và Khả - Ực - Ực. Cả hai đều im lặng. Nhưng khi con
người “lâu năm trong nghề thanh tra” ực
xong liền phun ra ngay và mặt mày cau có, nói:
- Rượu dỏm. Mấy cha không nhận ra à?
- Tôi đang nghĩ thế. - Tui cũng đoán
thế. - Tui cũng vậy.
Chỉ có Khả không nghĩ, không đoán
vậy thôi. Anh ta đương rịn mồ hôi mép. Vậy là mất tiêu một phần của chiếc xe
đạp! Khả đã cầm chiếc xe đạp sườn nhôm để có tiền đãi bữa tiệc hôm nay. Ý đồ
của anh ta là “thả con tép bắt con tôm”…
Ông Phấn lên tiếng:
- Gọi rượu đế uống cho nó “dân tộc
tính” hơn. Còn cái chai này để tớ mang về cho bà xã đựng nước mắm.
Khả tính ngày mai xách chai rượu trả
lại cho con mẹ chợ trời, mắng cho nó một trận và đòi tiền lại, nhưng nghe ông
Phấn nói vậy, hắn nghĩ không lẽ vì tiếc của mà bỏ dở muc đích. Đã lỡ mang tiếng
“chịu chơi” thì chớ nên “chơi chịu”.
Mọi người vừa ăn, vừa uống, vừa lái
“con thuyền” ra khơi. “Thuyền trưởng” hỏi:
- Lâu nay các đồng chí có nắm cái gì
thêm về mấy tay đó không?
Đoàn Bê nhanh nhảu trả lời:
- Nhiều, nhiều lắm. Tụi nó ngày càng
lộng quyền, coi mọi ý kiến phê bình xây dựng của chi bộ hổng ra gì. Quần chúng
nhơn dân kêu ca om trời. Các đồng chí về đây, nhơn dân sẽ vô cùng phấn khởi. Họ
càng tin tưởng sự lãnh đạo sáng suốt của giai cấp “công dân” chúng ta.
Khả xía vô, tâng bốc Đoàn Bê:
- Cháu quên giới thiệu với hai chú.
- Anh ta đứng dậy, đưa bàn tay trước mặt Đoàn Bê nói bằng giọng của người giới
thiệu chương trình:
- Đây, chúng tôi xin giới thiệu với
liệt vị, chủ nhiệm tương lai của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp Phước Chung.
Tiến Hơn thấy khó chịu hành động lố
lăng của Khả. Anh ta biết Khả đương ôm chân Đoàn Bê để nhảy vô lại chức vụ cán
bộ phụ trách cung tiêu. Anh ta đưa tay ấn vai Khả ngồi xuống.
- Kết quả bầu cử đương nằm trong
thùng phiếu. Chú Bê sẽ là chủ nhiệm vào năm hai ngàn. Chúng ta cụng ly chúc mừng
chú Bê, chủ nhiệm năm hai ngàn.
Đoàn Bê chưa kịp đu theo chiếc bong
bóng vượt thời gian, đã bị Tiến Hơn chơi xỏ, lấy kim đâm lủng. Ông ta ức lắm,
nhưng phải cố dằn lòng, vì Tiến Hơn nhận định tình hình cũng trúng. Trong giai
đoạn này, ông không thể nào đánh bật Tư Mẫn được. Bầu chủ nhiệm là do xã viên
chọn trực tiếp trên phiếu bầu, mà uy tín của ông còn yếu. Ông có đạt được mục
tiêu hay không, chỉ khi nào thành công trong cuộc đấu tranh này. Muốn thành
công lại phải cùng hợp tác với Tiến Hơn. Mà Tiến Hơn là linh hồn của cuộc đấu
tranh. Ta tạm thời đi với hắn. Đoàn
Bê đã chủ trương như vậy. Ông nuốt giận và lên giọng kẻ cả:
- Không cần cụng ly vội. Tui nói
thiệt với các đồng chí, tui chả ham chức chủ nhiệm, chủ tịch gì đâu. Làm chủ
nhiệm như thằng Tư Mẫn hoặc chủ tịch như thằng “đeo kính trắng, đóng thùng” để
quần chúng nhơn dân rủa cho thì làm đếch gì. Tui đây, Đoàn Bê đây, đi theo cách
mệnh từ hồi tóc còn để chỏm cho tới giờ đã muối tiêu, gian nan nhiều, oan ức
nhiều, nhưng suốt đời vẫn trung thành với giai cấp của “công dân” của mình.
Suốt đời được phuc vụ nhơn dân là sung sướng rồi, tui chả cần làm ông này ông
nọ gì hết. Ông bà ta đã nói: huyện mãn chớ nha môn không mãn kia mà!
Ông Phấn nói hùa theo:
- Đồng chí Bê nói đúng. Đúng một
trăm phần trăm. Ta vì hạnh phúc của nhân dân mà phục vụ thôi!
“Thuyền trưởng” ra lệnh:
- Ta nói rất nhiều nhưng uống chẳng
bao nhiêu. Bây giờ hãy uống “xăng tuột xăng*” đi!
Tiến Hơn châm rượu cho ông Phấn rồi
nói:
- Các đồng chí về trúng lúc và rất
thuận lợi về mặt thời cơ. Như các đồng chi biết, cái ghế ba chưn của xã tui vừa
bị mất một chưn, còn lại hai chưn thì các đồng chí nắm rõ rồi… Những vấn đề mà
tui đã nêu trong đơn tố cáo đó, nhứt là việc chênh lệch tỷ lệ lúa tươi qui ra khô
giữa đội Một và các đội khác quá cao. Vấn đề tham ô của Tư Mẫn có sự bao che và
thông đồng của tay Trung nằm ngay ở điểm then chốt này.
Ông Phấn hỏi:
- Chúng tôi đã nghiên cứu đơn tố cáo
của các đồng chí. Tôi thấy các đồng chí không nêu được cụ thể hành vi phạm tội
của tay Trung.
Đoàn Bê bắt chằm liền:
- Thằng “đeo kính trắng, đóng thùng”
này ranh như cáo. Nó biết ăn vụng và biết chùi mép. Tui sẽ cung cấp cho các
đồng chí đầy đủ hồ sơ tham ô về nó. - Tự nhiên Đoàn Bê hăng máu, nói luôn: - Nếu
các đồng chí có đủ can đảm và sức mạnh đánh luôn Năm Thân thì tui cũng sẵn sàng
cung cấp tài liệu trong thời gian nó làm bí thơ chi bộ. Các đồng chí thấy đó.
Thằng xấu thì có cơ hội thăng quan tiến chức, còn người tốt thì gian nan oan ức
đủ điều.
Nói tới đây, Đoàn Bê nghĩ tới Bảy
Diện. Ông bưng ly rượu đầy uống một hơi cạn ráo. Khả muốn chứng tỏ mình hiểu
được tâm can của Đoàn Bê - người mà hắn nhận là “thầy” - liền nói xía vô:
- Thử như bác Bảy Diện, cháu phải
công nhận là một con người có đạo đức cách mệnh. Vậy mà… - Khả lại bắt chước cử
chỉ của “thầy” rồi nói tiếp: - Cháu tin chắc bác Bảy sẽ trở lại chức bí thơ xã
ta nay mai.
Tiến Hơn chỉnh liền:
- Bá láp! Ai làm bí thơ thì do trên quyết định chớ có muốn cũng không
được.
“Thầy” bênh vực ý kiến của “trò”:
- Thằng Khả nó tin mấy ảnh ở trển sáng suốt chớ nó có muốn
thế đâu. Mà ý Đảng thì phải hạp với lòng dân chớ.
“Thuyền trưởng” thông báo:
- Tôi thông báo cho các đồng chí
biết tin này. Năm Thân ra đi đột xuất cũng có lý do chứ không phải tự nhiên
đâu. Không có Năm Thân đoàn thanh tra sẽ dễ dàng làm việc hơn.
Đoàn Bê đương nhai miếng gỏi cá,
khoái chí cười sặc sụa. Miếng gỏi chịu không nổi tiếng cười của ông, phóng như
tên bay vô áo của con người “lâu năm kinh nghiệm thanh tra”. Ông Phấn không hài
lòng nhưng miễn cưỡng cười, luôn tiện liếc nhìn đồng hồ. Đã tới giờ đi đón con.
Ông là một người luôn luôn tôn trọng nguyên tắc: thà đi làm trễ, không đón con
trễ. Ông vội cầm ly rượu đưa trước mặt:
- Tôi xin phép cạn ly. Đến giờ đi đón
cháu rồi. Các đồng chí cứ tự nhiên…
Ông bắt tay từng người và khi từ giả
không quên xách theo chai rượu dởm. Khả nói đuổi theo:
- Tui tưởng chú nói chơi chớ ai ngờ
làm thiệt. Thím ở nhà cần chai thiệt hở? Chú an tâm, ngày mai tui sẽ đem biếu chú
một chục cái. Tui là nhà sưu tập chai mà.
* Ý nói “Cent pour cent”: trăm phần trăm.
Đoàn Bê nhận được tin không vui về kết quả bầu cử do Khả lên tận nhà báo. Ông đau xót trong lòng, nhưng mặt vẫn lạnh như tiền. Ông nói với Khả:
* Ý nói “Cent pour cent”: trăm phần trăm.
3
Đoàn Bê nhận được tin không vui về kết quả bầu cử do Khả lên tận nhà báo. Ông đau xót trong lòng, nhưng mặt vẫn lạnh như tiền. Ông nói với Khả:
- Chú mày chở tao xuống gặp Anh Sáu đi.
- Cháu sợ giờ này bác Sáu ngủ rồi.
- Ngủ hay thức có can dự gì tới mày?
Nhà Anh Sáu đã khóa cổng, tắt đèn, Đoàn Bê bấm chuông. Chuông không
reo. Đoàn Bê rung rung cánh cổng sắt. Con chó Nhựt nằm trước hiên, nghe tiếng
động cuống quýt sủa ăng ẳng. Hai con chó bẹc-giê từ sau nhà để xe phóng thẳng
ra cổng, chồm hai chân trước bám vô song sắt sủa vang lên, như muốn xé xác kẻ
lạ bên ngoài. Ánh đèn ngoài hiên bật sáng. Đoàn Bê mừng thầm còn Khả thì không
vui. Anh biết rằng mình sẽ phải chạy nhong nhong để đợi đón Đoàn Bê về. Thằng
con út của Anh Sáu ra cổng hỏi ai đó?
- Chú Bê đây cháu. Ba ngủ rồi hả?
Thằng nhỏ ngập ngừng trả lời:
- Ba cháu đi công tác rồi.
- Xạo hoài! Chú có một việc hết sức
quan trọng muốn xin gặp Anh Sáu ngay
tức thời. Nhờ cháu vô thưa với ba vậy.
Đoàn Bê hồi hộp chờ đợi. Khả nói:
- Chú ở đây, lát nữa tui trở lại
đón.
- Rán một chút nữa mày. Nếu không
gặp được Anh Sáu thì tao phải đi bộ
về hả?
- Chú nói chuyện lâu hông?
- Độ chừng nửa tiếng thôi.
Vừa thấy thằng nhỏ ra, Khả sang số
xe, rú ga chạy mất, bỏ lại phía sau tiếng vọng: “Đừng bỏ tao nghe Khả”.
Thằng nhỏ mở cổng, Đoàn Bê nhẹ
người. Mấy con chó còn sủa rán vài tiếng. Đoàn Bê nói:
Anh
Sáu bận quần đùi, áo thun tiếp Đoàn Bê ở phòng khách sang trọng. Đoàn Bê khép nép nói:
- Dạ thưa Anh Sáu, em quá đường đột phá giấc ngủ của Anh Sáu.
- Không sao. Tôi còn đọc báo. Có
chuyện gì cứ nói.
- Thưa Anh Sáu, bọn nó tổ chức bầu cử gian lận.
- Bọn nào? Đế quốc Mỹ hay thực dân Pháp?
Bầu cử tổng thống hay bầu cử quốc hội?
Đoàn Bê chớp mắt nói:
- Thưa Anh Sáu, thằng “đeo kính trắng, đóng thùng” và thằng Tư Mẫn.
Anh
Sáu vụt vỗ đùi cười ha hả. Tiếng cười nghiến nát ruột gan Đoàn Bê. Anh Sáu hỏi:
- Anh bị xã viên cho “nốc ao” rồi
phải không?
Đoàn Bê thấy đã tới lúc “đóng kịch”
được. Ông
ta nói qua nước mắt:
- Dạ, Anh Sáu, Anh Sáu giúp em…
- Tôi đã giúp anh hết sức rồi, anh còn đòi hỏi gì nữa?
Còn việc anh đậu hay rớt là do bà con xã viên quyết định chứ tôi có quyết định
được đâu?
- Dạ, nếu cuộc bầu cử được tổ chức ngay thẳng thì em
không dám làm phiền Anh Sáu.
- Anh có bằng chứng về sự gian lận không?
Câu hỏi của Anh Sáu
khiến khuôn mặt của Đoàn Bê tươi tỉnh lại.
- Dạ, dạ… em có đầy đủ bằng cớ. Ngày mai em xin trao tận
tay anh Sáu.
- Cụ thể như thế nào? Anh kể sơ qua coi.
Đoàn Bê lúng túng, bóp qua bóp lại hai bàn tay rồi nói
lúng búng trong miệng:
- Dạ, dạ… nhiều chi tiết làm chứng tụi nó táo tợn vi phạm
quyền làm chủ tập thể của nhơn dân lao động và tiếp tay cho địch Anh Sáu hà. Cụ thể như thằng “đeo kính
trắng, đóng thùng” đã tiếp rước một đứa tinh báo ở thành phố về nắm mọi tình
hình ở xã Phước Chung…
Anh Sáu mỉm
cười hỏi tắt ngang:
- Đồng chí ấy dám tiếp tình báo à?
- Dạ, cái lần hợp tác xã mới thành lập. Em đã báo cáo tin
này cho Anh Sáu biết rồi.
- Tôi tưởng có tin gì mới chớ chuyện cũ nhắc lại làm gì.
Nhưng tôi mạnh dạn phê bình chú tung tin thất thiệt, vu khống kẻ khác đó nghe… -
Đoàn Bê sượng mặt. - Anh Sáu nói tiếp: - Người ta tiếp “nhà báo”
theo sự giới thiệu của bí thư thành ủy mà chú dám nói là tiếp “tình báo”.
Đoàn Bê chống chế:
- Dạ, thưa Anh Sáu.
Đó là em nêu cao tinh thần cảnh giác cách mệnh. Anh Sáu đọc báo Đảng hằng ngày ắt biết bọn “xi nha*” thường tổ chức
những tên tình báo đội lốt nhà báo đưa vô hoạt động ở các nước thuộc phe xã hội
chủ nghĩa của mình để phá hoại thành quả của cách mệnh…
Anh Sáu khó
chịu, nói:
- Thôi, nghe anh nói tôi hiểu hết rồi đó. Tôi chỉ cần anh
cho tôi bằng chứng cụ thể về sự gian lận là được. Thế nhé, cứ thế mà làm nhé!
Đoàn Bê cụt hứng, ngẩn người ra, không biết “cứ thế mà làm”
là sao. Tới đây, ông đã hiểu ý của Anh Sáu
không muốn tiếp ông nữa, đành đứng dậy, xin phép về. Vì chưa nghe tiếng xe của Khả,
ông tìm cách nán lại. Ông nắm chặt bàn tay của Anh Sáu bằng hai bàn tay của mình, và nói:
- Anh Sáu thấy
không, cơ hội như thằng Ba Thảnh mà kết quả bầu cử vừa rồi nó lại trúng thêm
một nhiệm kỳ nữa. Như vậy thì không gian lận là gì? Em xin phép được hỏi Anh Sáu, như vậy thì danh dự và uy tín
của Đảng ta đối với quần chúng nhơn dân còn không?
Anh Sáu ngáp
dài, phải nhẹ nhàng và lịch sự rút bàn tay của mình ra khỏi hai bàn tay lạnh tanh
của Đoàn Bê. Ông nói như đuổi:
- Tôi biết rồi. Chú cứ về đi và “cứ thế mà làm” nhé!
* Ám chỉ CIA – Cơ
quan Tình báo của Mỹ.
4
Ủy ban nhân dân xã Phước Chung tiếp đoàn thanh tra nông
nghiệp thành phố bằng trà và thuốc lá quốc doanh. Không phải ủy ban không mến
khách, nhưng kinh phí tiếp khách chỉ cho chừng đó.
Sáng nay, không kể thiếu Hiển, đoàn thanh tra có mặt đầy
đủ. Bà Tư Hà, chủ tịch Hội Phụ nữ thành phố là trưởng đoàn, lần lượt giới thiệu
tên và nhiệm vụ từng người trong đoàn. Phía chủ nhà, ngoài Ba Trung còn có Tư
Mẫn - chủ nhiệm, Tiến Hơn - trưởng ban Kiểm soát vừa trúng cử và Đoàn Bê - tham
dự với tư cách đại diện Ban Thanh tra xã th eo yêu
cầu của
đoàn thanh tra.
Ba Trung nói:
- Các đồng chí đến với chúng tôi quá
bất ngờ, nhưng chính sự bất ngờ này, xét về mặt trung thực, rất có lợi cho
chúng ta.
Bà Tư Hà đương chà hàm răng của mình
bằng xác vỏ cau khô, bỗng nhăn mặt lộ vẻ khó chịu khi nghe Ba Trung nói, liền
lên tiếng:
- Lẽ ra bạn tui bắt đầu làm việc từ
sáng hôm qua, nhưng các đồng chí mắc đại hội xã viên.
Ba Trung nói một cách vui vẻ:
- Chính hôm qua, đồng chí Sơ với tư
cách phó đoàn đã nói với tui là chỉ gặp sơ giao thôi, còn bữa nay mới chánh
thức làm việc. Rất tiếc, hôm qua không có phái đoàn dự đại hội với hợp tác xã
cho vui.
Ông Sơ sửa lại cặp kính lão rồi nói:
- Ngày hôm qua có muốn làm việc cũng
chưa được. Các đồng chí bận rộn suốt ngày kia mà. Đâu phải lỗi tại chúng tôi.
Ba Trung nói:
- Nói vậy không có nghĩa là đổ lỗi
cho các đồng chí. Giờ thì ta bắt đầu làm việc. Đề nghị đoàn cho biết mục đích
chính của cuộc thanh tra này và những yêu cầu của đoàn đối với ủy ban xã và hợp
tác xã trong thời gian đoàn làm việc ở đây.
Bà Tư Hà nói:
- Vậy chớ các đồng chí không nhận
được thông tri 12 của ủy ban nhơn dân tỉnh?
Ba Trung trả lời:
- Tui chưa nhận được.
(Mặc dầu anh có biết về nội dung của
thông tri này, nhưng về mặt chánh thức thì chưa).
Bà Tư Hà nẩy người phản ứng:
- Sao có chuyện lạ vậy?
Tiến Hơn thày lay, vội mở cặp rút
ngay ra tờ “Thông tri 12” và tự ý đọc một cách trôi chảy những ý nghĩa, mục
đích và yêu cầu.
Bà Tư Hà ngạc nhiên và tỏ vẻ khó
chịu, hỏi:
- Ở đâu đồng chí có vậy?
Tiến Hơn nhanh nhảu trả lời:
- Dạ, cậu Sáu cho cháu.
Mọi người trong buổi họp đều biết bà Tư Hà là mợ của Tiến
Hơn. Nhưng ngay từ đầu, trước khi bắt đầu buổi họp, bà đã tỏ vẻ là “người dưng”
với Tiến Hơn. Bây giờ Tiến Hơn muốn chứng tỏ cho mọi người biết mối quan hệ gia
đình đó, anh để lộ ra khiến bà Tư Hà không vừa lòng. Bà lấy lại nét mặt thản
nhiên và nói:
- Nếu quả thiệt các đồng chí không nhận được thông tri
này, thì để tui rà lại coi lỗi ở khâu nào. Giờ thì các đồng chí đã nắm được nội
dung của nó rồi, ta không còn bàn cãi gì thêm nữa. Nếu áp dụng thông tri này
với tình hình ở xã các đồng chí thì không biết cuộc thanh tra này sẽ kéo dài
tới khi nào mới xong. Vì còn nhiều vấn đề tồn tại và mắc mứu trong chánh sách
ruộng đất từ giải phóng tới giờ, nhiều nơi chưa tháo gỡ được, mà thời gian
thanh tra có hạn như các đồng chí biết đó, nên tụi tui chỉ khuôn vô phạm vi hợp
tác xã nông nghiệp thôi.
Tư Mẫn cũng đã trao đổi với Ba Trung về “Thông tri 12”,
nhưng khi nghe bà Tư Hà nói, cuối cùng ông mới hiểu được rằng người ta muốn
“đánh” ông. Ông lên tiếng:
- Tui rất tiếc là không có thông tri 12 ở trong tay để
nghiên cứu kỹ hơn. Nhưng tui vừa nghe ông Hơn đọc mục đích của nó, nếu tui
không lầm thì: “Kiểm tra việc thi hành chính sách ruộng đất ở các vùng mới giải
phóng từ khi bắt đầu thực hiện đến nay và kiểm tra phong trào hợp tác hóa nông
thôn từ khi thành lập hợp tác xã với mục đích kiện toàn phong trào và tổ chức,
đưa phong trào và tổ chức tiến lên một bước… vân vân và vân vân…”. Đứng về góc
độ một thành viên trong chi ủy địa phương, tui đề nghị đoàn thanh tra nhơn dịp
này làm sáng tỏ những tồn tại trong chánh sách ruộng đất ở xã chúng tui mà đồng
chí trưởng đoàn vừa nói, đồng thời đề nghị cấp trên phải giải quyết dứt điểm những
tồn tại đó theo tinh thần Thông tri 12 để khỏi gây thắc mắc trong cán bộ và
nhơn dân về sau. Còn như đồng chí trưởng đoàn nói chỉ thanh tra hợp tác xã
không thôi thì không đúng với tinh thần của thông tri này.
Bà Tư Hà vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình:
- Trong thông tri cũng có nói: “Tùy theo điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể từng địa phương mà vận dụng để thi hành tốt thông tri này”, đồng
chí không nghe sao?
Ông Sơ nói chen:
- Chỉ thanh tra hợp tác xã là do sự vận dụng của thường
trực ủy ban nhân dân thành phố, đồng thời có sự chỉ đạo của thường vụ thành ủy.
Tôi nghĩ đây là sự vận dụng sáng suốt và hợp lý. Vì cán bộ trong đoàn thanh
tra, nay mai trực tiếp làm việc với các đồng chí, chỉ có tôi và đồng chí Phấn
là ở ban Thanh tra thành phố, ba đồng chí còn lại ở ba cơ quan khác nhau tăng
cường, hôm nay tạm thời vắng mặt. Các đồng chí này không thể bỏ cơ quan chủ
quản trong một thời gian dài được. Do đó, chúng tôi cần làm nhanh, gọn và có
hiệu quả. Chúng tôi mong các đồng chí tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi làm
việc.
Ba Trung mỉm cười, nói một cách vui vẻ:
- Tạo điều kiện thuận lợi là sao? Đề nghị các đồng chí
cho chúng tôi biết cụ thể. Các đồng chí ăn ở đây luôn hay chỉ làm việc hàng
ngày rồi về?
Bà Tư Hà nói:
- Đây với thành phố bao xa mà phải ăn ở luôn.
Ông Sơ tiếp lời:
- Yêu cầu trước mắt của đoàn là sau khi tan buổi họp này,
cho niêm phong tất cả kho thóc, kho vật tư, các tủ hồ sơ giấy tờ của hợp tác xã
dưới sự chứng kiến của đôi bên.
Tư Mẫn phản đối:
- Tui đề nghị chừa lại kho vật tư để ngày mai sẽ khóa sổ
và kiểm kê cùng một thể. Vì hiện thời, trên các cánh đồng có một số diện tích
đương tăng vụ. Hợp tác xã chưa kịp thông báo cho các đội về lãnh vật tư dự trữ
trong thời gian kiểm kê thanh tra.
Bà Hà không tán thành đề nghị của Tư Mẫn. Ông Sơ bắt chằm theo:
- Nếu phía các đồng chí không ai còn
ý kiến gì nữa thì ta tiến hành ngay. Thời gian từ hôm qua đến giờ “phản bội”
chúng ta lắm rồi.
Ông Sơ đứng lên. Những người trong
đoàn thanh tra đều đứng lên. Tiến Hơn và Đoàn Bê cũng đứng lên. Tất cả đều kéo
nhau ra khỏi phòng họp, chỉ còn lại Ba Trung và Tư Mẫn. Hai người ngồi nhìn
những mẫu thuốc đầu lọc nằm lổn ngổn trong hai cái gạt tàn bằng sành. Một sợi
khói mỏng manh từ cái gạt tàn bay lên, len vô mũi Tư Mẫn. Tư Mẫn vốn không quen
mùi thuốc lá, bất thần nhảy mũi liên tục, không cách nào cưỡng lại được, tới khi
chảy nước mắt mới thôi.
***
Các đội về nhận xăng dầu, phân bón
và thuốc trừ sâu đương ngồi chờ trước kho vật tư của hợp tác xã. Thủ kho vật tư
trước kia là ông Năm, một cán bộ hưu trí lớn tuổi mà mọi người quen gọi một
cách thân mật là ông Năm Già, đã phải nghỉ việc cách nay nửa tháng vì bị nhiễm
chất độc của các loại thuốc trừ sâu. Chưa tìm ra người thế ông, hợp tác xã tạm
thời điều Côn, thủ kho lúa kiêm nhiệm.Từ sáng tới giờ không ai thấy mặt Côn. Có
người chờ phát sốt ruột, hai ba lần chạy ra quán cà phê của vợ chồng Bốn-số-đề
ở đầu đường vô trụ sở hợp tác xã vẫn không thấy anh ta. Chín Thiệp, con người
hiếm khi giận ai, cũng sanh gắt:
- Làm ăn tắc trách kiểu này sao mấy
ông quản trị không kiếm người thay cho đồng ruộng nhờ.
Người đội nón cời nói với giọng mỉa
mai:
- Thay! Nó là cháu ruột của Tư Mẫn
mà thay được à ? Tui hỏi anh, làm thủ kho chớ làm quan làm tướng gì mà không
kiếm được người thay ông Năm Già, lại để cho nó kiêm nhiệm. Bữa hôm qua tui
muốn thắc mắc trước đại hội, nhưng người ta nói: “Thưa anh, đã tới giờ bế mạc
thì không ý kiến ý cò gì nữa”.
Người bận quần đùi cãi lại:
- Thôi ông ơi! Đại hội là để cho mấy
người làm lớn đọc báo cáo, phát biểu chớ có phải để cho ông muốn nói gì thì nói
đâu.
Người đội nón cời hỏi:
- Vậy chớ sao kêu là đại hội đại
biểu xã viên. Đại hội đại biểu xã viên cũng phải cho người ta nói ít câu chớ,
không lẽ ngồi một đống đó để nghe, vỗ tay rồi phủi đít ra về?
Chín Thiệp nói:
- Trước khi đại hội người ta đã lấy
ý kiến của xã viên ở các đội rồi. Sao hồi đó ông không thắc mắc?
Người bận quần đùi nói:
- Ông có muốn thắc mắc, nay mai tha
hồ mà thắc mắc với đoàn thanh tra.
Người đội nón cời nói lại:
- Chuyện qua rồi, nói cho vui thôi.
Còn nếu tui có thắc, thì tui thắc mắc với đoàn thanh tra chớ thắc làm gì với
mấy ông cho mất công. Tui nghe nói hợp tác xã Phước Thái, bên cạnh xã mình, từ
hồi thành lập tới giờ, hai ba năm nay, sổ sách giấy má không rõ ràng gì hết,
tiền bạc thóc lúa thu chi mùa này cứ chồng chất tới mùa khác không biết đường
đâu mà rờ, sao mấy ổng không giỏi lên đó mà thanh tra, lại đi thanh tra hợp tác
xã mình? Mấy ông không biết chớ tui nghe nói “trâu cột ghét trâu ăn” đó. Không
khéo trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết hết.
Chín Thiệp lái qua chuyện khác:
- Sao anh lo chuyện bao đồng
quá. Tui hỏi thiệt anh hai con heo bữa nay ra sao rồi?
Người đội nón cời vì nghểnh ngảng nên cố giỏng tai lắng
nghe, vụt cười một cách thoải mái:
- Vậy mà tui tưởng anh hỏi chừng nào bà xã tui bể bầu
chớ. Ờ, hai con heo ngon lành. Hổng biết
giống anh giống gì mà nó ăn quá trời, ăn như tu hú vậy. - Anh ta bỗng cất giọng
nói liên tục: - “Sáng ăn trưa ăn
chiều ăn sáng ăn trưa ăn chiều ăn ăn ngủ ăn
ngủ ăn ngủ”… Một trăm ký lúa hợp tác xã ứng cho không đủ nuôi nó một tuần.
Chuyến này coi bộ lỗ nặng.
Người bận quần đùi cười mũi:
- Người ta cấp cho anh nuôi ba tháng
mà anh nuôi một tuần rồi than hổng đủ ăn. Anh ăn khín của nó thì có. Tui thấy
giao heo cho xã viên nuôi chẳng lợi lộc gì hết. Mất lúa hợp tác xã đã đành lại
lỗ công nuôi. Với lại người được nuôi, người không được nuôi sanh ra phân bì
nhau.
Người đội nói cời cãi lại:
- Chuyện xã viên nuôi heo cho hợp
tác xã mấy mùa nay rồi chớ mới đây sao mà thấy với không thấy. Mấy cha nội ở
ban Quản trị tính không dư một hột chớ anh tưởng.
Chín Thiệp hỏi gặn người bận quần
đùi:
- Theo anh thì nuôi ra sao cho
có lợi?
- Hợp tác xã có ngon lập ra một đội nuôi heo, xây chuồng
trại đàng hoàng, lựa giống tốt, lựa mấy bà mát tay nuôi chừng năm chục con heo
thịt, vài ba con heo nái coi thử có dư thịt bán cho nhà nước, dư thịt bán tết
cho xã viên không? Tui thấy mấy năm nay hợp tác xã bán thịt heo tết cho xã viên
không đủ mỡ liếm mép.
Người đội nón cời trả đủa:
- Kế hoạch nuôi heo của ông nghe hay dữ. Bữa hổm tui đi
bắt heo ở nhà ông Thiệp, giữa đường gặp ông Bê, ổng nói cũng y như ông. Nhốt
chung một chỗ năm sáu chục con tới khi nó dịch chết, cứ phình bụng ra mà ăn cho
hết. Trên hợp tác xã tiên tiến Thiên Ân kia, cũng kỹ sư nông nghiệp, cũng bác
sĩ thú y, cũng mấy bà mấy chị mát tay mát chưn mà mới đây chết luôn một lèo cả
trăm con vừa giống, vừa nái, vừa thịt, vừa heo “hậu vệ” .
Người bận quần đùi cự lại:
- Ông làm như hay lắm vậy. Cả đời chưa rời đít vợ mà cứ
đi nói chuyện đâu đâu. Còn bày đặt nói chữ nữa chớ. Heo gì là “heo hậu vệ”, làm
như cầu thủ bóng đá không bằng?
Lúc này Chín Thiệp thấy đoàn thanh tra đương đạp xe vô.
Anh báo cho mọi người đương ngồi quanh mình biết:
- Kìa, mấy ông thanh tra tới kìa. Ai có thắc mắc, khiếu
nại hay đề nghị gì cứ nói thẳng với mấy
ổng đi.
Tiến Hơn và Đoàn Bê đi cùng đoàn thanh tra. Họ không để ý
tới những người ngồi chờ lãnh vật tư, cứ thẳng đường bước vô văn phòng Ban quản
trị. Riêng Đoàn Bê, thấy người mặc quần đùi liền hất hàm hỏi:
- Làm gì ở đây?
Người bận quần đùi miệng vẫn ngậm điếu thuốc sâu kèn, trả
lời:
- Ruộng bị sâu đục thân, đi lãnh mấy ký thuốc về rãi mà
chầu chực từ sang tới giờ, phát ngán.
Đoàn Bê nói:
- Kho bắt đầu từ bữa nay “xuất nhập bất cấm”. Về đi câu
cho rồi. Tui mới thấy bầy ròng ròng quanh quẩn gốc cây sung. Con mẹ ít nào cũng
bằng bắp tay, lâu lâu nó quậy nổi sóng chớ không phải chơi.
Người bận quần đùi bắt bẻ:
- “Xuất nhập bất cấm” là “ra vô không cấm”, đi thả giàn mà
sao tui thấy cửa đóng im ỉm. Với lại sâu rầy đâu có sợ thanh tra, nhứt là sâu
đục thân lúa, không diệt liền là tiêu hợp tác xã.
***
Các tờ giấy niêm phong có con dấu của Ủy ban nhân dân xã
cùng chữ ký của Tư Mẫn và bà Hà đã dán lên tất cả các cửa kho lúa, kho nhiên
liệu, kho phân bón và thuốc trừ sâu và các tủ đựng hồ sơ, sổ sách của bộ phận
kế toán. Mặc dầu chưa tới giờ nghỉ việc, mọi người đều ra về và hẹn một giờ
chiều bắt đầu triển khai công tác thanh tra.
Trụ sở hợp tác xã
không một bóng người, không một bóng chim, chỉ có nắng gắt. Nắng đổ tràn xuống
sân phơi, bốc lửa.
Mười một giờ, Côn trở lại hợp tác xã. Thấy vắng hoe, anh
ta vội đạp xe tới nhà Tư Mẫn. Với bộ mặt hớt hãi, anh chào Tư Mẫn:
- Thưa cậu Tư, bữa nay sao nghỉ sớm vậy?
- Mày biết giờ này là mấy giờ không?
- Thưa cậu Tư, ông… ông anh rể của con bị đau bao tử, bà
chị nhờ con đem xuống nhà thương...
- Chớ hổng phải mày biết trước các kho đều niêm phong
sáng nay?
- Con nói thiệt mà. Cậu Tư không tin thì hỏi… hỏi vợ con…
- Mày biết sáng nay bao nhiêu người chờ mày không?
- Dạ gấp quá nên con không xin phép cậu đươc.
- Ít ra mày cũng phải cho vợ mày lên báo cho hợp tác xã
biết và gởi chìa khóa kho lại cho ai đó chớ.
- Dạ lúc đó con “bấn xúc xích” quá nên quên đầu quên
đuôi.
- Nếu mày thấy cần, tao cho mày nghỉ một thời gian để lo
cho ông anh rể nghe!
Côn âm ừ, vừa gãi tai vừa nói:
- Dạ con không dám nói láo. Con biết lỗi. Cậu Tư thông
cảm…
- Thôi, mày về đi. Tao đương mắc công chuyện.
Côn bèn đổi ngay nét mặt:
- Con muốn thưa với cậu một chuyện…
- Chuyện gì nữa?
- Xin cậu tin con. Con không dám nói
láo. Chuyện này con nghĩ là có liên quan tới việc thanh tra.
Tư Mẫn nhìn thẳng vô cặp mắt đương
chớp chớp của Côn để dò xét. Ông hỏi:
- Chuyện gì? Nói lẹ đi.
- Hôm trước, con xuống Nha Trang có
việc. Khi ngang qua nhà bác Sáu, con thấy chú Bê đương đứng chờ người mở cổng,
lúc đó khoảng 10 giờ đêm.
- Bác Sáu nào? Chuyện bá láp vậy mà mày
dám nói là liên quan tới việc thanh tra hở?
- Chớ cậu không biết bác Sáu à? Bác
Sáu mà người ta thường kêu là Anh Sáu
thường vụ đó.
- Đoàn Bê tới đó làm gì?
- Dạ, con thấy vậy thôi chớ làm sao
biết được ổng tới đó để làm gì. - Côn khịt khịt mũi, đưa tay mân mê sợi râu mọc
lún phún dưới cằm rồi nói tiếp: - Còn một chuyện này nữa cậu hà. Con nói cho
mình cậu biết để đề phòng. Thằng Khả nó đương bợ đỡ đoàn thanh tra đó.
Tư Mẫn đứng phắt dậy, chép chép
miệng nói:
- Mẹ, toàn những chuyện tầm phào...
Tư Mẫn bỏ xuống nhà bếp. Côn đứng xớ
rớ một đỗi rồi dắt xe ra về. Ra khỏi cổng nhà Tư Mẫn, anh ta mới ngồi lên yên.
Trước khi choãi chân lấy trớn đạp, anh nhổ toẹt một bãi nước miếng rồi lầm bầm
trong miệng:
- Cứ cho là chuyện tầm phào đi. Để
coi ai tầm phào thì biết.
5
Từ hai tháng nay, nhà Bảy Diện trở
thành nơi họp của “nhóm chống tham ô, lãng phí”, mà mọi người gọi tắt là “Nhóm 7
D”. Thường xuyên có mặt trong các buổi họp luôn được tổ chức vào ban đêm là
Đoàn Bê, Mười Trong, Thái Ngươn, Khả và lẽ đương nhiên là Bảy Diện. Mặc dầu
không có văn bản hay lời tuyên bố chánh thức nào, nhưng mọi người đều thầm hiểu
Bảy Diện là linh hồn của nhóm. Ai cũng kêu lại chức vụ cũ của ông là bí thơ. Anh Bảy bí thơ có cảm giác rằng mình được phục hồi chức vụ và hy
vọng tràn trề rằng nay mai mình sẽ đương nhiên trở lại cái ghế bí thơ xã còn
đương bỏ trống. Phải nói rõ ra là ông tin tưởng đúng hơn là hy vọng. Bởi vì mấy ảnh ở trển đã hứa một cách chắc chắn sẽ nghiên cứu giải quyết trường
hợp của ông. Sức ông còn có thể cống hiến cho sự nghiệp cách mệnh thêm năm mười
năm nữa. Các vị lãnh đạo ở trung ương trên bảy tám mươi tuổi làm việc vẫn còn
ngon như trời huống gì ông mới trên sáu mươi. Không riêng gì Bảy Diện tin như
vậy mà hết thảy những người trong nhóm cũng đều tin như vậy và luôn luôn ủng hộ
mọi ý kiến của ông.
Có một người khăng khăng không tin
Bảy Diện sẽ trở lại chức bí thơ xã. Đó là Tiến Hơn. Trong buổi họp tối nay, đặc
biệt có mặt Tiến Hơn. Anh ta nói với Bảy Diện:
- Thưa bác, cháu biết lâu nay bác
hiểu lầm cháu, bác giận cháu…
(Thiệt sự Tiến Hơn muốn thoát khỏi
ảnh hưởng của Bảy Diện từ khi cậu của anh từ huyện được rút về thành phố “theo
yêu cầu nhiệm vụ”. Trong thâm tâm, anh ta không còn sợ cái thế của Bảy Diện như
trước kia nữa. Anh ta tới tham dự buổi họp đêm nay với tư cách một “đại biểu”
được Đoàn Bê mời qua sự ngỏ ý của Bảy Diện. Còn Bảy Diện trong lúc này lại muốn
dựa vô thế quen biết nhiều với mấy ảnh ở
trển của Tiến Hơn).
Bảy Diện làm ra vẻ niềm nở:
- Có gì mà tớ phải giận đồng chí. Lâu nay anh ba chị ba vẫn khỏe
chớ?
- Dạ, chỉ có bà già cháu hay bịnh
thôi chớ ông già thì mạnh khù.
Bảy Diện cũng đã nghe đầy tai chuyện
hai cha con Tiến Hơn chết chung “một lỗ” của Loan-khểnh. Nhưng từ ngày thằng Ba
Búa đi học tập cải tạo về đến giờ, không biết lão ta còn “nhấm nháp” được tí
đỉnh gì không. Nghĩ vậy, tự nhiên Bảy Diện bật ra tiếng cười. Mọi người chẳng
biết ông cười chuyện gì, nhưng không ai thắc mắc. Bảy Diện vừa cười vừa nói:
- Chuyện đời nhiều lúc trớ trêu thiệt!
Chúng nó tưởng lấy vải thưa che mắt thánh, có ngày lửa cháy nhà mới lòi ra mặt
chuột. Ở đời, trước sau gì có vay thì có trả...
Ý của Bảy Diện ám chỉ cha con Tiến
Hơn, nhưng Đoàn Bê lại hiểu lầm, bèn bắt chằm lên tiếng:
- Tụi nó đã bốc lửa bỏ tay anh Bảy
bí thơ, bỏ lên tay tui, bây giờ chính lửa đó đã đốt cháy tụi nó. Tụi nó ghê
lắm. Ở đây ai cũng dư biết hai ba năm nay tụi nó cấu kết với nhau, vây bè kết
cánh, bịt mắt nhơn dân để tha hồ hối lộ, tham ô, hủ hóa, đủ thứ hết… Tui còn
biết rõ “ô dù” của tụi nó. Nhưng xin báo cáo cho các đồng chí biết rằng cái “gốc”
đó đương lung lay, sắp “xụm bà chè” rồi. Thiệt là phước đức cho nhơn dân. Chúng
ta đương gặp thời cơ thuận lợi, nếu không chớp lấy thời cơ này thì không biết
chừng nào chúng ta mới đánh bật được tụi nó, đồng thời công sức chuẩn bị của
chúng ta bấy lâu nay như muối đổ biển. Các đồng chí có đồng ý với tui như vậy
không?...
Tiến Hơn chím miệng cười, rồi nói
một cách hăng hái:
- Nếu không đồng ý thì không ai tới
đây để họp. Theo tui những tội lỗi của tụi nó đối với nhơn dân thì đoàn thanh
tra đã nắm hết rồi. Ý tui, trong cuộc họp này, chúng ta nên bàn sâu hai vấn đề
chủ yếu: Một là củng cố lại tổ chức của chúng ta. Không có tổ chức chặt chẽ thì
không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh này được. Hai là phải vận động
quần chúng tích cực tham gia cuộc đấu tranh này. Đó là nguyên lý cơ bản trong
cuộc đấu tranh cách mệnh của “Mácxítlêninnít”.
Anh thợ hồ chân trong chân ngoài hợp
tác xã vừa trúng cử chức ủy viên ban Kiểm soát phải viết tay trái, vì bàn tay
phải bị thương đương bó bột, ghi một cách khó nhọc những câu nói của Tiến Hơn
vô trương đầu quyển sổ công tác mới tinh. Anh ta hỏi nhỏ Tiến Hơn:
- Mátxítlêninnít là mấy ông?
Tiến Hơn vốn coi thường những ai tập
tành làm “cán bộ cách mệnh” nên anh ta trả lời:
- Bộ, không biết đếm sao?
Bảy Diện không để ý tới chuyện của
hai người này, lên tiếng:
- Về tổ chức thì lâu nay ta đã có
rồi. - Bảy Diện nhấn mạnh chữ “ta”, ông muốn khẳng định tổ chức của “Nhóm 7 D”
do ông lãnh đạo trước mặt Tiến Hơn. - Bây giờ tôi chỉ muốn kêu gọi đồng chí
đoàn kết lai. Vì như Bác Hồ kính yêu đã day: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”. Còn công tác vận động quần chúng thì…
- Bảy Diện ngập ngừng vì lúng túng. Lâu nay ông không biết rõ thái độ của bà
con trong xã đối với ông ra sao, mặc dù ông đã cố gắng hòa nhã với mọi người
chớ không xa cách như trước kia. Ông ra chiều suy nghĩ rồi tiếp: - Ta chỉ cần
nói cho họ biết là chúng nó tham ô, trấn áp quần chúng. Ai bị oan ức lâu nay
không biết chỗ nào kêu cứu thì bây giờ cứ báo cáo thẳng tới đoàn thanh tra,
càng nhiều bằng chứng càng tốt, để đoàn thanh tra có cơ sở kỷ luật chúng nó.
Thế thôi.
Đoàn Bê khoe:
- Tui cũng là
một thành viên trong đoàn thanh tra. Tui xin báo cáo cho các đồng chí biết là
ngày mai đoàn thanh tra sẽ để ở mỗi đội, mỗi thôn một “thùng thơ góp ý” theo
đúng như ý muốn của chúng ta trong lần họp vừa rồi. Đây là bước thắng lợi đầu tiên
của chúng ta. - Đoàn Bê ngưng nói, theo thói quen của những vị lãnh đạo từ
trung ương tới địa phương, đợi mọi người vỗ tay tán thưởng “công lao” của ông
đã đưa đề nghị của nhóm lên đoàn thanh tra, nhưng không có ai hiểu ý ông, họ
đều ngồi im… Ông đành nói tiếp: - Thùng thơ góp ý, sáng kiến “cực kỳ quan trọng”
của chúng ta, chỉ dành cho những người thấp cổ bé miệng lâu nay bị áp bức nhưng
không dám chường mặt ra tố cáo chúng nó vì sợ bị trả thù. Đi đôi với việc phát
động bà con gởi thơ tố cáo, nội tuần tới đoàn thanh tra sẽ lần lượt tổ chức các
buổi “phát huy quyền làm chủ tập thể của nhơn dân” ở các đội. Ta nên thống nhứt
với nhau rằng đây là dịp phát động quần chúng vạch mặt chỉ tên chúng nó. Vì
vậy, ngay bây giờ ta nên phân công cụ thể từng người một phụ trách từng thôn,
từng đội, từng đoàn thể để chuẩn bị trước một bước cho đợt phát động quần chúng
qui mô này. Các đồng chí thấy hợp lý chớ?
Khả tán thành ý kiến của “thầy” mình
liền, nói một cách sôi nổi và đầy khoái trá:
- Tui xin giơ hai tay đồng ý ý kiến
của đồng chí Chú Bê. - Anh giơ hai
tay lên thiệt. - Tui xin bổ sung ý kiến của đồng…
chú Bê. Ta nên làm một bản kiến nghị, kể rõ những hành động vi phạm quyền
làm chủ của nhơn dân và xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa của tụi nó, tập hợp
tất cả chữ ký của xã viên lại, đưa thẳng cho đoàn thanh tra là thượng sách.
Thái Ngươn chưa kịp ghi xong ý kiến
của Khả, nhưng đành ngừng viết hỏi:
- Ai có công đâu mà đi lấy hết chữ
ký của xã viên? Xã viên cũng có nhiều người theo phe tụi nó chớ có theo mình hết
đâu?
Khả mạnh miệng nói liền:
- Tui tình nguyện làm bản kiến nghị
này. Còn chữ ký muốn bao nhiêu cũng có.
Khả nói xong, đưa mắt nhìn Đoàn Bê
tìm sự đồng tình. Chính Khả đã có công làm dày thêm bộ “TAC3T” của Đoàn Bê. Mặc
dầu hai người mới thân nhau, nhưng lại rất tâm đầu ý hợp. Khả là người đầu tiên
được Đoàn Bê cho coi bộ “TAC3T” và cũng chính vì được hưởng “đặc ân” này mà anh
tôn Đoàn Bê lên làm “thầy” mình.
Đoàn Bê nói:
- Làm như kiểu chú Khả cũng là một
cách tốt góp phần tích cực cho thắng lợi của chúng ta.
Tiến Hơn nói theo cung cách của một “đại
biểu”:
- Nãy giờ tui nghe các đồng chí phát
biểu nhiều ý kiến hay, bổ ích cho cuộc đấu tranh của chúng ta. Nhưng tui nghĩ
các đồng chí chỉ quan tâm tới diện
chớ không chú trọng tới điểm. Tui đã nghiên
cứu kỹ vấn đề này lắm rồi. Chúng ta đánh diện
thì không thắng nổi tụi nó đâu. Có hai lý do. Một là quần chúng xã viên chưa có
tinh thần giác ngộ cách mạng cao. Một sổ ủng hộ chúng ta, một số theo đuôi tụi
nó, số còn lại thì lừng khừng. Giả dụ số người ủng hộ chúng ta, nói một cách
lạc quan đi, có hai trăm đơn tố cáo. Nếu tập hợp lại, tui hỏi các đồng chí ai
có công đâu mà ngồi đọc cho hết những lời tố cáo đó chớ đừng nói gì tới đoàn
thanh tra. Tội nghiệp cho các vị đó chớ. Hai là đánh diện thì mạnh ái nấy đánh, cứ đánh lung tung, không biết đánh thẳng
vô ai và đánh vô chỗ nào hết. Thí dụ mình bắt ổ ong để nuôi thì chỉ cần bắt con
ong chúa thôi chớ đâu cần bắt hết bầy
ong. Mà cho gom được hết bầy ong nhưng không bắt được con ong chúa thì cũng như
không. Vì vậy ta nên đánh điểm. Điểm ở đây chính là thằng Ba Trung và Tư
Mẫn. Hai người này cấu kết với nhau như rễ cau và gai bồ kết. Và chỗ hiểm nhứt
là mức chênh lệch tỷ lệ lúa tươi qui thành khô giữa sân phơi của các đội với
sân phơi chính của hợp tác xã mùa rồi. Tui tính ở các đội thì bình quân gần 12
phần trăm còn ở kho chính của hợp tác xã thì tới 15,33 phần trăm. Mức chênh
lệch tới 3,56 phần trăm. Đem tỷ lệ chênh lệch này đối chiếu với tổng sản lượng
của hợp tác xã mùa rồi thì hụt hơn hai tấn lúa khô. Hơn hai tấn này lọt vô tay
ai? - Tiến Hơn đằng hắng một tiếng rồi
tiếp: - Chỉ tính mùa rồi thôi đó. Còn mấy mùa trước thì nay mai đoàn thanh tra
cũng sẽ truy ra. Tui cũng xin nói thẳng cho các đồng chí biết thanh tra kỳ này
cũng chỉ nhắm vô điểm tui vừa nói
thôi, vì đã có ý kiến chỉ đạo của mấy ảnh
ở trển rồi.
Đoàn Bê ngẫm nghĩ nếu quả thiệt có ý
kiến mấy ảnh ở trển chỉ thanh tra
những điểm đó thôi thì bộ “TAC3T” của ông từ “vô giá” sẽ thành “vô giá trị”. Ông
định bụng sẽ cho thằng Khả mượn hai ba bữa để nó có cơ sở thảo bản kiến nghị
rồi ông sẽ đưa thẳng cho ông Sơ. Không thể để cho Tiến Hơn nổi lên như một
“nhơn vật long trọng” trong cuộc đấu tranh này được. Mình đã thua nó một bàn
trong kỳ bầu cử vừa rồi, không lẽ bây giờ lại chịu lép vế trước nó? Dẫu nó dựa
thần dựa thế ai đi nữa thì nó vẫn là “một thằng quần chúng”. Đoàn Bê buột miệng
nói với Tiến Hơn:
- Đồng chí cho rằng ở trên có ý kiến chỉ đạo cuộc thanh tra này là
phải làm vậy, làm vậy… Vậy đồng chí
có biết rằng trên cũng có ý kiến cho
rằng cuộc bầu cử vừa qua là sái nguyên tắc không? Và cũng chính mấy ảnh ở trển gợi ý cho tui làm một bản
kiến nghị, phản đối cuộc bầu cử thiếu dân chủ đó để mấy ảnh có cơ sở hủy kết quả của nó và bắt phải tổ chức bầu lại
không?
Tiến Hơn không mấy ngạc nhiên trước sự
tiết lộ không nằm trong nội dung buổi họp này của Đoàn Bê. Bảy Diện thì phân
vân không biết điều Đoàn Bê nói có chính xác không, hay vì thất cử mà anh ta
phịa ra thế. Còn Thái Ngươn thì sợ “số đỏ” của mình có nguy cơ ngã ra “đen”.
Anh ta bán tín bán nghi, không kêu Đoàn Bê là đồng chí nữa, mà tức giận nói:
- Chú lấy chứng cớ đâu mà nói bầu cử
gian lận? Tui hổng tin.
Đoàn Bê nói với vẻ chắc như đinh
đóng cột:
- Chứng cớ rành rành ở kết quả bầu
cử đó chớ tìm đâu cho xa.
Khả tiếp ứng cho “thầy” mình:
- Các đồng chí đừng lo. Nếu cần tui sẽ “sáng tác” ra một bản kiến nghị
liền.
Bảy Diện nhìn Thái Ngươn như để trấn
an anh ta đừng lo gì về kết quả bầu cử, rồi ôn tồn nói:
- Chuyện này ta sẽ bàn sau các đồng chí ạ. Nói gì thì nói ta cũng phải
đoàn kết lại với nhau là tốt nhất. Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết kia mà.
Khả xía vô tắt ngang:
- Tui tán thành lời vàng ngọc của đồng chí bí thơ. Người ta nói: một cây
làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao. - Anh ta bắt trớn nói
luôn: - Ba cây đây là tam trụ, đồng chí
bí thơ, đồng chí Bê và đồng chí Hơn. “Tam trụ đồ vương*” thì
không ai địch nổi.
Chẳng ai biết “tam trụ đồ vương” là
nghĩa gì, nhưng nghe cách lý giải của Khả, mọi người đều khoái.
Mười Trong từ đầu buổi họp tới giờ
vì chuếnh choáng hơi men nên bất cứ ai nói câu gì cũng gật gật đầu đồng ý, bây
giờ đã giải rượu anh ta bèn phát biểu:
- Cho tui nói vắn tắt thôi, các đồng chí chịu nghe tui phát biểu không?
Theo tui, ta phát động quần chúng nhơn dân cầm cờ đi biểu tình như thời chống
Mỹ cứu nước là xong ngay…
Bảy Diện giận dữ, nạt lớn và dằn
từng tiếng :
- Bộ mày chưa tỉnh rượu hở? Mày nghĩ
sao mà nói vậy. Chế độ ta là chế độ ưu việt. Không có biểu tình, không có xuống
đường như thời Mỹ-ngụy…
* Thực ra là một vở tuồng cổ có tên Tam
nữ đồ vương
6
Những thân cây đứng ở những nơi xã
viên thường lui tới, không thắc mắc chuyện người ta đóng vô mình để treo thùng
thơ góp ý của đoàn thanh tra, mà còn hãnh diện vì được mọi người chú ý tới.
Cùng với những thùng thơ góp ý, sáng
nay ông Sơ yêu cầu Tư Mẫn thành lập ngay một tổ phơi mẫu. Và Tiến Hơn, trưởng
ban kiểm soát nhận chức tổ trưởng. Huy - kế toán trưởng hợp tác xã làm tổ phó
kiêm thơ ký. Hai xã viên nữ do Tiến Hơn chọn từ đội Ba, một đội mà theo anh ta
là trung thực nhứt vì không có bàn tay của Ba Trung và Tư Mẫn xía vô như đội
Một hoặc đội Bốn. Một đội đã đồn phiếu cho anh ta nhiều nhứt.
Thời điểm này, hợp tác xã đương gặt
tăng vụ ở cánh đồng Vườn Bí. Tiến Hơn viết một tờ giấy sai hai cô xã viên lên
gặp Chín Thiệp, đội trưởng đội Bốn, người vừa thay Hai Nhã, nhận sáu chục ký
lúa ở ba đám ruộng khác nhau, mỗi đám hai chục ký để về chia làm ba mẻ phơi mẫu
thử. Hai cô xã viên đi gần hai tiếng đồng hồ rồi về tay không, trả lại tờ giấy
cho Tiến Hơn. Anh ta trợn mắt hỏi:
- Lúa đâu?
Cô vừa người trả lời:
- Ông Thiệp nói không có lịnh của
ban Quản trị thì ông không dám xuất.
Tiến Hơn tức giận:
- Đ. mẹ, lịnh của đoàn thanh ra mà
nó không chịu xuất hả? Sao cô không nói cho nó có biết rằng hợp tác xã đương bị
thanh tra sao?
Cô vừa người trả lời:
- Mắc mớ gì tui nói. Đi mệt
muốn chết, về còn được ông cho “uống cà-phê đen” nữa hở?
- Thôi cô em ơi! Lãng phí không biết bao nhiêu thời giờ.
Chờ đó.
Tiến Hơn cầm miếng giấy trong tay, bước ra khỏi cái bàn
riêng của mình. Anh ta sang văn phòng Ban quản trị kiếm Tư Mẫn. Tư Mẫn đã đi
họp. Có Ba Thảnh, phó chủ nhiệm, anh ta không thèm nói chuyện với ông ta. Đang
bực tức thì nghe kế toán trưởng Huy mượn bật lửa mồi điếu thuốc. Giữa anh và
Huy thì hằng ngày có thể ngồi chung bàn uống cà-phê với nhau. Anh ta xỉa tờ
giấy trước mặt Huy và nói:
- Ông coi, Chín Thiệp dám chống lịnh cùa đoàn thanh tra.
Huy ngậm điếu thuốc, vừa xìa tay đợi lấy bật lửa, vừa
liếc mắt đọc tờ giấy trên bàn. Bỗng nhiên anh bật cười, rớt điếu thuốc trên môi:
- Đúng là gậy ông đập lưng ông. Chính ông đã kiến nghị
với Ban quản trị là xuất bất cứ loại lúa gì cũng phải có phiếu đàng hoàng, đó
là nguyên tắc, ông hổng nhớ hà?
Tiến Hơn chống chế:
- Đây là trường hợp đặc biệt. Ông không thấy lịnh của
đoàn thanh tra đó hà?
Huy cãi lại:
- Thanh tra đâu thanh tra? Ông mượn
lịnh rõ ràng.
- Thôi, ông chịu khó làm cho tui một
cái phiếu xuất tạm đi.
Huy với tay xuống sàn nhà vừa lượm
điếu thuốc vừa nói:
- Ờ, nói vậy phải nghe lọt lổ tai
không?
Loay hoay tới mười một giờ trưa hai
cô xã viên mới chở được sáu chục kí lúa về phơi sân chính. Tiến Hơn đã chờ sốt
ruột, lại thấy ba bao lúa, đâm cáu:
- Trời ơi! Tui biểu lấy mỗi đám hai
chục kí, để riêng ra, phơi mẫu để biết đường mà tính toán. Mấy cô có biết
không? Trộn chung như vậy biết đường đâu mà mò?
Hai cô đã đổ mồ hôi hột vì phải vật
lộn với bao lúa qua những đoạn đường ổ gà, một cô sừng sộ cự lại:
- Ông nhiều chuyện quá. Lúa nào
chẳng lúa. Tui hổng làm nữa. Ai biết làm ông cứ kêu họ thế.
Nói thì nói, Tiến Hơn cũng đỡ bao
lúa xuống xe cho cô gầy người. Anh ta nhẹ giọng:
- Đi kêu giùm thằng Huy ra cân lại
coi.
Cô gầy người vênh mặt:
- Tụi tui có ăn bớt hột nào đâu mà
cân lại?
Tiến Hơn cười xởi lởi:
- Thưa bà, tui không nói bà
ăn bớt. Tui biểu, bà cứ đi giùm tui.
Trễ hết công hết chuyện rồi.
Sáu chục ký lúa cân xong, hụt mất
hai ký, có lẽ vì sự chênh lệch giữa cân bàn với cân treo. Tiến Hơn chia làm ba
phần bằng nhau rồi sai hai cô xã viên phơi ba “nhả” cách xa nhau trên sân trước
mặt kho lúa chính. Anh ta dặn kỹ:
- Hai cô phải luôn luôn túc trực ở
đây nghe. Đừng để ai lấy mất một hột hoặc lấy bớt nhúm này bỏ qua nhúm kia
nghe.
Cô vừa người chanh chua hỏi:
- Bộ, ông bắt chị em tui trưa nay
nhịn đói ở đây?
- Thì chia nhau về nhà ăn cơm.
- Còn ông?
- Bây giờ tui về, một tiếng đồng hồ
sau có mặt liền. Hay là hai cô chờ tui tới rồi về ăn?
Cô gầy bĩu môi:
- Bộ ông đẻ ngược chắc? Tụi tui đói
muốn lũi rồi đây. Ông coi cho tụi tui về trước.
Trưa nay, Tiến Hơn lại có một cuộc “trao đổi” giữa ông Sơ
và ông Phấn ở nhà thằng Côn. Đoàn Bê cho biết đây là một cuộc “trao đổi” hết
sức quan trọng, anh phải có mặt. Anh lưỡng lự một đỗi rồi móc bóp lấy ra một mớ
tiền lẻ đưa cho cô gầy người.
- Đây, cô ra quán mua hai ổ mì thịt. Còn dư bao nhiêu ghi
giùm tui “con bướm con” cả đầu lẫn đuôi nghe. Hồi hôm tui nằm mơ thấy con bướm nhỏ
xí bay chờn vờn trước mặt. Tối nay nó xổ ra “con bướm” thì mai tui sẽ đãi mấy
cô một chầu đậu hủ.
Cô gầy người cầm mớ tiền lẻ, hỏi lại:
- Ông bà cho thấy rõ ràng như vậy, sao ông không đánh
lớn?
Tiến Hơn chặc lưỡi:
- Đã than đói mà còn đủ sức thắc mắc hả? Tui dặn như vậy
thì cứ việc đi đi.
Anh nói xong, lên xe đạp thẳng. Bầy chim sẻ đậu trên mái
nhà kho bắt đầu ríu rít rủ nhau sà xuống ba nhả lúa. Bầy gà nhà bên cạnh kho
cũng dớn dác kiếm đường chạy qua sàn phơi. Cô vừa người ươ ươ mấy tiếng rồi
trải hai cái bao đựng lúa lên thềm nhà kho, ngã lưng và lấy nón che khuất mặt
để tránh cái nắng đứng bóng rồi thiêm
thiếp ngủ.
***
Liên tiếp trong ba này, Tiến Hơn chăm chỉ theo dõi mấy
mẫu phơi một cách sát sao. Mặt anh ta có lúc cau có như khi bị Loan-khểnh từ
chối vì cô nàng sợ Ba Búa bắt gặp, có lúc tươi rói như mèo thấy mỡ. Nhưng có
lấy bao nhiêu mẫu phơi ở bao nhiêu đám ruộng khác nhau của mỗi đội thì cuối
cùng kết quả cũng không thỏa lòng anh ta. Tỷ lệ phơi mẫu so với tỷ lệ phơi đại
trà ở các đội chênh lệch nhau khá lớn. Thành thử không thể lấy tỷ lệ phơi mẫu
làm tiêu chuẩn cho tỷ lệ riêng của mỗi đội, mỗi ngày ở các sân phơi được. Vì
vậy, mục đích của Tiến Hơn cũng như của đoàn thanh tra muốn đạt tới là căn cứ
theo nhiều mẫu phơi thử, lấy tỷ lệ bình
quân để làm cơ sở chứng minh Ba Trung và Tư Mẫn câu kết tham ô.
Các ban chỉ huy đội cho rằng việc làm này mang tính chất
áp đặt và sai với thực tế. Chiều nay,
ban Quản trị mở rộng họp bất thường, Tư Mẫn đã mời ông Sơ và Ba Trung tới nghe
các đội phát biểu ý kiến.
Chín Thiệp, đội trưởng đội Bốn, đứng lên nói:
- Tui nói thiệt chớ các ông thanh tra chỉ biết “cày trên
giấy”. Bữa đầu tiên, các vị lấy ở đội tui sáu chục ký lúa về phơi khô trong
ngày với tỷ lệ hao hụt là chín phần trăm - theo thông báo của kế toán trưởng.
Cùng ngày, đội tui gặt gần một tấn, tui xin hỏi các vị có phơi liền được không?
Hay phải nhập kho để sáng ngày mai phơi? Sân phơi của đội thì nhỏ, không thể
phơi một lần hết sản lượng gặt trong ngày được. Vậy thì phải dồn ngày này qua
ngay khác để phơi tiếp phơi tiếp như bấy lâu nay. Đùng một cái - Chín Thiệp
nhếch môi cười mỉa - các vị phát huy sáng kiến, bắt tụi tui phải làm sao cho
đúng tỷ lệ theo mẫu phơi của quý vị từng ngày một. Tui hỏi vậy có tréo cẳng
ngỗng không?
Ông Bá, đội trưởng đội Ba - một đội trưởng được coi là
giỏi nhứt của hợp tác xã - đầu vồ, nóng tính, cái gì trái ý thì nói thẳng, nên
mọi người gọi một cách trêu chọc là “Bố Già”, đứng nói oang oang:
- Tui yêu cầu người nào đẻ ra cái sáng kiến này, xuống
sân đội tui phơi giùm một bữa. Lâu nay tỷ lệ hao hụt do ban Cải tạo nông nghiệp
thành phố qui định là mười hai phần trăm, vậy mà thực tế ở đội tui phần lớn là
ruộng gò, có mùa tính bình quân tới mười ba mười bốn phần trăm. Đâu phải tỷ lệ
hao hụt ruộng nào cũng giống ruộng nào. Ruộng gò khác, ruộng nước khác, ruộng
tốt khác, ruộng xấu khác chớ. Lúa bị sâu rầy ám khác với lúa không bịnh hoạn
chớ. Đó là tui chưa nói tới lúa phơi mùa nắng khác với lúa phơi mùa mưa. Mùa
vừa rồi mưa liên u liên minh cả nửa tháng trời, lúa phơi không kịp, để trong
kho muốn nức mộng, thử hỏi làm sao tỷ lệ hao hụt không cao được? Người nào làm
ruộng lâu năm mà không biết được những cái lắt léo như vậy thì tui đề nghị hợp
tác xã cấp tiền tàu xe chở họ vô nhà thương điên Biên Hòa cho rồi.
Mọi người vỗ tay và òa lên cười một cách khoái trá. Riêng
có hai người không những không cười mà còn nhăn mặt khó chịu. Đó là ông phó đoàn
thanh tra và anh trưởng ban Kiểm soát.
Tiến Hơn đứng lên, gằn giọng nói:
- Nếu nói như ông Bá thì tui hỏi tại sao mùa vừa rồi tỷ
lệ hao hụt ở mấy kho kia lại thấp hơn kho hợp tác xã? Như vậy vấn đề tham ô đặt
ra ở đây là đúng hay sai?
Tiến Hơn định nói tiếp thì Ba Thảnh đâm ngang:
- Nếu anh đặt vấn đề tham ô ở đây thì tại sao trong bản
báo cáo kiểm kê thanh quyết toán cuối
năm vừa rồi, ban kiểm soát các anh không đặt vấn đề và kiến nghị lên trên? Đợi
cho đoàn thanh tra về các anh mới hô hoán lên, như vậy liệu có trung thực
không?
Tiến Hơn cãi lại:
- Anh nên nhớ rằng lúc đó tui còn làm đội phó đội Bốn,
tui chưa nắm vững vấn đề.
Ông Sơ mỉm cười, gật gật đầu rồi sửa lại cặp kính lão và
lẹ tay ghi vô quyển sổ công tác: “Chủ tịch và chủ nhiệm dùng quyền hành trấn áp
người phát hiện tham ô.
Tư Mẫn cũng cười nhưng ý nghĩa khác hẳn nụ cười của ông
Sơ. Ông lên tiếng:
- Vấn đề tổ thanh tra tổ chức phơi mẫu thì các đồng chí
đã nghe các đội phát biểu rồi đó. - Ông nhìn về phía anh Được, đội trưởng đội
Một: - Còn đồng chí Được có ý kiến gì
không?
Anh Được có tiếng người rất tiết kiệm lời nói, lên tiếng:
- Tui nói vắn tắt thôi. Dẹp cha cái trò làm lãng phí công
điểm đó đi. Ruộng đương cần người gặt, cần cán bộ hợp tác xã tăng cường coi
gặt. Mấy ông có giỏi cứ “thực tế” đi.
Đội trưởng đội Hai biết là tới phiên mình, không đợi ai
nhắc, tiếp lời:
- Theo ý tui thì không nên lập một tổ phơi mẫu ở sân
chánh mà nên lập mỗi sân phơi của đội một tổ. Như vậy nó “cụ thể” hơn.
“Bố Già” xì một tiếng, vẫn giọng ong óng.
- Anh muốn “cụ thể cụ thao” thì anh cứ lập. Tui nhứt
quyết phản đối chuyện này.
- Tui cũng vậy.
- Tui cũng đồng ý với ông “Bố Già”.
- Anh chống lại việc làm của đoàn thanh tra hả?
- Tui hổng chống ai hết. Tui chống cái không đúng thôi.
- Phải…
Mọi người cứ tranh nhau nói. Trên bàn chủ tọa: Ba Trung,
Tư Mẫn, ông Sơ ngồi nhìn hết người này tới người khác. Ba Trung vỗ vỗ tay xuống
bàn rồi lên tiếng:
- Đề nghị các đồng chí ổn định trật tự. Chúng ta làm việc
có tổ chức, có chỉ đạo, chớ không phải ai muốn làm thì làm, không muốn thì
thôi. Vừa rồi các đồng chí phân tích rất cụ thể vấn đề phơi mẫu. Trong buổi họp
này, có đồng chí phó đoàn thanh tra, tui đề nghị đồng chí cho biết ý kiến.
Ông Sơ gấp quyển sổ công tác lại, lấy giọng nói:
- Vấn đề này không phải cá nhân tui chủ trương mà đây là
ý kiến tập thể của đoàn thanh tra, có chỉ đạo của trên. Ta làm gì cũng có sự lãnh đạo của Đảng, như các đồng chí
biết. Vì vậy, tui sẽ ghi nhận ý kiến của các đồng chí để báo cáo lại cho tập
thể quyết định.
Thoạt nghe ông Sơ phát biểu, Tư Mẫn đổ quạu, nhưng liền
sau đó nét mặt ông trở lại bình thường. Ông nói:
- Tui xin thưa với đồng chí là tình hình thực tế ngoài
đồng lúc này cần phải chạy đua với thời gian để còn kịp làm vụ tám. Nếu trễ vụ
thì mất mùa, mà mất mùa thì dân đói đã đành, nhà nươc cũng bị ảnh hưởng lây.
Tui mong đồng chí sử dụng quyền hạn của mình để giải quyết dứt điểm vấn đề này
rồi báo cáo với trên sau.
Ông Sơ cầm cây viết bic ba màu xoay tròn trên đầu ngón
tay vừa nói:
- Nếu các đồng chí cho tui sử dụng quyền hạn thanh tra
của mình thì tui xin lưu ý với các đồng chí rằng: các đồng chí đã sai phạm
nguyên tác quản lý khá nhiều. Đây là nhận xét sơ bộ của tui trong mấy ngày kiểm
tra sổ sách, giấy tờ và các thứ vừa rồi. Tại sao tui nói vậy? Bởi vì tui muốn
các đồng chí nên luôn nhớ rằng tập thể lãnh đạo, cá nhân thực hiện và chịu
trách nhiệm về việc này. Các đồng chí thống nhất như thế thì ta cứ thế mà làm thôi.
“Bố Già” bật cười trước khi giơ tay lên nói:
- Tui xin có ý kiến. Ông thanh tra nói vậy thì tụi tui
nghe vậy. Vả lại ở mỗi đội đều có hội đồng thu hoạch gồm cả đại diện ban kiểm
soát, ban quản trị, ban chỉ huy đội rồi đại diện xã viên. Mỗi ngày gặt bao
nhiêu, phơi bao nhiêu, tỉ lệ hao hụt bao nhiêu đều có lập biên bản hết. Chừng
đó con người ta thì không cách nào gian lận được hết. Và ai đã ký tên mình vô
biên bản thì phải có trách nhiệm với chữ ký của mình. Tui xin hết.
Cuối cùng ông Sơ nói lấp lửng:
- Ừ, các đồng chí ý thức được trách nhiệm của mình thì
tốt quá đi chớ. Thôi, các đồng chí cứ thế
mà làm…
7
Kiểm kê các kho đã xong. Lúa tồn với biên bản kiểm kê
thanh quyết toán cuối năm và các chứng từ xuất lúa thưởng, lúa chăn nuôi heo,
hụt mất năm trăm kí. Về phân bón và thuốc trừ sâu căn cứ trên mặt cân cũng
thiếu. Côn chịu trách nhiệm về phần lúa, còn phần kia ông Năm Già chịu. Côn ký
vô biên bản rồi nhìn mặt ông Sơ, nhìn mặt ông Phấn, tới nhìn mặt Đoàn Bê. Cả ba
người đều không nói với anh ta tiếng nào. Nhưng sau đó, Đoàn Bê đã gặp riêng
Côn. Ông hỏi:
- Chú mày tính sao?
Côn trả lời tỉnh bơ:
- Lúa phơi không kỹ trước khi nhập kho. Để lâu ngày trong
đó nóng quá, nó bốc hơi mới hụt chớ sao.
Đoàn Bê cười khinh khỉnh:
- Mày có thể qua mặt được tao chớ không qua mặt được đoàn
thanh tra đâu. Họ sẽ còng đầu mày.
Côn chống chế:
- Tại chú không biết chớ, theo qui định cho phép mức hao
hụt của kho là một phần trăm.
Đoàn Bê lại cười khẩy:
- Sao mày không nói mười phần trăm. Mày nên nhớ tao đã
từng làm thủ kho rồi.
Im lặng. Côn nhìn Đoàn Bê. Đoàn Bê nhìn Côn. Cả hai cái
nhìn dò ý, chờ đợi. Đoàn Bê lên tiếng:
- Mấy ảnh muốn gặp mày.
- Gặp làm gì, chú?
- Còn hỏi, tùy mày định liệu. Việc của mày chớ phải việc
của tao đâu?
Trưa hôm đó, Côn thịt con gà mái đương chịu cồ mà bà mẹ
vợ đã cho thằng con anh ta làm vốn. Thằng nhỏ mếu máo khóc:
- Ba cắt cổ nó, nó không còn đẻ cho con mấy con gà chút
xíu xiu nữa.
- Gà này là gà cồ, con biết không, nó không đẻ được đâu.
Mình làm thịt ăn cho sướng.
- Không. Gà của ngoại cho con. Con mét với ngoại cho coi.
Côn dỗ dành thằng nhỏ:
- Bữa nào ba mua cho một con gà đẻ trứng vàng, được chưa?
Thằng nhỏ ngồi xổm cạnh Côn, chăm chú nhìn bàn tay anh ta
thoăn thoắt nhổ lông con gà, tỏ vẻ thèm thuồng:
- Chút nữa ba cho con cái đùi nghe ba.
- Con nít ăn đùi mắc xương. Để ba cho con miếng huyết.
- Không, con không chịu ăn huyết
đâu, gớm lắm.
- Ừ, không huyết thì gan. Mà nghe ba
dặn đây. Chút nữa có mấy bác tới nhậu với ba, ba cho gì ăn nấy, không được đòi
cái này cái khác, nghe chưa?
Trong bữa nhậu, thằng nhỏ không biết
nghe lời cha, cứ đòi đủ thứ, khiến Côn bực mình. Anh ta nạt, mắng nó hư. Nó
giận lẫy, khóc không thèm ăn. Nhưng với mấy bác, thì Côn gấp hết miếng thịt này
tới miếng thịt khác bỏ vô chén họ. Và mấy bác đòi thứ gì Côn cũng gật đầu lia
lịa.
***
Sáng nay, Tiến Hơn bước vô văn phòng
Ban quản trị với vẻ mặt vui sướng của người vừa trúng số đề. Anh kéo ghế ngồi
trước bàn làm việc của Huy, thân mật rút thuốc đốt mời Huy:
- Cho mình hỏi thử đội Bốn vừa rồi
nhận lúa thưởng bao nhiêu?
Huy đương vật lộn với những con số
trên máy tính, liên quan tới các khoản chi phí sản xuất trong năm 1981 mà ban thanh
tra yêu cầu chứng minh cụ thể. Anh ta nghe Tiến Hơn vừa hỏi, vừa gắn điếu thuốc
lên môi mình, liền nghỉ tay hỏi lại:
- Lúa thưởng năm nào? Riêng ban chỉ
huy đội hay cả đội?
- Thì mùa vừa rồi đó. Tính chung
hết.
- Chính ông đã trực tiếp kiểm soát
việc cân lúa thưởng, sao còn hỏi nữa? Có việc gì cần không?
Tiến Hơn lấy quyển sổ công tác năm
1981 từ túi xách ra, lật những trương cuối nhìn qua nhìn lại rồi nói:
- Tui ghi rành rành đây. Lúa thưởng
cho đội Bốn gồm: ban chỉ huy đội 120 ký, toàn đội 500 ký và các xã viên tiên
tiến 400 ký. Tổng cộng một tấn mốt. Vậy mà hôm qua tay Biên nói với tui đội Bốn
chỉ lãnh tất cả có 900 ký. Nhờ ông coi lại chứng từ lưu có đúng không?
- Gấp lắm không?
- Gấp chớ. Vì chuyện phát lúa thưởng
có liên quan tới tui, như ông biết đó.
Huy đứng dậy, mở tủ. Anh ta biết lúa
xuất thưởng nằm trong tập cùi lưu của tháng giêng năm 1982, cất bên góc trái
ngăn tủ chót. Là người quản lý hồ sơ giỏi, lại có trí nhớ tốt, Huy nhớ không
lầm chỗ để của tập cùi lưu này. Vậy mà nó biến đi đâu rồi? Mới hôm qua, anh còn
lấy ra coi lại số lúa chăn nuôi heo đã xuất cho một xã viên ở đội Ba. Anh kéo
hết hồ sơ trong tủ ra, tìm đủ chỗ, không thấy. Hỏi mấy cô nhân viên, không ai
lấy. Có thể đưa lầm cho bộ phận kiểm tra sổ sách của đoàn thanh tra. Không. Vì
đoàn chỉ kiểm tra sổ sách, chứng từ từ năm 1981 trở về trước. Những hồ sơ này
anh đã để riêng, mỗi khi họ lấy hoặc trả đều có biên lai đàng hoàng. Vậy nó nằm
ở đâu? Không lý có người mở tủ lấy trộm? Mà lấy để làm gì? Huy bực mình, cau có
với mấy cô nhân viên:
- Mấy cô làm ơn tìm thử nó có lạc
trong hộc bàn, hộc tủ của mình không?
Tiến Hơn tỏ vẻ thông cảm với sự bực
tức của Huy, anh ta rút thêm một điếu thuốc đốt chìa ra cho Huy và nói:
- Hút thêm điếu nữa để lấy lại bình
tĩnh. Tìm chưa ra thì thôi.
Ông cho mình mượn sổ cái ghi xuất hàng ngày cũng được.
Ông cho mình mượn sổ cái ghi xuất hàng ngày cũng được.
Huy vẫn còn hy vọng tập cùi lưu nó
lạc đâu đó. Anh ta nói với cô kế toán phụ trách vật tư:
- Cô cho ông Hơn mượn quyển sổ cái
xuất đi.
Tiến Hơn ôm chầm lấy quyển sổ cái về
lại phòng, cười đắc thắng một mình.
***
Cùng thời điểm Tiến Hơn mời Huy điếu
thuốc thì ông Sơ, ông Phấn và Đoàn Bê ùa vô nhà ông Năm Già như một cơn lốc. “Cơn
lốc” làm chao chén thuốc bắc mà ông Năm Già đương cầm trên tay chưa kịp uống.
Ông để chén thuốc xuống chiếc đẩu trụi kê sát giường nằm ở nhà dưới, đưa mắt
chào:
- Các đồng chí tới chơi? Mời ngồi.
Đoàn Bê cười cười:
- Chúng tôi tới làm việc chớ hổng
phải tới chơi.
- À! Té ra mấy ông….
Đoàn Bê ngắt lời ông Năm Già nói luôn:
- … trong đoàn thanh tra. Đồng chí Sơ phó đoàn, đồng chí
Phấn cán bộ thanh tra.
Ông Năm Già vui vẻ hỏi:
- Còn ông, sao hổng giới thiệu luôn?
Đoàn Bê bị ông Năm Già hỏi chận họng. Không ai biết tẩy
của ông hơn ông Năm Già, nên xửng lửng. Ông Phấn vội đỡ lời:
- Đồng chí Bê cũng là thanh tra ở xã. Cả ba chúng tôi tới
đây, đồng chí phải hiểu là có việc quan trọng chứ?
Ông Năm Già vẫn giữ thái độ bình thản;
- Ông Bê mà cũng là thanh tra hở, ngộ hông? Tui hổng biết
việc quan trọng tới mức nào, nhưng mấy ông phải biết là tui đương bịnh mà.
Ông Sơ nhìn mặt ông Năm Già, nhếch mép cười:
- Tụi tui đã gởi giấy mời đồng chí đến hai lần, lên văn
phòng hợp tác xã làm việc, nhưng đồng chí không chấp hành.
- Bữa nay mấy ông tới tận nhà bắt tui?
Ông Sơ cảm thấy ông Năm Già tỏ thái độ thách thức. Ông
nghĩ nếu mình làm căng với lão theo “phương án 1” như đoàn đã bàn định trước
khi tới đây, thì có thể bị phản ứng từ phía những người bênh vực chúng nó và như vậy đoàn sẽ mang tiếng.
Ông ta làm ra vẻ xởi lởi:
- Đồng chí Năm à. Chúng ta đều là đồng chí với nhau cả.
Nói cho vui vậy thôi chớ tui nào dám trách đồng chí. Tui biết đồng chí bịnh mà.
Hôm nay tụi tui tới đây có hai mục đích. Một là thăm sức khỏe đồng chí. Hai là
đề nghị đồng chí cho chúng tôi biết vài vấn đề liên quan đến vật tư của hợp tác
xã mà đoàn cần làm sáng tỏ. Đồng chí vui lòng giúp tụi tui.
Ông Năm Già ngồi đã lâu, cảm thấy chóng mặt, ngả lưng nằm
xuống giường và nói một cách đau đớn:
- Xin lỗi mấy ông… Đầu tui nặng như đá… Tui gượng hết
nổi…
Ông Năm Già nhắm nghiền đôi mắt, nhăn mặt cố dằn cơn đau.
Trước mặt ông những chuỗi đom đóm cứ nhấp nha nhấp nhánh. Nó quay tròn, quay
tròn, quay tròn… Ông nghe mang máng bên tai:
- Tay này giả đò khéo thiệt.
(Không. Tao không
giả đò. Mày không được quyền nghi ngờ tao…).
- Lão bày kế hoãn binh vì chưa sửa xong các chứng từ xuất
nhập cho hợp lý.
(Tụi mày nghi ngờ tao
thông đồng với ban Quản trị để tham ô phải hông?).
- Ta cứ hành động theo “phương án 1”.
(?...?...?...)
- Các đồng chí chớ vội. Ta kiên nhẫn chờ một tí xem sao.
(Ờ, tụi mày cứ ngồi
đó chờ. Những thứ độc hại đó câu kết lại thành một hòn đá tảng đương đè nặng… Trời
ơi!..).
Và “hòn đá tảng” đó đương đè trên ngực ông Năm Già. Ông
thở một cách khó nhọc. Thầy thuốc nói ông đã hít chất độc của thuốc trừ sâu quá
nhiều nên “hỏa vọng lên đầu”, sanh ra cảm giác như vậy. Hôm qua, Ba Trung và Tư
Mẫn tới thăm ông, hai người khuyên ông nên đi bịnh viện. Ông không chịu vì xưa
nay ông chưa hề đụng tới một viên thuốc tây. Hợp tác xã đã xuất quỷ phúc lợi
cho ông năm mươi ký lúa để phụ thêm tiền thuốc thang. Ông em vợ của ông, một
thầy thuốc bắc có tiếng, nói ông cứ hốt thuốc uống cho lành bịnh, tiền bạc khỏi
lo. Sáng nay, vợ ông lên hợp tác xã…
Lợi dụng lúc ông Năm Già đương lên cơn đau, Đoàn Bê khều
ông Phấn ra ngoài nói:
- Quần chúng báo cho tui biết tay Tư Mẫn lẫn tay Ba Trung
sáng hôm qua ở đây. Sáng nay tui lại thấy vợ lão quảy gánh lên kho lúa…
(Tao có ăn trộm, ăn
cắp của ai đâu?)
- Đồng chí Năm, đồng chí Năm…
(Cái thằng “đào
ngạch” chun lại Đảng, không đáng mặt đồng chí của tao).
- Lão đang mê sảng, ăn nói hồ đồ, như vậy ta dễ dàng hành
động hơn, đồng chí đồng ý chớ?
Ông Sơ và Đoàn Bê ngồi nhìn chăm chăm vô khuôn mặt hốc
hác, mệt mỏi của ông Năm Già. Ông Phấn bỏ ra ngoài lấy hai cái bao đựng phân để
trên yên sau xe đạp mà Côn đưa cho ông ta mượn sang nay. Côn cho biết tất cả
cùi lưu phiếu xuất nhập kho vật tư từ lúc thành lập hợp tác xã tới khi ông Năm
Già nghỉ bịnh đều nằm trong tủ thờ ở nhà trên. Chiếc chìa khóa tủ thờ đương nằm
trong túi áo ông Phấn.
- Sao, đồng chí phó đoàn quyết định đi chớ.
- Hay ta chờ vợ ông ta về?
- Đồng chí không giữ vững lập trường gì hết. Dầu sao tôi
cũng quá thừa kinh nghiệm đối với mấy tay thủ kho khi có “vấn đề”. Tại sao hôm
qua ông ta tiếp được Ba Trung, Tư Mẫn cả buổi? Vậy mà khi đối mặt với chúng ta,
ông ta lại khéo đóng tuồng. Ta cứ hành động coi thử ông ta đau thật hay giả ắt
biết ngay.
Ông Phấn nói xong, lấy chiếc chìa khóa cất kỹ trong bóp,
mở cửa tủ thờ của ông Năm Già một cách tự nhiên như ở nhà mình. Ông ta nói:
- Hai đồng chí làm chứng giùm tôi nhé!
Cả ba cặp mắt nhìn dồn vô hộc tủ. Trong tủ không có sổ
sách giấy tờ gì ngoài hai gói thuốc bắc cột chung với nhau, một bộ đồ trà bằng
sành hình trái măng cụt, một thẻ nhang và vài thứ tạp nham khác.
Ông Phấn lật đật đóng cửa tủ lại rồi buông tiếng chửi thề:
- Đ. mẹ… “quần chúng” định chơi xỏ bọn này phải không?
Đoàn
Bê lúng túng trả lời:
- Mướn cha nó cũng không dám! Tui chắc tụi Tư Mẫn đã nắm
được ý đồ của ta nên báo cho lão kịp thời tẩu tán chứng cớ .
Ông Phấn hằn học nói:
- Làm sao tụi nó biết trước được nếu không phải ông hay
thằng Côn báo?
Lời nói của ông Phấn như một cái tát thiệt mạnh vô mặt
Đoàn Bê, Đoàn Bê giận đỏ mặt, hét lớn:
- Ông… ông nói vô căn cứ…
“Hòn đá tảng” đã rớt theo tiếng hét tức giận của Đoàn Bê.
Ông Năm Già từ từ mở mắt, dớm người ngồi dậy. Ông Sơ vội tới đỡ ông, vồn vã
hỏi:
- Đồng chí khỏe rồi chứ? Đồng chí làm tụi tui đứng tim.
- Cám ơn. Cứ vài bữa tui lại lên cơn một lần.
Ông Sơ bưng chén thuốc đưa tận miệng ông Năm Già.
- Đồng chí uống đi.
Ông Năm Già đỡ chén thuốc, nín thở uống một hơi, rồi phân
trần:
- Đồng chí là phó đoàn thanh tra phải hông? Đồng chí biết
đó. Tui đã đi theo Đảng ba mươi năm, năm lần bị thương ở mặt trận chưa chết thì
làm sao tui có thể “chết” ở cái kho vật tư đó được chớ. Hổng lẽ tui tự bôi đen
những cống hiến của mình cho đất nước bằng phân, bằng thuốc trừ sâu, bằng xăng
dầu hay sao? Lương tâm tui hổng cho phép vậy đâu…
Ông Sơ gật gật đầu:
- Tui hiểu, tui hiểu… Tụi tui không nghi đồng chí tham ô,
hoặc tiếp tay hay thông đồng với kẻ khác để tham ô. Nhưng vấn đề là thế này,
vừa rồi tụi tui kiểm kê kho và sổ sách bên kế toán thấy có hụt mất một số lượng
lớn xăng dầu và phân bón, nhất là phân urê. Tụi tui mời đồng chí lên văn phòng
hợp tác xã để xác minh lý do hao hụt, đồng thời cho tụi tui kiểm tra lại tất cả
những phiếu xuất mà đồng chí lưu lại khi cấp phát cho các xã viên, các đội.
Ông Năm Già gượng cười, nói:
- Các đồng chí có thắc mắc thì tui đề nghị hỏi ở kho vật
tư thành phố, tỉnh hay cao hơn nữa sẽ biết liền.
Ông Sơ nhíu mày nhìn ông Năm Già.
- Đây là công việc nghiêm túc mà đồng chí!
- Tui có nói đùa với đồng chí đâu. Xăng dầu khi hợp tác
xã lãnh thì được tính bằng tấn, tới khi phân phối cho các đội thì tình bằng
lít, như vậy đã sai lạc rồi, đó là chưa kể chuyện rơi vãi, hao hụt trong lúc
phân phát. Còn phân bón, ôi thôi, cứ mỗi kỳ kiểm kê thanh quyết toán cuối năm
là mỗi kỳ tui kiến nghị với cấp trên, cấp trên nữa để giải quyết, nhưng mình
thấp cổ quá, kêu hổng ai thèm nghe. Đồng
chí biết không? Chẳng hạn mỗi đợt kho nhận về hai tấn phân urê, họ tính chung
là bốn chục bao, nhưng thực tế mỗi bao đâu đủ năm chục ký. Hổng biết tụi Nhựt
nó ăn chận ăn bớt của ta hay bị rơi vãi dọc đường. Tui đề nghị các đồng chí
điều tra xác minh chỗ này. Lâu nay tui cũng có ý định xin nhà nước cấp cho một
cái giấy đi đường đặc biệt, tới tận nơi sản xuất phân urê để kiểm tra thử nó có
cân thiếu cho mình không…
Ông Năm Già nói xong rồi cười hăng hắc. Tiếng cười của
ông vọng vô tai của ông Phấn và Đoàn Bê. Lúc này hai người đương ở nhà dưới lén
lút lục lạo tìm chỗ ông Năm Già giấu giấy tờ kho. Đoàn Bê thì thầm vô tai ông
Phấn:
- Đồng chí thấy chưa? Lão già này giả đò thiệt mà.
- Đồng chí yên tâm. Ta sẽ vạch mặt lão.
Nói xong, ông Phấn giở cái nia đậy kín miệng thùng phuy,
một gói ny lông lớn hiện ra. Miệng gói úp xuống dưới, không thể moi ra để coi
là thứ gì, ông ta bèn lấy tay ấn vô đít gói căng tròn. Đúng là “nó” rồi! Ông ta
chắc mẩm, hí hửng nhón gót chân, khom người xuống đáy thùng dùng hai tay kéo
gói đồ ra. Loay hoay một đỗi mới lấy lên được. Mở miệng gói. Chưng hửng. Toàn
lá khô để làm thuốc nam!
- Lão tích trữ cái thứ quái quỉ này để làm gì nhỉ?
Ông Phấn thất vọng hỏi Đoàn Bê rồi bỏ lên lại nhà trên.
Ông Năm Già soi mói nhìn ông Phấn:
- Ông moi được cái gì để bắt tội tui chưa?
Ông Phấn làm bộ ngạc nhiên:
- Đồng chí nói sao? Tôi xem qua cơ ngơi của đồng chí một
tí cho biết mà.
Ông Năm Già cười cười, nói:
- Tui nghe có người nói mấy ông nghi tui trốn ở nhà để
cạo sửa chứng từ kho. Thiệt tức cười! Các ông thử khám xét hết nhà tui coi có
giấy tờ gì dính líu tới kho, tới hợp tác xã không? Đó, các ông cứ tự do khám
đi.
Ông Phấn trố mắt nhìn ông Sơ. Ông Sơ đưa mắt nhìn Đoàn
Bê. Đoàn Bê mải mê nhìn con mèo đương vờn con chuột nhắt ngoài sân. Ông Năm Già
uể oải chống tay nằm xuống giường và nói:
- Xin lỗi mấy ông…
Ông Phấn lật đật bước xấn tới giường hỏi:
- Thế, ông cất chúng ở đâu?
Ông Năm Già lim dim đôi mắt, trả lời qua hơi thở mệt
nhọc:
- Mấy ông cần việc gì cứ hỏi thằng Huy. Sáng nay, tui đã
nhờ vợ tui đem chìa khóa tủ đựng giấy tờ kho lên giao cho nó rồi.
8
Những “hộp thư góp ý” dãi nắng dầm mưa cả tháng trời mà “bụng”
vẫn trống trơn. Trong các sổ sách, chứng từ xuất nhập của hợp tác xã được kiểm
tra và xác minh của ban Thanh tra thành phố đã xong phần cơ bản, mà không tìm
ra dấu vết cụ thể nào để kết tội những người bị tố cáo, cụ thể là Ba Trung và
Tư Mẫn. Ông Sơ không còn trông mong gì ở những “hộp thơ góp ý”. Ông cũng nghi
ngờ vào sự “liêm khiết” của mấy cậu cán bộ trẻ tăng cường, phụ trách việc kiểm
tra phần hành kế toán do thành phố cử về. “Nhóm 7 D” của Bảy Diện cho ông biết đã
cử thằng Khả theo sát mấy cậu này coi thử có đi ăn nhậu hay nhận quà cáp gì của
“đối tượng”, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy điều đó. (Sau vụ xảy ra ở
nhà ông Năm Già, ông Sơ nghi ngờ lòng trung thành của thằng Khả. Ông cho nó là
thứ hai mang. Ông đã “thổi còi báo động” cho Đoàn Bê để cảnh giác và đề phòng,
nhưng ông nhận thấy không những Đoàn Bê mà cả Bảy Diện lẫn Tiến Hơn vẫn cứ tin
nó.
Bước một của công tác thanh tra coi như xong. Nhưng theo
ý kiến của vị cán bộ “lâu năm trong nghề thanh tra” sau khi nghiên cứu bộ
“TAC3T” của Đoàn Bê dày ngót năm trăm trương vở học trò, chữ viết li ti như
kiến bò và đầy lỗi chánh tả, đã khẳng định rằng: chỉ cần căn cứ bộ này cũng đủ
kết tội được Tư Mẫn, Ba Trung, kể cả Năm Thân... Muốn chắc ăn hơn, ta lấy ý
kiến công khai của tập thể quần chúng. Ông phó đoàn là người có tánh thận trọng
hơn ai hết, không nóng vội như ông Phấn và luôn luôn biết tranh thủ ý kiến của
cấp thủ trưởng, đã hội ý với bà trưởng đoàn - người chỉ đứng trên danh nghĩa và
có nhiệm vụ theo dõi trên giấy tờ và đôn đốc bằng miệng việc thanh tra. Bà
trưởng đoàn lại phê bình nhẹ nhàng ông phó đoàn không biết chủ động công việc.
Phương hướng công tác đã vạch sẵn, sao không cứ thế mà làm.
Vậy là bước thứ hai: phát động quần chúng phát huy quyền
làm chủ tập thể. Ngoài đồng, trong quán cà phê, quán nhậu, những tụ điểm số đề,
giữa chợ Nhỏ, trên đường làng đều cùng lúc rộ lên những tin đồn xoáy quanh các
sự kiện như: chín mươi phần trăm cán bộ, xã viên hợp tác xã đã ký tên trong bản
kiến nghị gởi lên trên không tín nhiệm ban quản trị và ban kiểm soát nhiệm kỳ
mới, vì tổ chức bầu cử gian lận. Ba Trung và Tư Mẫn sắp “đi nghỉ mát” vì tội
tham ô. Bảy Diện sẽ làm bí thơ xã trở lại. Đoàn Bê sẽ giữ chức chủ tịch ủy ban.
Tư Mẫn còn mắc thêm tội vu khống Đoàn Bê trước kia và Ba Trung là tình báo của
Mỹ được cài lại. Hợp tác xã có thể giải tán nay mai, ruộng ai trở về lại người
đó, mấy cha quản trị, kiểm soát đương nhiệm lúc đó chỉ còn nước gặm đất cục
ngoài đồng… vân vân và vân vân…
Tiếng đồn như một cơn lốc xoáy tròn và dựng đứng những
tin tức đó lên cao ngất, khiến mọi người trong xã hoang mang, nao núng không
biết dựa vô đâu.
***
Cánh đồng Vườn Bí nằm thở dốc dưới ánh nắng màu mỡ bò.
Đất quá mệt mỏi sau đợt gặt tăng vụ vừa rồi . Xã viên ra đồng không sôi nổi,
háo hức như mấy mùa vừa rồi mà uể oải, trì trệ giống như thời kỳ mới thành lập
hợp tác xã.
Đáng lý người ta đã cày phá rạ sau khi gặt xong để chuẩn
bị mùa tới, nhưng tới giờ những gốc rạ vẫn còn làm tắt nghẽn mạch đất. Đất ngộp
thở, không đủ kiên nhẫn chờ đợi lưỡi cày xới lên, giải thoát. Đất phải quặn
mình, làm nứt những đường kẽ để tự cứu lấy mình. Qua những kẽ hở này, ban đêm
đất hít không khí trong lành, ban ngày lại tiết ra để có thể sống cho tới ngày
con người trở lại với đất…
Cánh đồng Vườn Bí lặng im như thóc, chờ đợi.
***
… Em Lan ơi, tội tình chi mà em phải
dọa đày… Ba Búa từ lò gạch về tới gần nhà đã nghe văng vẳng tiếng ca sáu câu của
vợ. Hừ! Tội tình hay tội lỗi? Từ ngày đi tập trung cải tạo ở Đồng Găng về, hắn
nghe thiên hạ xì xầm Loan-khểnh lăng loàn với một tay cán bộ xã. Vài lần Ba Búa
truy Loan-khểnh, nhưng cô nàng một mực chối ngang. Cô nàng cú vô đầu anh như
người mẹ cú đầu đứa con, rồi âu yếm ngầy: “Cưng là đàn ông mà cứ ghen bóng ghen
gió hoài. Cưng coi, bọn đàn bà con gái xóm này có ai ưa em đâu. Tụi nó ghen
ghét những ai má phấn môi son, ăn ngon bận đẹp, nên đặt đủ điều nói xấu em mà
cưng cũng nhẹ dạ tin theo hà?” Liền sau đó, cô nàng hờn dỗi, khóc tức tưởi để
cho Ba Búa mặc sức dỗ dành, năn nỉ…
Nhưng chiều nay, chính miệng Thái Ngươn - ủy viên ban
kiểm soát đã nói toạc cho anh biết tên cán bộ hủ hóa với vợ anh là ai! Thằng
này cậy quyền o ép, cưỡng hiếp vợ hắn. Nó dọa vợ hắn không cho nó thỏa mãn sanh
lý thì nó sẽ đưa đi kinh tế mới…
Ba Búa càng căm phẫn hơn khi Thái Ngươn cho hắn biết
rằng: sở dĩ thằng Ba Trung can thiệp với Tư Mẫn để cho anh làm thợ phụ đốt lò,
vì nó muốn có cơ hội thuân tiện để tiếp tục đi lại với Loan-khểnh. Lâu nay tụi
nó thông đồng với nhau để bịt mắt mình. Phải vạch mặt nó ra cho mọi người thấy.
Cái thằng giả danh cách mệnh. Phải tố cáo nó cho đoàn thanh tra biết để có bằng
chứng cụ thể buộc tội nó… Tối nay đoàn thanh tra sẽ họp dân để đem nó và Tư Mẫn
ra đấu tố. Thái Ngươn nói với Ba Búa: “Tội lỗi của nó thì đoàn thanh tra đã nắm
hết rồi, tối nay mấy ảnh ở trển chỉ chờ mày nói lên tiếng nói xác
nhận những điều tao vừa cho biết là đúng sự thực thì “a-lê-hấp” nó sẽ bị còng
đầu liền. Đấu tố theo kiểu cộng sản chớ đâu phải chuyện chơi! Còn chuyện đi
kinh tế mới, “bứng” tụi nó rồi thì mày khỏi lo. Nhưng mày không dám tố thì…”.
Thái Ngươn bỏ lửng câu nói.
Ba Búa đạp tung cửa vô nhà, thấy mâm cơm đã dọn sẵn trên
bàn và Loan-khểnh đương nằm tênh hênh trên giường trong bộ đồ “soie” bông màu
vàng khêu gợi. Mặc dầu đương đói, nhưng nỗi uất ức và căm giận đã làm bụng nó căng
cứng. Nó không còn nghe mùi thơm của dĩa thịt bò xào bắp cải và mùi dầu thơm rẻ
tiền từ người Loan-khểnh toát ra. Nó không thèm nhìn Loan-khểnh, nói cộc lốc:
- Muốn tội tình chi, bữa nay tao cho mày biết.
Loan-khểnh nguýt nó một cái rồi nói:
- A! Lại ghen bóng ghen gió nữa rồi phải hông?
Ba Búa lồng lên như con hổ dữ:
- Đ. mẹ, lâu nay mày lăng loàn với thằng Trung chủ tịch
mà giấu tao phải hông?
Loan-khểnh tỏ ra bình tỉnh
- Xí! Lại nghe lời con đĩ chó nào đó?
- Đ. mẹ, không nghe lời ai hết. Người ta đã chụp được
hình mày trần truồng…
Loan-khểnh ngồi phắt dậy, cười sặc sụa:
- Cưng ơi! Em đã nói với cưng bao nhiêu lần rồi… Đứa nào
đặt điều đặt chuyện, sao ông bà không bắt nó trẹo cuống họng cho rồi.
Ba Búa nghiến răng, nói:
- Hừ! Đặt điều. Rồi tụi mày sẽ sáng mắt ra.
- Này, tui nói cho mà biết. Ông nói thiệt hay nói giỡn
đó? Đổ tội oan cho người ta, không khéo có ngày đi tù lại, con này không thèm thăm
nuôi nữa đâu nghe.
- Tao đ. cần mày nữa. Mày là con rắn độc!
Loan-khểnh thách thức:
- Có thiệt không cần hay rồi năn nỉ. Thử nói một tiếng
đi.
Con rắn độc trườn
mình tiến về phía Ba Búa một cách kiêu hãnh. Trước thái độ đó, Ba Búa vừa kinh
tởm, vừa thèm muốn như mọi lần.
Nghĩ cho cùng, nó chỉ là nạn nhơn. Kẻ gây ra tội lỗi chính
là thằng Trung. Thằng Trung, đ. mẹ mày sẽ biết tay tao! Ba Búa trân người khi
xiết chặt Loan-khểnh trong tay…
***
Buổi họp dự định bảy giờ rưỡi bắt đầu, theo thông báo đã
trừ hao nửa tiếng, nhưng tới giờ vẫn còn thưa người. Thái Ngươn sực nhớ tối nay
nhằm buổi xổ số được trực tiếp truyền thanh. Bà con đương chờ nghe kết quả xong
mới chịu đi họp. Anh ta cũng thấp thỏm muốn biết số đầu và số đuôi ra con gì.
Sáng nay anh ta đã ghi bao hết số “con ốc” cả đầu lẫn đuôi, vì tối qua nằm mơ
thấy anh đương ngủ với ai giống Loan- khểnh.
Ba Búa ngồi thu lu trong xó hiên trường học, liên tục hút
thuốc, hết điếu này tới điếu khác. Bữa nay Loan-khểnh trúng mánh chợ trời, đã
mua cho nó một bao Samit. Nó đã năn
nỉ Loan-khểnh, sau khi đã thỏa mãn sinh lý, cho nó biết sự thực về chuyện “bồ
bịch” với Ba Trung, nhưng cô nàng thề thốt không có “chuyện mèo đẻ trứng” đó và
đòi uống thuốc trừ sâu tự tử để bảo vệ danh dự. Cô nàng dọa, nếu nó nhắc lại
chuyện này một lần nữa, thì sẽ đi tố cáo với Ba Trung về tội vu khống. Nghĩ cho
cùng, nó không muốn vô tù trở lại, không muốn đi kinh tế mới hoặc sống mà thiếu
hơi Loan-khểnh. Cô nàng có ra sao đi nữa cũng là chỗ dựa tốt nhứt của cuộc đời nó,
trong lúc sa cơ thất thế cũng như khi phất lớn. Nó đương phân vân không biết ai
thiệt, ai giả thì bỗng có ngọn đèn pin rọi thẳng vô mặt.
- Ông nội trốn đây mà tui kiếm quá trời.
Té ra là Thái Ngươn. Ba Búa hỏi:
- Sao chưa họp cho rồi?
- Chờ đông đông một chút nữa. Lát nữa mày cứ mạnh dạn
“đấu tố” nghe. Không có mặt bọn nó đâu, đừng sợ. Ở trên đã tính toán hết rồi. Người ta cấm bọn nó tuyệt đối không
được có mặt trong các buổi phát huy quyền làm chủ tập thể của nhơn dân, cốt để
nhơn dân có quyền tự do “đấu tố”. Mày cứ mạnh dạn, mạnh dạn, mạnh dạn. Nhớ
nghe!
Mặc dầu Thái Ngươn bơm cho chút ít khí thế, nhưng Ba Búa
vẫn cảm thấy mình hình như mất hết sanh lực. Điều mong muốn của nó lúc này là
được coi tấm hình mà Thái Ngươn đã hứa hồi chiều. Khi nó hỏi tới, Thái Ngươn đột
nhiên lúng túng.
- Hình gì? Ờ… ờ… tao có hỏi ông Bê mượn cho mày coi một
chút, nhưng ổng nói chỉ có một tấm độc nhứt, đoàn thanh tra đương giữ. Đây là
tài liệu tối mật, cực kỳ quan trọng nên không thể cho người không có trách
nhiệm coi được. Tiếc thiệt! Mà mọi chuyện đều có bằng chứng hết rồi, chỉ còn
chờ mày lên tiếng nữa là “a-lê-hấp”… Mày hiểu ý mấy ảnh chớ?
Ba Búa trầm ngâm, ngửa mặt rồi há miệng bật ra từng hơi
thở một, điều khiển từng làn khói thuốc uốn thành hình số 8 một cách điêu
luyện. Thái Ngươn bỏ đi tìm những “con gà nhà” khác để nhắc nhở đôi điều cần
thiết trước khi vô buổi họp. Trước khi đi, anh ta hỏi xin Ba Búa điếu thuốc. Ba
Búa đưa cho anh ta một điếu Mai thay
vì điếu Samit như ý định sau khi không thấy được tấm hình. Khi thấy điếu
thuốc không có đót, Thái Ngươn chưng hửng, đành nuốt giận mà lấy. Anh ta vừa
đi, vừa vân vê điếu thuốc cho nát ra rồi liệng vô bóng tối và buông tiếng chửi
thề:
- Đ. mẹ, nếu không biết điều thì mày chết với tao!
Trong lúc này, đội trưởng đội 4 tuyên bố buổi họp bắt
đầu. Ba Búa cảm thấy bồn chồn trong bụng. Thằng
đó - con rắn độc. Con rắn độc - thằng đó. Tấm hình hai đứa trần truồng. Giả -
thiệt. Thiệt - giả. Ở tù. Đi kinh tế mới. Tố cáo nó thì khỏi đi kinh tế mới. Mạnh
dạn lên… Những hình ảnh, những ý nghĩ đó như những mũi dùi nung đỏ xoáy lia
lịa vô tận ruột gan của Ba Búa. Anh ta không thể ngồi nán lại thêm một giây
phút nào nữa. Nó phải đi, phải đi liền…
Lợi dụng đêm tối, Ba Búa lẻn ra sau sân trường. Không may cho nó. Có một nhóm người
đương ngồi chum nhum sau bức tường cuối dãy phòng học, thì thầm với nhau. Vốn
là người quen đi đêm, anh kịp nhận ra dáng của Bảy Diện, Đoan Bê, Tiến Hơn, Khả
và hai người lạ mặt khác. Nó giả đò ôm bụng, vừa đi vừa lên tiếng:
- Đ. mẹ cái bụng, hổng biết ăn nhằm thứ gì đau đ. chịu
được.
Nó nhảy vội qua hàng rào, ba chưn bốn cẳng chạy thăng về
nhà như một con trâu điên.
***
Đã nửa đêm, trời tối đen như mõm chó. Những người xách
đèn lồng đi họp về, khi ngang qua hàng dừa sau nhà Ba Búa, bỗng có người nghe
tiếng rên i ỉ.
- Giống gì rên nghe thảm thiết vậy bay?
- Í a! Ma khóc…
Vài người nhát gan ù chạy. Vài người đứng lại nghe ngóng.
Đêm thanh vắng, tiếng rên càng nghe rõ hơn.
- Con đĩ cái đó bị chồng đánh, nó rên chớ ai. Về đi, kệ
cha nó.
Mọi người thì thầm với nhau.
- Hổng phải, tui nghe tiếng rên của đờn ông. Gần đây
thôi, đi kiếm thử.
Người vừa nói xách đèn đi tìm.
- Trời! Tụi bay ơi. Ai như lão Ba Rền… Anh Ba, anh Ba…
Người được nhận ra là lão Ba Rền chỉ bận độc cái quần xà
lỏn, nằm quặp người dưới đất, ngay gốc dừa có đóng tấm bảng “DÙA CÓ CHỒNG, CẤM
LEO”. (Không biết ai chơi ngẵng, thêm dầu “huyền” trên đầu chữ Ô).
- Anh Ba, sao nông nỗi như vầy? Ai đi kêu giùm thằng Hơn.
Cặp mắt của lão Ba Rền sưng ú, thâm tím như da bồ quân.
Môi cũng sưng. Máu mũi chảy ra dính đầy râu.
- Anh Ba, ai đánh anh vậy? Mà giờ này anh đi đâu cho ra
nông nổi.
Không có tiếng trả lời. Chỉ có tiếng rên phát ra theo hơi
thở nặng nhọc.
- Ổng trèo “dừa có chồng” bị té chớ ai dám đánh ổng.
- Câm mẹ cái miệng thúi đi! Chớ có gièm pha trước sự đau
đớn của người khác. Tới giúp tui một tay dìu ảnh về, mau lên.
***
Hai ngày sau, Ba Rền chết một cách âm thầm. Người nhà
phát hiện ra là lão đã uống hết chai thuốc rầy mà thằng Côn đem lên cho Tiến
Hơn ngày hôm trước. Người nhà giấu kín mọi chuyện liên quan tới cái chết của
lão, nhưng bên ngoài từ già chí trẻ đều biết vì sao lão tự tử. Đám tang của lão
có đủ trống, kèn, cờ, xí và những vòng hoa phúng điếu của mấy anh ở trển. Một đám
tang được mọi người công nhận là lớn nhứt trong xóm từ xưa tới nay.
9
Chuyện Bảy Diện làm lành với Hương Khâm lâu nay chẳng có
gì đáng ngạc nhiên. Càng ngày người ta càng thấy rõ đó chẳng qua là sách lược
của ông. Vụ kiện tụng về ruộng đất giữa ông với Hương Lâm chưa giải quyết xong,
mặc dầu mấy ảnh ở trển đã có ý kiến
với ủy ban xã là “nghiên cứu giải quyết trường hợp này theo đúng chánh sách”.
Nhưng theo ông, chúng nó câu kết với
nhau không chịu giải quyết dứt điểm mà còn muốn tước đoạt số ruộng riêng của
ông nữa. Số ruộng này, một mình ông không thể canh tác, mà bỏ không sẽ có cơ
hợp tác xã lấy ngay, nên ông phải dựa vô bà con trong họ. Ngặt nỗi, những người
trong phe ông không có lấy một đôi bò cày, mà người của phe Hương Lâm thì dư.
Muốn nhờ lính phải thân với quan. Vấn đề là ở chỗ đó. Còn chuyện xây
cất nhà thờ họ ở ruộng Gò Chùa theo đòi hỏi trước kia của phe Hương Khâm thì
khó mà thực hiện được trong lúc này. Bây giờ, hầu hết bà con trong dòng họ kiếm
được một đồng cũng phải chảy máu mắt, làm giỏi lắm thì đủ bỏ miệng, lấy đâu mà
đóng góp để xây cất. Cả hai phe đều thấy được điều này, nên không ai đá động
tới nữa dẫu trong câu chuyện hàng ngày, trong các buổi kỵ giỗ hay trong các kỳ
họp họ tộc. Bảy Diện muốn chứng tỏ cho họ tộc thấy mình là người biết điều, đã
rước bài vị của tổ tiên thờ ở nhà Hương Khâm lâu nay về thờ chánh thức ở nhà
mình. Thiệt ra, khi quyết định làm việc này, ông chỉ muốn gây thêm cho mình
điều kiện vững chắc để giữ hẳn miếng ruộng Gò Chùa. Nhưng khi bài vị của dòng họ
Thái đã an vị ở nhà ông thì một tin vui bất ngờ đến, ông nhận được tin thằng
con trai là bộ đội chuyển ngành, đương làm việc ở Nhà máy rượu bia Hà Nội, được
chọn đi Liên Xô để “hợp tác lao động”. Thiệt là đào trúng hủ vàng! Nếu trước
kia ông kịch liệt bài xích chuyện số mạng bao nhiêu thì tới giờ phút này ông càng
tin bấy nhiêu. Ông tin rằng cái sao… sao gì nhỉ? À, sao quả tạ chiếu xuống cung
thân của ông đã hết hạn rồi. Cuộc đời ông như vậy là bắt đầu sáng chói như sao
mai. Để tạ ơn các đấng tổ tiên và cũng để ăn mừng thằng con sắp được đi nước
ngoài, Bảy Diện quyết định lần này tổ chức đám giỗ họ đầu tiên ở nhà ông thiệt
linh đình.
Từ chiều hôm qua đã nhóm họ để chuẩn bị các thứ. Chi phí
cho đám giỗ họ lần này, trong họ chẳng ai có ý kiến hơn thua gì, vì một mình
Bảy Diện đã gánh gần một nửa. Con heo nặng gần trăm ký được đưa ra sông Quán
Trường cạo lông xẻ thịt. Sân nhà Bảy Diện được che mát bằng tấm vải dù của Thái
Dũng cho mượn để làm nơi đãi đằng. Bàn ghế được sắp xếp đâu vô đó. Những lá cờ
đuôi cheo cắm quanh sân gây thêm sự chú ý cho những người trong xóm, nhứt là
bọn con nít ngoài dòng họ Thái. Cũng đủ chiêng, đủ trống treo trước hiên nhà.
Đèn nhang sáng rực bàn thờ, khói hương tỏa nghi ngút. Mùi thơm bốc ra từ những
bát đĩa đựng đồ cúng sắp sẵn trên bàn thờ chờ giờ cúng hay còn để ngoài vườn, nơi
nấu nướng, chờ dọn lên đãi khách không những quyến rũ cả trung đội con nít mà
còn thu hút vô số ruồi nhặng. Biết trước điều này, trong khâu tổ chức, Bảy Diện
đã cắt cử nửa tiểu đội con cháu mười bốn mười lăm tuổi thay nhau làm nhiệm vụ
đuổi ruồi đồng thời canh chừng cả tiểu đội con nít bốc trộm thức ăn.
Sắp tới giờ hành lễ, Thái Ngươn đem một dây pháo dài hai
thước cột trước hiên nhà, đối diện với bàn thờ. Bọn con nít lẹ chưn rời chỗ nấu
nướng, bu quanh dây pháo. Thái Ngươn thủ sẵn cây roi tre trong tay, xua chúng
như xua bầy vịt. Lúc này, Bảy Diện đương lúng túng gài nút chiếc áo thụng xanh,
vì lần đầu tiên ông bận nó để làm chánh tế. Hương Lâm thấy vậy, bước tới gài
giùm. Khi Bảy Diện đóng xong lễ bộ, Hương Lâm đứng ngắm từ đầu tới chưn ra vẻ
hài lòng.
- Bây giờ cha thằng Rơi mới thiệt là giống anh Chánh hồi
còn sống. Giống “i-ta-li” từ gương mặt tới bộ tịch.
Hương Khâm đợi cho Bảy Diện vái xong, quay về phía Thái Ngươn
ra lệnh:
- Đốt pháo được rồi đó.
Tiếng pháo nổ rền trời, rồi tiếng chiêng tiếng trống nổi
lên báo cho cả xóm biết bữa nay là ngày giỗ họ Thái. Một họ lớn nhất, giàu
nhứt, có quyền thứ nhứt từ xưa tới giờ ở làng Phước Điềm.
***
Trong khi Bảy Diện quì trước bàn thờ họ tộc, hai tay cầm
ba thẻ nhang thơm chắp trước trán, chăm chú nghe Mười Trong xướng bản văn tế kể
công đức của tổ tiên dòng họ Thái từ đời cổ tỉ cổ lai tới đời chánh tổng ban,
thì cách đó ba chục thước, ngay trên con đường vô nhà ông, cha ông Năm Đẹt đương
ngồi bên chai rượu, dưới bóng tre vừa nhâm nhi vừa bới cả dòng họ Thái ra chửi.
Đây không phải là lần đầu ông Đẹt - tên cúng cơm của ông -
to gan lớn mật làm chuyện động trời như vậy. Có lửa mới có khói. Nếu dòng họ
của Bảy Diện có bề thế nhứt thì ngược lại, dòng họ của ông Đẹt mạt rệp nhứt.
Dòng họ ông Đẹt chẳng có gia phả, cũng chẳng có một cái họ theo đúng nghĩa của
nó. Ông không biết ông nội mình mang họ gì, nhưng trong giấy tờ thuế thân, sưu
dịch của cha ông mang họ Năm, một cái họ lạ đời không ai có. Lại một chuyện lạ
đời nữa. Mặc dầu ông tên Đẹt, nhưng tướng ông lại to cao như một người khổng
lồ. Người trong làng gọi ông là người Việt gốc voi, vì thời trai trẻ ông khỏe
như voi và chuyên sống bằng nghề khai thác gỗ trên rừng sâu. Tới bây giờ người
trong làng vẫn còn truyền miệng với nhau rằng: chính ông nội của Bảy Diện đã
cậy quyền cậy thể cướp hết ruộng đất của ông nội ông, bức hiếp cụ tới chết. Đời
cha ông phải chịu cảnh ăn tro mò trấu. Tới đời ông phải trả mối thù không đợi
trời chung này bằng cách mỗi năm tới kỳ giỗ họ Thái ông đều có hành động như
ngày hôm nay. Trước kia, những người trong họ Thái có chức tước quyền hành cỡ
như Thái Dũng cũng không làm gì được ông. Họ tin ông học được bùa ngải của
người Thượng, người Chăm, không dám đụng tới, sợ bị ếm bị thư. Bẵng đi một thời
gian rất lâu, bây giờ Năm Đẹt mới xuất hiện lại.
Bọn con nít, con cháu của họ Thái, đương bu quanh ông.
Thằng Tân, cháu nội của Bảy Diện, cầm viên pháo châm vô đốm lửa đầu que nhang
rồi liệng vô người ông. Năm Đẹt ngồi tỉnh bơ nhấp một hớp rượu rồi lên tiếng:
- Sắp bay về kêu cả dòng họ Thái ra đây cho ông biểu.
Bọn con nít vỗ tay cười rồi la ê… ê…
- Ông cố nội tụi bay đầu đội chậu máu, đít ngồi bàn chông
ở dưới địa ngục mà tụi mày ăn mừng được hả?
Thằng nhỏ con của Sáu Đường lượm cục đất ruộng liệng vô
người ông. Ông giơ tay bắt được cục đất, bóp nát nghiến. Bọn con nít giương mắt
ếch nhìn.
- Ông đương bóp nát đầu ông cố nội tụi bây đây. Kêu cả họ
nhà bay ra mà coi.
Năm Đẹt bậm môi, trợn mắt, lấy hết sức bóp chặt hai bàn
tay, bọn con nít thấy mà phát sợ. Rồi ông lại cất tiếng hú thảm thiết như tiếng
chó tru trong đêm khuya, nghe rởn tóc gáy. Bọn con nít sợ xanh mặt, cắm đầu cắm
cổ hè nhau chạy vô nhà Bảy Diện. Có đứa té đái trong quần, chạy không kịp bạn,
khóc rống.
Bảy Diện cúng xong, đứng lên quì xuống không quen, đã mệt
và đau đầu gối, lại càng mệt và đau thêm khi nghe sắp nhỏ và người lờn giành
nhau kể hành động phạm thượng tới dòng họ Thái của Năm Đẹt. Bảy Diện giận cành
hông, nạt lớn:
- Bọn bay, ra lôi cổ nó vô đây cho tao!
Có
nhiều tiếng can:
- Thôi, bỏ qua đi anh Bảy. Nó là thằng ó ma lai, không ai
dám đụng tới đâu.
- Đồ cái thứ chó cắn bậy, chấp nó làm gì cho mệt bác.
- Ông vua cũng thua
thằng liều. Hồi chú Bảy còn làm bí thơ nó có dám hó hé gì đâu.
Bảy Diện giận tới nổi tưởng mình còn
làm bí thơ thiệt, nghiến răng nói:
- Tao còng đầu nó đi chớ nó dám hỗn
hào với họ Thái này hả? Đứa nào đi kêu công an đi.
- Nó đâu có ngán công an. Tui đã nói
với anh là nó có bùa, đạn bắn không trúng.
- Có súng ở đây không? Đưa tao bắn
thử có bể đầu cha nó ra không chớ nói không trúng.
Hương Khâm đã có lần định bạt tai
Năm Đẹt, liền bị ông ta ôm gọn lỏn rồi liệng xuống sông Quán Trường, sau đó về
nhà bịnh một tuần lễ, phải vô tuốt Tháp Chàm rước thầy ra cúng trừ tà mới khỏi,
tốn kém không biết bao nhiêu mà kể. Ông nắm tay Bảy Diện khuyên lơn:
- Đừng thèm chấp nê làm gì cái hạng
cùng đinh đó cha thằng Rơi à. Mình làm to chuyện không khéo lại mang tiếng thất
đức nữa. Cứ ăn ở cho có đức lấy sức mà ăn.
Bảy Diện hất tay Hương Khâm, giậm
chân kêu lên:
- Nó chửi cả cha, cả ông nội tui mà
các đồng chí chịu để yên vậy hà? Trời
ơi! ông bà tổ tiên có linh thiêng thì quật cho nó chết liền đi. Nay mai tui mà
làm bí thơ xã này lại thì cả dòng họ nó đừng hòng ở yên với tui.
Bảy Diện uất ức, muốn khóc thét lên
như một đứa trẻ bị đòn oan cho hả cơn giận, nhưng nước mắt ông không thể nào trào
ra được. Ông đưa bàn tay thoa mạnh hai bên khóe mắt như muốn vắt ra vài giọt
cho nhẹ người. Nó đã cạn khô như giếng lạn! Có một cái gì giống như lá bùa đè
lên ngực ông. Nặng quá, nặng quá, ông bà
ơi, cha mẹ ơi!… Ông muốn đứt hơi. Ông ngã lần, ngã lần như một thấn cây già
bị chặt. Trong khi ngã, ông thấy ông nội của Năm Đẹt đương mang gông ngồi phơi
nắng trước sân nhà. Trong nhà, ông nội ông cùng những chức sắc trong huyện
trong tổng đương ăn uống say sưa. Người mang gông mình mẩy tóe máu vì những làn
roi, rên ư ử xin ông một gáo nước. Ông thương người mang gông nhưng lại sợ ông
nội và những người chức sắc kia. Ông không dám đứng đó nhìn ông ta nữa. Ông đã
trốn chạy cái nhìn kêu cứu của ông ta… Cái lá bùa. Không. Chính cái nhìn đó
đương xoáy vô ngực Bảy Diện. Đau quá ông
nội ơi! Có ai san sẻ cùng tôi nỗi đau khủng khiếp này không?
10
Ba Trung ngồi trước hiên nhà, đọc
lại quyển tiểu thuyết “Ông già và biển cả” của E. Hemingway. Quyển sách bằng
nguyên tác, thuộc loại sách bỏ túi, nhưng anh khéo giữ, nhứt là thời kỳ sống
trong mật khu phải giấu kỹ, tới giờ nó vẫn chưa rời ra tờ nào. Anh đã mua nó
không phải trong một tiệm sách mà trong tiệm bán vải vóc của một người Chà Và
hồi năm học đệ tam. (Có lẽ ông ta mua để đọc, khi đọc xong rồi bày bán cùng với
một số tác phẩm văn chương khác). Lúc đầu anh mua để trau dồi Anh ngữ, sau
thích rồi mê và nó đã trở thành vật bất ly thân của anh suýt soát hai mươi năm
nay. Anh đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Nhứt là sau những biến cố
quan trọng trong đời sống, những lần “đấu tranh tư tưởng” với chính bản thân,
với người khác, anh lại đọc nó, lại hiểu sâu thêm ý nghĩa của cuộc sống và lại
mơ những giấc mơ cao đẹp khác như ông già trong câu chuyện. Ông già một mình
chiến đấu với bầy cá mập trong nhiều ngày trên biển đầy sóng gió để gìanh lấy
con cá kiếm của mình câu được như giữ lấy cái tinh túy nhứt của cuộc sống. “Đã làm người thì không bao giờ bó tay chịu
thua. Con người có thể bị tiêu diệt, nhưng không thể bị thất bại*”. Cuối
cùng ông già đã đuổi được bầy cá mập. Nhưng oái oăm thay! Con cá mà ông đã bỏ
công sức câu được chỉ còn trơ một bộ xương.
Bây giờ, anh lại càng thấm thía câu
nói trên của ông già.
Từ ngày đoàn thanh tra về, tình hình
trong xã đã nổi cơn sóng dữ. Người ta phao đủ thứ tin để làm mất danh dự và uy
tín của anh và Tư Mẫn. Cải chánh ư? Anh và Tư Mẫn là đối tượng thanh tra làm
sao cải chánh và tự minh oan được khi đoàn thanh tra chưa đúc kết được biên bản
điều tra. Vả lại, anh cũng như Tư Mẫn có thời giờ đâu để mà đối phó với những
điều người ta cố tình vu khống. Mà những lời vu khống bao giờ cũng lây lan như
một thứ bịnh dịch nguy hiểm, dẫu cho trăm thế kỷ sau người ta cũng chưa tìm ra
thuốc trị. Trước cơn sóng dữ, xã viên ngao ngán không chịu ra đồng. Cán bộ ở
các đội điều công xã viên không được, chán nản làm đơn xin từ chức. Hô hào,
động viên, dùng đủ mọi biện pháp, tình hình sản xuất vẫn cứ chao đảo, không
tiến lên bước nào. Hợp tác xã có nguy cơ trở thành một bộ xương như con cá kiếm
của ông già. Dù lý do gì chăng nữa, khi anh đã mất uy tín với quần chúng thì
anh có dùng quyền để bắt họ làm việc này, việc khác dù không phải có lợi cho
anh (đương nhiên) mà có lợi cho chính bản thân họ, họ vẫn nghi ngờ. Nếu họ có
làm là vì sợ sệt và cũng miễn cưỡng thôi. Ôi! Một xã hội mà người ta làm việc
vì sợ sệt đủ điều thì chẳng khác gì một nhà tù. Mỗi lần họp chi bộ để nhận định
tình hình và tìm biện pháp giải quyết thì người ta đều cố tình đi lạc nội dung,
đem cá nhơn anh và Tư Mẫn ra mổ xẻ tận đường tơ kẻ tóc, chẳng khác nào một cuộc
đấu tố. Chuyện Tư Mẫn nghỉ phép về thăm quê vợ, đem theo một bao xoài sống để quà
tặng bà con, không hiểu sao Bảy Diện biết được kết tội đi buôn. “Đảng viên mà
đi buôn, không đủ tư cách”. Đoàn Bê thì có đủ “bằng chứng cụ thể” (giờ, ngày,
tháng, năm, làm gì, ở đâu, ai biết việc này?) để qui chụp anh và Tư Mẫn đủ thứ
tội. Ngay cả chuyện anh tiếp người bạn thân là phóng viên của một tờ báo ở Sài
Gòn khi anh ta về xã, tìm hiểu phong trào thanh niên đối với hợp tác xã, theo
sự giới thiệu của đồng chí bí thơ thành ủy, vậy mà cũng được Đoàn Bê nặn ra
chuyện động trời rằng anh tiếp tình báo tại nhà. Có người biết đây là chuyện hoàn
toàn vu khống, bèn hỏi xách mé: “Nhờ phát hiện vụ đồng chí Trung tiếp tình báo
tại nhà mà anh được phục hồi Đảng tịch phải hông?”
Hết tội tiếp tình báo lại tới tội
phá đài liệt sĩ.
Khi Bảy Diện nhậm chức bí thơ xã,
ông cho dựng ngay một cái đài liệt sĩ bằng ván ghép trên một khu đất làng bỏ
hoang, rộng cỡ một sào, cạnh quốc lộ. Không biết lúc dựng lên nó mang dáng vẻ
ra sao, nhưng khi Ba Trung về xã nhận nhiệm vụ, anh nhìn thấy nó mà đau lòng.
Những mí ván hả miệng như muốn kêu người đoái hoài tới nó.Trên bốn mặt đài phủ
đầy những hình vẽ, những câu chữ tục tĩu mà ai đọc tới cũng ngượng mắt bằng
than hoặc gạch. Sân đài trở thành bãi đá bóng của thanh niên trong xóm. Cha chung không ai khóc. Thảm hại như vậy đó! Chi ủy họp quyết định dỡ bỏ cái tồn tại
mang tính ấu trĩ và hình thức kia, lấy đất canh tác, đồng thời chọn khu đất
không thể canh tác được ở cuối cánh đồng Vườn Bí, giáp ranh chân núi Chín Khúc,
xây dựng nghĩa trang liệt sĩ và đài tưởng niệm. Lúc đó Bảy Diện đi học chưa về.
Khi về, ông thấy cái “công trình cách mệnh” của mình bị xóa bỏ bèn thắc mắc
trước chi bộ. Năm Thân đã giải thích cho ông hiểu ra vấn đề. Chuyện này tưởng
đã êm, tới giờ Bảy Diện lại đem ra để lên án anh đã “phản bội xương máu của
đồng chí, đồng bào”. Ông nêu đủ lý do để thuyết phục nhiều người trong chi bộ
ủng hộ quan điểm cách mệnh triệt để
của ông. Ba Trung phản bác, không ai nghe theo ngoài Tư Mẫn, vì nghĩa trang
liệt sĩ tới giờ chưa thực hiện được. Lý do: ngân sách xã chưa đủ.
Trong kỳ họp hội đồng nhân dân xã
vừa rồi, anh và Tư Mẫn cũng là đối tượng chính để người ta hạch hỏi nhiều công
tác đã thực hiện mà chính họ đã nhứt trí thông qua trước đó. Người ta đã qui
tội anh là “vi phạm và làm lãng phí tài sản của nhơn dân” khi cho xây dựng nhà
mẫu giáo ở khu thổ mộ Cô Sáu. Ngân sách của ủy ban xã kết hợp với công lao động
của hợp tác xã để xây nhà mẫu giáo cho kịp ngày khai giảng năm học vừa qua.
Nhưng sáng hôm đó, trong buổi lễ cắt băng khánh thành, chẳng có cháu nào tới
lớp. Khi tới thăm các gia đình trong xóm có cháu tới tuổi đi mẫu giáo, anh mới
biết rằng người ta sợ hồn ma Cô Sáu về bắt các cháu. Có tin đồn từ ngày Ba Trung
cho dời chòm mả này về nghĩa trang chung của xã thì đêm nào cô Sáu cũng hiện về
gò mả cũ, biến thành con quỉ không đầu, than khóc thảm thiết đòi Ba Trung trả
lại nhà, trả lại đất, trả lại đầu cho cô. Ngay mẹ anh, bà Bảy-lò-rèn và những
người biết phải trái trong làng trong xã vẫn không đồng tình với anh chuyện dời
mồ dời mả để xây dựng những công trình công cộng, cải tạo đồng ruộng, lên án
anh về chuyện xã lấy đình lấy miếu làm nhà kho, sân phơi. Họ nói thẳng vô mặt
anh vì báng bổ thánh thần, cô hồn các đẳng nên bây giờ anh phải bị đọa, nhơn
dân trong xã bị tai vạ lây - làm mấy cũng không đủ ăn…
Trong cuộc đấu tranh này, Ba Trung
được biết Ba Thảnh, phó chủ nhiệm thường trực nhiệm kỳ hiện tại, là người khôn ranh
nhứt. Anh ta làm ra vẻ đứng ngoài cuộc, đôi khi tâng bốc hoặc bênh vực Tư Mẫn
vài câu trong các buổi họp, nhưng lại khôn khéo một mình đi ngõ sau vô nhà Anh Sáu thường vụ. Chính Hai Thìn, hồi
còn làm trưởng ban Kiểm soát, người luôn
luôn lấy câu “dĩ hòa vi quí” làm đầu, cũng đã thẳng thắn nói Ba Trung: “Tui nói
cho anh hai biết, thằng đó lụt lịt mà
địt ra khói chớ hổng phải chơi đâu. Anh
hai đừng coi thường nó. Nhiều lần tui cảnh cáo Tư Mẫn coi chừng nuôi ong
tay áo, Tư Mẫn cứ cự tui. Tư Mẫn đâu có biết nó ganh tị cái danh hiệu chiến sĩ
thi đua của ông ta. Nó nói úp úp mở mở với tui là Tư Mẫn chẳng qua là một anh
đánh xe ngựa, đâu biết gì nông nghiệp mà làm chủ nhiệm, nếu không có nó thì làm
gì hợp tác xã được cái bằng khen của Hội đồng Bộ trưởng. Anh hai nghe nó nói có được không? Tui biết nó rất cần cái “chiến
sĩ thi đua” để làm nấc thang leo lên ghế chủ nhiệm. Thâm ý của nó là muốn tẩy
sạch cái mặc cảm đi làm sở Mỹ và là đảng viên đảng Dân Chủ trước kia”.
Thấy được chơn tướng của Ba Thảnh, Ba
Trung càng quí mến và thông cảm với người đồng chí cùng đứng mũi chịu sào với
mình. Một vài người mà Tư Mẫn chí tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi để công
tác, bây giờ lại quay lưng chống lại ông ta một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
chỉ vì muốn mưu đồ lợi ích riêng tư. Nhưng Tư Mẫn vẫn tin tưởng họ như trường
hợp Ba Thảnh. Ông không hề nghĩ rằng chính bầy cá mập lau nhau mới rỉa hết thịt
của con cá kiếm.
Lúc
còn Năm Thân, tình hình căng thẳng giữa Tư Mẫn và Bảy Diện có vẻ lắng dịu. Nhưng
khi Năm Thân vừa rời khỏi xã, hai cực này lại đụng nhau gây cơn chấn động mạnh
trong chi bộ. Ba Trung dàn xếp riết cũng không đem lại kết quả tốt đẹp gì. Tư
Mẫn đã tuyên bố trước chi bộ: “Tui nói thiệt với các đồng chí, nếu Đảng còn
những người như Bảy Diện, Đoàn Bê, không biết đâu là lẽ phải thì thà tui xin ra
khỏi Đảng còn hơn”. Sau đó, ông bỏ họp chi bộ, Ba Trung phải tới tận nhà khuyên
giải. Đừng tuyệt vọng. Tuyệt vọng là một
điều ngu ngốc. Anh khuyên Tư Mẫn cũng đồng thời khuyên chính anh.
* Trích tác phẩm “Ông già và biển cả” của E. Hemingway.
* Trích tác phẩm “Ông già và biển cả” của E. Hemingway.
3
* Nghĩa: một tổ chức tương tế của làng
* Trích tác phẩm “Ông già và biển cả” của E. Hemingway.
PHẦN KẾT
TIẾNG
VẠC KÊU MƯA
1
Dẫu tình hình trong xã chưa giải
quyết ra đấu ra đuôi: cuộc đấu tranh ngấm ngầm giữa hai phe Ba Trung – Tư Mẫn
và phe Bảy Diện vẫn còn tiếp diễn và chưa biết ai thắng ai. Nhưng suy cho cùng,
người dân Phước Điềm không thể nào bỏ rơi cánh đồng Vườn Bí. Đối với họ, nó là
biểu tượng mang tính lịch sử của làng. Và nó cũng được coi là phương tiện để
thể nghiệm chủ trương, chánh sách “về cuộc cách mạng ở nông thôn” như chính người
dân láng Phước Điềm cùng bà con nông dân ở những nơi khác. Chính họ và đất phải
cùng nhau gánh chịu kết quả thành hay bại của những cuộc thể nghiệm mò mẫm này
để tìm ra cái gọi là “ưu việt” của xã hội chủ nghĩa. Cái “ưu việt” trước thất
bại thì sẽ có cái “ưu việt” sau. Dĩ nhiên, đã nói “cách mạng” thì phải chấp
nhận như vậy. Có người mẹ nào mỗi lần sanh con mà không mất đi một ít máu!? Nhưng
mọi cái “ưu việt” đều do mấy ảnh ở trển
quyết định chớ không phải do chính đất và người. Đất và người chỉ biết làm theo
sự chỉ đạo của mấy ảnh ở trển.
Cánh đồng Vườn Bí lại được cải tạo
thêm một lần nữa. Suốt ngày hôm nay, một nữa xã viên đội Bốn gồm những nam nữ
thanh niên khỏe được chọn đã lăn mình trên đồng để san bằng những đám ruộng bậc
thang manh múm, đắp lại bờ vùng, bờ thủa, chuẩn bị thực hiện chủ trương mới của
hợp tác xã.
2
Chiếc xe con đậu trước ngõ vô nhà Ba
Trung. Sắp nhỏ trong xóm túa ra coi như coi một con quái vật bất ngờ xuất hiện
ở đây lần đầu. Một đứa nhiệt tình chạy u vô báo cho Ba Trung biết có một “ông
to” hỏi thăm nhà anh. Anh thay vội quần áo chuẩn bị tiếp khách. “Ông to” tới
gặp anh để làm gì? Anh chưa tiếp ai đi xe con tới nhà nên cảm thấy lúng túng.
Nhà cửa xuềnh xoàng quá. Không sẵn trà, không sẵn nước sôi. Anh nhờ mẹ nấu gấp
ấm nước sôi và nhờ thằng nhỏ chạy ra quán mua giùm một đồng trà.
- Có đồng chí chủ tich xã ở nhà
không?
Ba Trung nhận ra tiếng của Anh Sáu.
- Chào đồng chí, mời đồng chí vô
nhà.
Anh
Sáu lịch sự bỏ dép ngoài thềm, bước vô nhà. Ba Trung vội nói:
- Nhà dơ lắm, đồng chí cứ mang dép
vô tự nhiên.
- Tôi lên thắp nhang cho anh Ba tôi,
nhân tiện ghé thăm cậu cho biết nhà.
Lúc này Anh Sáu không xã giao nữa, mà kêu Ba Trung bằng “cậu” cho có vẻ
thân mật. Ba Trung đáp lễ:
- Cám ơn anh. Anh tới bất ngờ quá.
Anh
Sáu cười một cách vui vẻ:
- Bất ngờ thế này mới hay. Chớ báo
trước cho cậu, cậu chuẩn bị gà vịt tiếp tôi thì phiền lắm.
Ba Trung nhớ bữa đám tang Ba Rền
không có mặt Anh Sáu, nghe nói anh
mắc công tác ở tận Hà Nội, chỉ có bà Hà, vợ ông. Bà đã nói với anh trước mặt
mọi người bằng giọng của một người quen ban bố mệnh lịnh: “Đồng chí phải có
trách nhiệm điều tra nguyên nhân cái chết của anh Ba tui”. Anh thản nhiên trả
lời: “Trách nhiệm điều tra không thuộc quyền của tôi. Gia đình muốn làm sáng tỏ
chuyện này, cứ làm đơn gởi tới các cơ quan hữu trách”. Ngay ngày hôm sau, có
người tin riêng cho anh biết: gia đình Tiến Hơn đương thảo đơn kiện anh theo
lời bày vẽ của bà Hà. Họ đổ tội cho anh mượn tay Ba Búa đánh chết Ba Rền để trả
mối thù hai năm về trước: Ba Rền cố ý không cho gia đình anh mượn trống, mượn
cờ để đưa đám tang cha anh. Anh chỉ cười khì và nói với người đó: “Cám ơn ông
đã cho tôi hay như vậy. Tôi cũng nhờ ông nói lại với họ cứ làm đơn kiện đi”.
Bấy giờ trong đầu Ba Trung đương nghĩ Anh
Sáu viện cớ tới thăm anh cũng vì chuyện này.
Bà Năm Xoan ngượng nghịu bưng bình
trà mất nắp phải đậy tạm cái dĩa đất cùng hai cái ly thủy tinh mới được rửa
bằng tro bếp để lên bàn. Anh Sáu thấy
bà, đứng dậy chào.
- Nước nôi làm gì chị. Tôi vừa uống
ở nhà cậu Hơn xong.
Ba Trung giới thiệu Anh Sáu với mẹ. Bà “a” lên như gặp được
người quen đã lâu ngày biệt tích.
- À, tưởng ai chớ chồng của cô Bảy
thì tui biết mà. Tui nhớ hồi cha thằng này mới làm lò gạch, tháng nào cô Bảy
cũng ghé lò cỡ một hai giờ khuya để lấy tiền, lấy gạo nuôi quân. Còn… còn ông,
hình như ông cũng có ghé một hai lần gì thì phải?
Không biết bà Năm Xoan có nhớ lộn
hay Anh Sáu đã quên cái thời còn đánh
Tây mà nét mặt của hai người đều ngờ ngợ nhau. Ba Trung lên tiếng khỏa lấp:
- Chuyện hồi xửa hồi xưa… Anh Sáu bận trăm công nghìn việc có thời
giờ đâu mà nhớ tới chuyện vụn vặt như vậy…
Bà Năm Xoan phản đối:
- Mày cứ nói! Bữa đám tang của Ba
Rền, cô Bảy mới thấy tao là nhận ra liền. Cô ôm tao, rờ đầu, vuốt má làm tao
bắt ngượng với thiên hạ, mày hổng thấy đó sao?
Anh
Sáu bỗng nhiên vồn vã nói:
- Thưa chị, nhà tôi về có nhắc tới
chị nhiều, cả anh nữa. Té ra cậu Trung là con của anh chị. Vậy mà lâu nay tôi
không biết. Rất tiêc, khi anh Năm mất chúng tôi không hay. Chúng tôi cảm thấy
có lỗi…
Hễ có ai nhắc tới cái chết của cha
anh là mẹ anh mủi lòng, rưng rưng nước mắt. Bà nghẹn ngào nói:
- Nhà tui thiệt bạc phước. Mang
tiếng là cha ông chủ tịch xã mà tới khi chết hổng có chút đất chôn, hổng có cờ
có trống đưa đám…
Ba Trung phàn nàn mẹ:
- Mẹ cứ nhắc chuyện cũ hoài. Chuyện
của cha có liên quan tới Anh Sáu đâu.
Anh
Sáu ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại có chuyện lạ đời vậy?
Bà Năm Xoan lấy tay quẹt nước mắt,
nói bằng giọng trách móc:
- Thời cách mệnh mà sao con người ta
ăn ở với nhau tệ bạc vậy hở ông? Tui thấy hồi “ngụy” đâu tới nỗi vậy.
Ba Trung lại sợ mẹ anh nói thêm
những điều không làm vừa lòng khách, anh nói với Anh Sáu để cắt ngang lời mẹ:
- Chỉ là chuyện riêng tư thôi Anh Sáu à.
Bà Năm Xoan không vừa lòng, phân
bua:
- Chuyện gì nó cũng nói là riêng tư
hết ông hà. Hổng biết nó làm giống gì ở làng, ở xã, phải trái ra sao mà người
ta đem nó ra đấu tố quá trời, đổ cho nó đủ thứ tội. Tui sợ nó đi tù như cha nó
hồi Tây, hồi Mỹ, hỏi nó, nó nói trên trời dưới đất tui hổng biết đâu là đâu… -
Bà Năm Xoan bỗng nhìn thẳng vô mặt Anh
Sáu, xuống giọng: - Ông ơi! Tui nghe thím Ba Rền nói bữa nay ông làm tới
chức “cần vụ” trên tỉnh hay trên thành phố gì đó. Nó có bề gì, tui xin ông nghĩ
tới cha nó mà che chở giùm.
Ba Trung nghe mẹ vụt miệng nói như
vậy tự nhiên anh “điếng” cả ruột. Anh biết mẹ anh đã khổ sở vì chuyện tù tội của cha anh xưa kia biết
chừng nào. Anh rất hiểu nỗi lòng và nỗi lo của mẹ anh.
- Con đã thưa với mẹ rất nhiều lần
là con đã trưởng thành rồi. Con hiểu được ý nghĩa công việc con làm. Giả dụ con
có làm sai, mang tội với xóm làng thì Anh
Sáu có làm ông to ông bự tới cỡ nào cũng không bao che cho con được.
- Mày cứ nói! Cái dù che cái cán
chớ. Thời nào hổng vậy. Mà tao thấy Anh
Sáu đây cũng gần bằng tuổi cha mày, sao mày cứ xưng anh anh tui tui như
bằng vai bằng vế vậy? - Bà đột nhiên đổi giọng nhẹ nhàng: - Không được đâu con.
Có làm tới ông gì con cũng phải biết lễ nghĩa chớ. Con kêu anh Sáu bằng chú mới
phải.
- Lúc nào mẹ cũng coi con như mới
tập ăn, tập nói không bằng.
Bà Năm Xoan thấy Ba Trung tỏ vẻ khó
chịu với bà, bà hờn mát bỏ đi và nói:
- Ừ, tao biết mày lớn rồi mà. Lớn
lắn con hà. Lớn mà hổng vợ, hổng con lỡ có ở tù để coi thử ai nuôi cho biết.
Trước thái độ của mẹ, Ba Trung chỉ
biết cười cho đỡ ngượng với Anh Sáu. Anh
Sáu đổi thế ngồi, bỏ một chưn lên ghế rồi gác tay lên đầu gối, xoa cầm:
- Mẹ cậu nói chẳng phải sai hết đâu.
Cậu biết tôi muốn gặp riêng cậu vì việc gì không?
Qua giọng nói của Anh Sáu, Ba Trung có linh cảm ông ta sắp
ban cho mình một ơn huệ gì đó. Tự nhiên anh cảm thấy danh dự bị xúc phạm. Anh
bèn đổi cách xưng hô:
- Thưa đồng chí, đồng chí gặp tôi…
Ba Trung im lặng, thản nhiên nhìn Anh Sáu.
- Làm lãnh đạo mà nóng như cậu thì
hỏng việc.
- Đồng chí đánh giá tôi hơi thiếu cơ
sở.
- Không đâu. Đồng chí nên nhớ cương
vị của tôi ở thành phố là gì chớ.
Ba Trung biết Anh Sáu như Nam Tào giữ sổ sinh tử của mọi người ở thành phố này,
nhưng nói trắng ra như vậy thì quá lộ liễu, anh bèn trả lời suông:
- Tôi biết.
- Tôi muốn tin cho cậu biết: đoàn
thanh tra đã hoàn thành nhiệm vụ, chỉ chờ ý kiến của thường vụ thành ủy trong
buổi họp sắp tới là đi đến kết luận ai đúng ai sai…
Vậy là mọi chuyện đã rõ. Phe đối
phương tỏ ra thắng thế nên đã lật con bài tẩy cho anh coi. Ba Trung tự nhủ lúc
này mình phải cố giữ bình tĩnh để ứng phó.
Anh
Sáu nói tiếp:
- Tôi không hoàn toàn tin hết những
điểm mà đoàn thanh tra kết luận về cậu. Nhưng cậu thuộc thành phần trí thức,
học rộng biết nhiều, chắc cậu không quên câu: “mũi dại lái chịu đòn” chớ? Chỉ
cần một vài điểm trong bản báo cáo của đoàn thanh tra thôi, cậu cũng có thể…
Đột nhiên Anh Sáu bỏ lửng câu nói, đưa mắt nhìn Ba Trung thăm dò.
- Bị tù phải không, thưa đồng chí?
- Không. Cậu hiểu sai ý của tôi rồi.
Tôi muốn nói tới danh dự của cậu. Tôi biết những người như cậu rất quí trọng
danh dự.
Ba Trung không thể dằn lòng được
nữa, anh bật ra tiếng:
- Đồng chí có biết đoàn thanh tra đã
tạo điều kiện cho bọn xấu trong xã rao bán danh dự của tôi và đồng chí Tư Mẫn
để đổi lấy cái gì không?
- Cậu tin mọi việc làm của cậu ở xã này đều đúng hết à?
Ba Trung chợt nhớ tới câu nói của
ông chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố thường nói trong các buổi họp: “Chúng ta
đương tập làm. Có làm thì có sai. Làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít. Sai thì
sửa. Chỉ có những kẻ không chịu làm, chỉ chịu phá mới không thấy cái sai thôi”.
Anh trả lời:
- Đây là câu hỏi dành cho những
người có thiện chí trong công tác chớ không chỉ cho riêng tôi.
Anh
Sáu cười trịch thượng:
- Cậu né tránh khéo thiệt. Cậu có
biết xã cậu đã chống lại nghị quyết của thành phố không? Chỉ tiêu của thành phố
giao cho xã cậu khai hoang mười hecta rừng ở Hang Rắn, cậu có thực hiện không?
Còn chuyện rau xanh nữa, mặc dầu chuyện đã qua nhưng tôi muốn biết ai chủ
trương việc này? Cậu, Tư Mẫn, hay cả hai?
À, té ra là vậy! Ba Trung nghĩ.
Người ta không có bằng chứng gì để ghép tội anh thông đồng với Tư Mẫn tham ô
hai tấn lúa cùng những tội trạng khác mà lâu nay chúng cứ như bọt xà bông hòa
trong nước, càng khuấy càng phồng to lên. Bây giờ họ lại quay qua hướng khác:
chống lại nghị quyết của thành phố. Quả là tội lớn!
Trong năm rồi, thành phố thực hiện
chủ trương xây dựng vùng kinh tế mới, giao cho xã Phước Chung 10 hecta đất rừng
Hang Rắn, trước mắt khai phá tới đâu, trồng mì trồng bắp tới đó. Lúc còn công
tác ở Sài Gòn, Ba Trung đã từng dẫn quân đi khai hoang xây dựng vùng kinh tế
mới, nên anh đích thân dẫn một toán thanh niên đi coi thực địa. Xa đường giao
thông chính, phải len rừng lách núi mất hơn nửa buổi mới tới nơi. Cả một vùng
rừng còi chỉ có một con suối nhỏ. Nếu “quyết tâm thực hiện chủ trương để lập
thanh tích” làm ra hột bắp củ khoai thì cũng khó lòng đem về nhà. Anh suy nghĩ
thiệt hơn. Hỏi ý kiến của nhiều người trong xã. Anh biết thành phố đã thất bại một
lần khi giao đất khai hoang ở Trảng Én cho các xã phường. Đường vô Trảng Én còn
dễ đi hơn, có đoạn xe cơ giới chạy được, có thể đi về trong ngày, đất tốt hơn,
vậy mà bao nhiêu công của xã bỏ ra, cuối cùng chẳng thu lại được mảy may gì.
Anh đưa vấn đề này ra bàn trong cấp ủy xã, mọi người đều đồng ý kiến nghị với
thành phố nghiên cứu lại kế hoạch. Trong bản kiến nghị anh đã phân tích rõ cho
thành phố thấy mặt thiệt hại về kinh tế, và qua đó, tác động tới tâm lý của
quần chúng ra sao khi chọn Hang Rắn làm điểm kinh tế mới của thành phố. Các xã
phường tuân theo kế hoạch này bây giờ dở khóc dở cười. Cuộc họp nào ở thành
phố, các bí thơ, chủ tịch xã phường cũng đều kêu ca, yêu cầu hủy bỏ, nhưng
thành phố cứ ậm ở, trả lời không dứt khoát. Chuyện rau xanh cũng cùng một dạng
“sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch” như chuyện khai hoang lập xã Phước Chung 2.
Thành phố huy hoạch các xã ngoại thành là “vành đai xanh”, giao chỉ tiêu rau
xanh - chính là trồng rau muống - để phát triển chăn nuôi cho các hợp tác xã
nông nghiệp. Xã anh phải cắt ra hai héc ta ruộng trồng lúa để chuyên canh rau
muống, lập riêng đội trồng rau mà tới giờ xã viên vẫn còn nhắc là đội “rầu
trông”. Cũng xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu như lúa, nhưng hiệu quả kinh tế
thành… “kinh thế” ngay trong vụ thu hoạch rau đầu tiên. Hợp tác xã cắn răng làm
vụ thứ hai, phấn đấu giao nộp đủ chỉ tiêu cho thành phố, nhưng cuối cùng chỉ đủ
bán cho mỗi hộ xã viên một kí để vớt vát lại số vốn đã bỏ ra. Rau đã bị Công ty
Rau Quả thành phố chê là không đúng tiêu chuẩn, không mua! Đội “rầu trông” chán
nản, công điểm ít hơn các đội cơ bản, lại còn mang tiếng làm ăn không ra gì, xã
viên tự ý bỏ về đội cơ bản. Thất bại, kêu lên trên, đề nghị xem xét lại. Trên
chỉ thị: các đồng chí cứ thế mà làm. Xã
X. phường Y. làm được, làm tốt nữa là đằng khác. Thất bại là mẹ của thành công.
Làm cách mệnh như các đồng chí là không nắm vững lập trường, quan điểm của Đảng.
Cái gì cũng đem “quan điểm, lập trường” ra để phê bình. Biết không thể nào kêu
được nữa. Sợ dân đói hơn là sợ mất “lập trường quan điểm”, anh và Tư Mẫn bàn
với nhau bỏ rau trồng lúa. Lấy lúa đổi rau để giao nạp đủ chi tiêu. Năm Thân
ủng hộ, vậy là làm “chui” được một vụ lúa thì vụ kế tiếp thành phố quyết định
miễn chỉ tiêu rau xanh cho các xã xét thấy không có lợi về mặt kinh tế.
Ba Trung biết khi kế hoạch ở trên ấn
xuống, dẫu không đúng với tình hình thực tế ở địa phương, anh vẫn cứ phải thực
hiện. Thực hiện cho tới khi nào mấy ảnh ở
trển hô: Tốp! Kế hoạch hay chủ trương
đó sai rồi, bỏ đi. Anh thấy sai, tự ý không thực hiện trước khi có bãi lịnh
bỏ có nghĩa là anh chống lại “trí tuệ của tập thể”. “Trí tuệ tập thể” càng cao,
càng sáng suốt!
- Sao? Cậu không thể trả lời câu hỏi
của tôi được sao?
- Những câu hỏi của đồng chí thực tế
đã trả lời hết rồi.
- Thực tế à? Cái thực tế của cậu
không đủ sức thuyết phục nhiếu vị trong thường vụ đâu. Anh Sáu bỗng cười hăng hắc rồi đổi giọng: - Cậu Trung! Dẫu sao giữa
vợ chồng tôi với cha mẹ cậu cũng có mối giao hảo xưa kia. Rất tiếc tôi biết
điều này hơi muộn, nhưng suy cho cùng thì còn gỡ được cho cậu. Hiện thời thường
vụ đang sắp xếp lại nhân sự để chuẩn bị cho Đại hội Đảng bộ sắp tới. Đồng chí
hiểu chứ? Tôi muốn danh dự của đồng chí không mất. Danh dự là trên hết mà.
Người ta muốn mặc cả với anh? Anh
không phải là “vật trao đổi”, anh phản đối ra mặt:
- Đồng chí nên nhớ không phải danh
dự là trên hết. Kẻ cướp của giết người, bọn đĩ điếm cũng có danh dự của chúng.
Đối với tôi, lương tâm là trên hết.
- Cậu bản lĩnh thiệt! Nhưng tôi báo
cho cậu biết: cái bản lĩnh tiểu tư sản của cậu không giúp ít được gì cho cậu
đâu.
Ba Trung bóp mạnh cái ly trống không
đương cầm trong tay. Người ta muốn dùng quyền hành để biến anh thành cái bung
xung sao? Không. Đã làm người thì không
bao giờ bó tay chịu thua. Con người có thể bị tiêu diệt chứ không thể bị khuất
phục*.
* Trích tác phẩm “Ông già và biển cả” của E. Hemingway.
3
Ông Năm Xoan chết vì tai biến mạch
máu não. Ba Trung vốn là người thận trọng, đã bàn với mẹ anh tổ chức đám
tang cho cha hết sức giản tiện. Nhưng mẹ
anh không đồng ý. Bà nói: “Dầu giản tiện tới mức nào cũng phải có cờ xí, chiêng
trống để đưa hương hồn cha mày về nơi chín suối”. Anh nhớ cái cảnh mẹ anh “trầu
rượu” đến tận nhà Ba Rền, lúc đó đương là thủ bổn miễu Bà, xin cho cha anh an
nghỉ trong nghĩa trang làng. Ba Rền thoái thác, lấy cớ lâu nay cha anh không vô
Nghĩa*. Hỏi mượn cờ trống thì ông trả
lời: cờ rách, chiêng hư, trống lủng! Mẹ anh vừa giận vừa tủi vì “người ta coi
mày chẳng ra cái thể thống gì ở xã này”… Nhưng khi hay tin Ba Rền chết, thì mẹ
anh nói “nghĩa tử là nghĩa tận”, quên hết chuyện cũ.
Bà Năm Xoan sống thiên về tình cảm. Hình
ảnh người mẹ già, buổi đầu tiên ngồi bên thềm giếng, giặt cho anh bộ áo quần cũ
từ hồi còn trong khu**, đã vướng bụi
đường, hằn sâu trong tâm tưởng anh. Mẹ anh phơi bộ quần áo trên cây sào tre tầm
vông, cây sào gác giữa cháng hai của cây khế và cây bưởi. Anh nhớ mẹ anh đã tâm
sự: “Mẹ được cả túi vàng cũng không mừng bằng giờ đây con đã về với mẹ. Mẹ nhớ
là mẹ sanh con vào tháng mười. Cha con lót ổ cho mẹ nằm bên góc bưởi. Mẹ biết
mà, con không thể nào quên nơi chôn nhau cắt rún của con được. Khi chôn nhau của
con, mẹ dặn cha phải van vái Trời Phật phò hộ cho con, dẫu lớn lên con có đi
đâu thì cuối đời cũng phải quay về nơi chính nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Anh em con đứa nào cũng được van vái như vậy, nếu không thì tụi bay bỏ cha bỏ
mẹ, bỏ làng bỏ xóm hết…”.
Đó là hai sự kiện ăn sâu trong tâm
trí từ ngày anh về lại nơi chôn nhau cắt rún của mình.
Anh không thể nào ghét bỏ quê hương
mình, nhưng chính nơi này lại coi anh là “người dưng kẻ lạ”. Mặc dù anh đã
thuộc lòng từng chỗ sâu chỗ cạn con mương dẫn nước chạy ngang làng, thuộc lòng
từng đám ruộng gò ruộng trũng… Bây giờ, mọi cảnh vật trong làng vẫn y nguyên
như cũ, có thay đổi chăng là thế thái nhơn tình! May cho anh, cho gia đình anh,
còn có những người sống có tình xóm giềng như bà Bảy-lò-rèn, Hai Nhã…
Cả tuần nay, Ba Trung dồn tâm trí ôn
lại cuốn phim đời của anh: về những chặng đường đã qua, về những cơ duyên đưa
đẩy anh gặp người này người nọ… Anh không hề hối tiếc một điều gì, và anh thầm
cảm tạ cuộc đời đã cho anh hưởng đủ mùi vị hỷ, nộ, ai, oán…
Nhưng, điều quan trọng hơn hết là
cuộc đời còn lại của anh, anh phải sống cho ra người chớ không phải vừa người
vừa ngợm.
Ba Trung nhớ như in một câu nói của
nhà văn Maxim Gorky trong tác phẩm Người
mẹ: “Có những tình thương mà người mẹ làm cản trở bước tiến của đứa con”.
Bây giờ anh muốn quì ngay trước mặt mẹ nói: “Thưa mẹ, trong giai đoạn vừa qua, con đã đi sai đường! Giờ đây, con
quyết định chọn con đường riêng của con”.
Con đường riêng của Ba Trung chính
là CON ĐƯỜNG TỰ DO, thoát khỏi mọi ràng buộc hữu hình hay vô hình.
* Nghĩa: một tổ chức tương tế của làng
** Khu: nói tắt chữ “mật khu”.
LỜI CUỐI SÁCH
Năm
1978, cha tôi mất vì tai biến, tâm trạng tôi hụt hẩng. Nhà chỉ có một sào ruộng
trong vườn, lúa đang ngậm sửa, mẹ tôi đành
kêu người bán lúa non để có tiền lo tang
cho cha. Tôi dỡ thầy dỡ thợ từ sau biến cố lịch sử 30 tháng 4 năm 1975,
hoàn toàn bất lực trước thảm cảnh này. Sau khi lo tang ma cho cha xong, một
người bà con trong xóm là thợ hồ, thấy tôi không biết chuyện gì để làm và không
làm được chuyện gì, nên giới thiệu cho tôi đi làm... “lao động phổ thông” ở
công trường Sông Lũy, cách thị xã Phan Thiết gần ba mươi cây số. Lúc này, tôi
chưa hình dung ra công việc cụ thể của tôi phải làm là gì, tôi cũng chẳng buồn
cật vấn người bà con, chỉ biết đại khái như một dạng công việc để... sai vặt.
Miễn không mang tiếng “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm” là được.
Vượt
qua chặng đường hơn 200 cây số, người chủ thầu thuê xe chở công nhân đến nơi
vào buổi chiều cuối hè, nắng khô làm rát
da. Vùng này là một vùng lòng chảo, quanh năm khô khốc, thỉnh thoảng có gió lốc
xoáy đưa cột bụi lên cao ngút . Lán trại dành cho công nhân và bếp ăn tập thể
đã được dựng sẵn. Phòng ngủ tập thể là hai dãy giường dài bằng tre nứa, chứa
khoảng ba chục con người cả nam lẫn nữ. Còn đại tiện thì tha hồ mà hưởng cái
thú đi đồng vào ban đêm. Chúng tôi khởi công xây dựng kho chứa bông cho bộ đội
làm kinh tế ở đây. Tôi anh chàng vốn đạp xích-lô-bất-đắc-dĩ được chủ nhà thầu
“phân công phân nhiệm” là làm tất cả mọi công việc tạp vụ như vận chuyển gạch,
đá, cát, sắt thép, trộn hồ cho thợ xây... Tôi thích nghi với công việc lao động
chân tay bằng một tâm thế hoàn toàn không chấp trước, không tự ti mà cũng không
tự tôn mặc cảm. Ba tháng sau, tôi được chủ thầu chuyển sang phụ việc cho toán
mộc, nghĩa là tôi bắt đầu được làm việc trong mát. Công việc chính của tôi là
bào ván lót sàn và... mài lưỡi bào. Bào ván thì dễ nhưng mài lưỡi bào thì
phải... học! Người dạy tôi mài lưỡi bào cho bạc đầu, nghĩa là thật sắc, là bạn
học cùng lớp nhì và lớp nhứt ở trường Phủ Diên Khánh, bây giờ làm tổ trưởng tổ
mộc. Tôi còn nhớ nhà anh ta có một xưởng mộc ở gần cầu Sông Cạn, cách trường
khoảng một cây số, thỉnh thoảng anh ta rủ tôi đến nhà chơi. Sau 75, xưởng mộc nhà anh ta bị đóng cửa, anh ta phải
đi làm thuê. (Bây giờ, mỗi lần vợ nhờ mài dao và khen, là tôi nhớ đến người bạn
này).
Sau
sáu tháng đổ mồ hôi trên công trường cát bỏng, công trình kết thúc. Sau Tết,
tôi chờ nhà thầu kêu đi công trình mới, hy vọng theo học nghề mộc với anh bạn
cho khỏi mang tiếng thất nghiệp. Chờ mãi chẳng thấy gọi. Bất ngờ, một người bạn
khác ghé thăm tôi. Người bạn này ở trên Thành, có cơ sở in rô-nê-ô hợp pháp.
Trước 75, anh ta đại diện cho Nhà sách Hàm Thụ Sài Gòn ở Thành và Nha Trang,
lúc đó tôi làm ở nhà in Thanh Bình - nơi in tạp chí Ý Thức và cùng bạn bè lập
nhà xuất bản Tiếng Việt. Tôi với bạn này là chỗ quen thân từ lâu và sống với
nhau rất chí tình. Anh bạn bảo tôi là cần người tin cẩn phụ tá, coi cơ sở in.
Tôi gật đầu ngay.
Tôi
làm cho bạn chừng một năm rưỡi thì hợp tác xã nông nghiệp chính thức thành lập.
Sau 75, tôi đã ấp ủ viết một quyển tiểu thuyết về chủ trương này. Đây là cơ hội
ngàn vàng, bởi vì nó làm đảo lộn toàn bộ cơ cấu xã hội toàn miền Nam,
không riêng gì ở xã của tôi - một xã nông nghiệp thuộc thành phố Nha Trang. Tôi
mang dự định này ra tâm sự với bạn, không những bạn đồng ý mà còn động viên:
“Lúc nào mày rảnh việc ở hợp tác xã thì nhớ lên giúp tao một tay”. Nhờ lời động
viên tinh thần đó nên tôi an tâm đâm đầu vào “cuộc chiến với chữ nghĩa”...
Qua
bốn năm ròng rả, tôi đã lăn lộn và lặn lội trên khắp các cánh đồng trong xã,
thuộc lòng hầu hết tính cách của mỗi xã viên, kể cả ban lãnh đạo xã và hợp tác
xã. Tôi cũng đã ghi chép lại những sự việc diễn ra trong giai đoạn tôi sống ở
quê nhà. Và cuối cùng, tôi khởi thảo tác phẩm này. Bản thảo lần đầu, tôi viết
xong năm 1985. Lúc đó, tôi nhờ anh Trần Huiền Ân đọc lại giùm. Mãi đến năm
2012, sau một cơn bạo bệnh, trí nhớ và sức khỏe của tôi dần dần hồi phục, tôi
đọc lại bản thảo lần đầu, chỉ lược bỏ những đoạn không cần thiết, còn nội dung
vẫn giữ y nguyên.
Nhân
đây, tôi cám ơn anh Trần Huiền Ân, người đầu tiên tiếp cận bản khởi thảo của
tôi và góp nhiều ý kiến bổ ích. Tôi cám ơn người bạn thân đã mất, đã tạo cơ hội
thuận lợi cho tôi nghỉ việc để tham gia hợp tác xã. Tôi cũng cám ơn người bạn
đời của tôi, đã giúp tôi sáng suốt và tỉnh táo nhận ra những lỗi không đáng có
sau khi đọc bản thảo hoàn chỉnh này.
Cuối
cùng, tôi xin dâng tặng tác phẩm này cho nơi chôn nhau cắt rốn của tôi.
LÊ KÝ THƯƠNG
Cuối đông 2012
No comments:
Post a Comment