Biên dịch.
(Theo tài liệu Nobelprize.org)
1901- SULLY PRUDHOMME
(Pháp, 1839 - 1907)
Sully
Prudhomme sinh ngày 16 tháng 3 năm 1839. Năm 1865 ông nổi tiếng với tập thơ Stances
et Poèmes (Thơ tứ tuyệt) và những bài thơ khác. Lần lượt, ông xuất bản
nhiều tác phẩm thơ, triết học và mỹ học. Nếu sự tưởng tượng của những nhà thơ
khác chủ yếu hướng ngoại và phản ảnh cuộc sống và thế giới quanh chúng ta, thì
Sully Prudhomme lại có cái nhìn hướng nội và nhạy cảm một cách tinh tế. Thơ của
ông hiếm khi liên quan đến những hình ảnh và trạng thái bên ngoài được hiểu
theo cách thông thường, nhưng chủ yếu là sự cô đọng đầy thi vị trong một chiếc
gương soi mà người đọc có thể lặng ngắm mình trong đó. Tình yêu thần thánh, mối
hoài nghi, nỗi phiền muộn của ông, không gì có thể xua tan được, đều là những
đề tài quen thuộc trong tác phẩm của
ông, bằng hình thức hoàn chỉnh và vẻ đẹp được đẽo gọt hoàn hảo, không một chữ vô dụng. Thơ của ông đầy màu
sắc và hiếm khi mang âm điệu du dương, nhưng tất cả đều đậm nét sáng tạo về mặt
hình thức nhằm phù hợp với cách diễn đạt cảm giác và ý tưởng. Thanh cao, thâm trầm và hướng về nỗi buồn,
linh hồn ông tự biểu lộ trong thơ ông, dịu dàng nhưng không ủy mị - một sự phân
tích mang vẻ buồn phiền nó truyền cho người đọc sự cảm thương u uất
Qua
sự quyến rũ của cách chọn từ thanh nhã và qua nghệ thuật tuyệt vời của ông,
Sully Prudhomme là một trong những nhà thơ hàng đầu của thời đại chúng ta, và
một số bài thơ của ông là những viên ngọc có giá trị miên viễn. Những bài thơ
mang tính mô phạm hay trừu tượng của ông ít hấp dẫn Viện Hàn lâm Thụy Điển hơn
những bài thơ trữ tình ngắn. Những bài thơ trữ tình này mang đầy cảm xúc và sâu
lắng. Chúng mê hoặc người đọc nhờ vẻ trang nghiêm và thanh nhã và nhờ sự kết hợp
độc đáo giữa tư duy tinh tế và tình cảm phong phú.
Tác
phẩm của Sully Prudhomme biểu lộ một trí óc quan sát và tìm tòi mà nó không tìm
đến một sự yên nghĩ trong một tình thế
gay go và, đối với ông hình như không thể biết nhiều hơn, tìm chứng cứ về số
phận siêu nhiên của nhân loại trong lãnh vực đạo đức, trong tiếng nói của lương
tâm và trong sự cao quý và những điều qui định không thể phủ nhận của bổn phận.
Từ quan điểm này, Sully Prudhomme đại
diện tốt hơn hầu hết những nhà văn nhà thơ mà người ta gọi là ''khuynh
hướng duy tâm'' trong văn học.
1902 - THEODOR MOMMSEN
(Đức, 1817 – 1903)
Chân dung Theodor Mommsen
Một
thư mục những tác phẩm đã xuất bản của Mommsen do Zangemeister biên soạn nhân
dịp sinh nhật thứ 70 của ông (1887), gồm 920 đề mục. Một trong những công trình
quan trọng nhất của Mommsen là bộ Corpus Inscriptionum Latinarum (1867 -
1959) , đây là công trình đồ sộ của một “Vị thần Hercule”, mặc dù có sự trợ
giúp của nhiều cộng tác viên uyên bác, vì Mommsen không chỉ đóng góp 15 tập
trong bộ sách khổng lồ này mà còn đảm trách vị trí chủ biên toàn bộ tác phẩm. Đây
chính là thành tựu vĩnh cửu của ông. Là con chim đầu đàn trong lãnh vực nghiên
cứu, Mommsen đã nghiên cứu nguồn gốc và sự ra đời luật La Mã, văn bia, tiền
đúc, biên niên sử La Mã, và lịch sử tổng quát La Mã. Ngay cả một nhà phê bình
có thành kiến cũng thừa nhận rằng ông có đủ thẩm quyền nói về văn bia Lapygian, một đoạn văn Appius Caecus và nền nông nghiệp ở Carthage. Những người trí thức đều biết ông qua tác phẩm Lịch sử
La Mã - Romische Geschichte, (1854-55, 1885), và đặc biệt cùng
với tác phẩm đồ sộ này Viện Hàn lâm Thụy Điển tặng giải thưởng Nobel Văn chương
cho ông.
Bộ
sách bắt đầu xuất hiện vào năm 1854, lúc đó tập IV chưa xuất bản, nhưng vào năm
1885 ông cho xuất bản tập V, một tác phẩm
ưu việt mô tả các chính quyền địa phương
dưới thời Đế chế. Tác phẩm này được đề cập trong qui chế của giải Nobel
và người ta có thể sử dụng nó như một khởi điểm để đánh giá toàn bộ tác phẩm
của Mommsen. Bộ Lịch sử La Mã của ông, được dịch ra nhiều thứ tiếng, nổi
tiếng vì sự uyên bác và tỉ mỉ cũng như văn phong sinh động và hùng hồn. Mommsen
đã kết hợp sự tinh thông tài liệu của ông với óc phán đoán sắc bén, phương pháp
chuẩn xác, sinh lực trẻ trung và cách trình bày đầy nghệ thuật. Ông biết cách
đãi cát tìm vàng, và thật khó để phân định, dù người ta càng tán dương và càng
thán phục, vì kiến thức bao la và đầu óc tổ chức siêu việt hay vì khả năng sáng
tạo của ông và khả năng biến những sự kiện được điều tra thành một bức tranh
sống động. Trực giác và khả năng sáng tạo của ông làm cầu nối giữa nhà sử học
và nhà thơ. Mommsen cảm thấy mối quan hệ
này khi trong tập V bộ Lịch sử La Mã, ông nói rằng trí tưởng
tượng không chỉ là mẹ của thi ca mà còn là mẹ của lịch sử. Thật vậy, giữa hai
lãnh vực này có điểm tương đồng rất lớn.
Nhiều
nhà phê bình đã phản đối Mommsen, cho rằng đôi khi ông bị tài năng cuốn theo những phán đoán chủ
quan nông nổi, đặc biệt trong những lời bình phẩm thường thiếu thiện chí liên
quan đến những nghĩa quân cuối cùng chết cho tự do và những địch thủ của
Caesar, và liên quan đến những vấn đề giữa các đảng phái trong suốt thời kỳ khắc nghiệt này. Nói một cách khác,
phải nhấn mạnh rằng Mommsen không bao giờ ca ngợi quyền lực tàn bạo. Khi đánh
giá C. Gracchus, nhà cách mạng gây nhiều cảm hứng cho ông, lúc thì khen, lúc
lại chê, ông cho rằng mỗi nhà nước sẽ sụp đổ như lâu đài trên cát trừ khi kẻ
thống trị và tầng lớp bị trị có cùng một mối ràng buộc đặt trên nền tảng đạo lý
chung. Đối với ông dân giàu là cốt lõi của một quốc gia. Ông nghiêm khắc chê
trách hệ thống nô lệ đáng nguyền rủa của đế quốc La Mã.
Qua
những khắc họa trên, nhà sử học Treitschke đã tuyên bố rằng bộ Lịch sử La
Mã là một tác phẩm lịch sử chính xác nhất của thế kỷ 19 và rằng,
Hannibal và Caesar của Mommsen đã đốt lên ngọn lửa nhiệt tình trong lòng mỗi thanh niên, mỗi
người lính trẻ.
Tuy
là bộ sách nghiên cứu, nhưng tác phẩm không mất vẻ tươi mát. Nó là một tượng
đài, mặc dù không sở hữu vẻ đẹp mềm mại của cẩm thạch, nhưng vĩnh cửu như đồng.
Bàn tay của học giả có thể nhìn thấy khắp nơi trong tác phẩm, nhưng chính nó
cũng là bàn tay của một nhà thơ. Và, thực vậy, Mommsen đã làm thơ hồi còn trẻ.
Tập thơ Ca khúc của ba người bạn - Liederbuch dreier Freunde (1843) là
nhân chứng của việc ông trở thành kẻ tôi
tớ của thần Thi ca.
Khoa
học và nghệ thuật luôn luôn chứng tỏ khả năng gìn giữ tâm hồn tươi trẻ ở những
người đang hoạt động trong lãnh vực này, Mommsen vừa là học giả, vừa là nghệ
sĩ, nên ở tuổi 85 ông vẫn trẻ trung trong tác phẩm của mình.
1903 - BIORNSTJERNE
BJORNSON
(Na-uy, 1832 – 1910)
Chân dung nhà văn
Biornstjerne
Bjornson không những là một nhà văn sử thi vĩ đại mà còn là một nhà thơ trữ
tình xuất chúng. Những tác phẩm như Synnove Solbakken, Arne (1858) và Cậu
bé hạnh phúc - En glad gut (1860) đã đưa ông lên ngôi đầu bảng những
họa sĩ vẽ cuộc sống đương thời. Trong những miêu tả mang màu sắc ảm đạm đó, ông
đã tự bộc lộ mình như một anh nhà quê và người kể chuyện cổ tích vùng Bắc Âu.
Thật vậy, như chúng ta biết, không phải không có lý do rằng ông mô tả đời sống
nông dân bằng giọng văn kể chuyện xưa. Và chúng ta cũng biết thêm rằng những
nông dân mà ông biết rất rõ khi ông sống ở Romsdal - trong cách đánh giá của
những người có đủ thẩm quyền - đã bảo tồn cách nói gọn gàng, súc tích mà nhà
thơ đã sao chép lại bằng cách chọn câu chữ diễn đạt cho thích hợp. Mặc dù cách
diễn đạt này được lý tưởng hóa và đậm đà chất thơ nhưng rất trung thực với thiên nhiên.
Bjornson
còn là một kịch tác gia, ông thường đề cập đến những đề tài lịch sử, ví dụ như:
Kong Sverve (1861), Sigurd kẻ
Thập tự chinh - Sigurd Jorsalafar (1872), tác phẩm nổi tiếng Sigurd Kẻ
Bất lương - Sigurd Slembe (1862), trong đó tình yêu của Auhild mang nguồn
sáng đến với một hoàn cảnh ảm đạm và ở đó hình bóng của Finnepigen đại diện cho
vẻ huy hoàng của ánh bình minh phương Bắc, vở kịch sôi nổi Maria Stuart và
Shotland (1864) và những sáng tạo đầy cảm hứng khác. Nhưng ông thường thành
công trong việc chọn những đề tài đương đại như trong tác phẩm Viên chủ bút
- Redaktoren (1874), Phá sản - En fallit (1874), v.v... Ngay cả lúc về
già ông cũng tạo ra một chân dung tình yêu không vụ lợi trong tác phẩm Paul
Lange og Tora Parsberg (1898). Trong tác phẩm Laboremus (1901) ông
đã tán dương điều thiện của đời sống đạo đức chống lại những sức mạnh tự nhiên
của những ham muốn vô độ. Cuối cùng,
trong Ở Storhove - Pa Storhove
(1902) ông tưởng nhớ sâu sắc đến lực lượng bảo vệ quê cha đất tổ mà đại diện là
nàng Margareta, một cột trụ trung kiên của gia đình. Nói tóm lại, người ta có
thể thấy rằng những nhân vật của
Bjornson đều là viên ngọc quí, tài năng của ông luôn luôn hướng đến mặt tích
cực, không có hướng tiêu cực. Tác phẩm của ông không bao giờ giả trá, trái lại
là thứ kim loại thuần khiết, và dù cho vật đổi sao dời, thời gian và kinh
nghiệm tác động mạnh lên quan điểm của
ông và quan điểm của người khác, ông không bao giờ ngừng tranh đấu được quyền
đòi hỏi tri thức để chế ngự con người.
Năng
lực sáng tạo của con người 71 tuổi này quá lớn lao đến nỗi năm 1902 ông cho ra
đời tác phẩm Ở Storhove rồi tiếp
theo là nhiều tác phẩm khác cho thấy ông
có khả năng duy trì một tinh thần trẻ trung sung sức.
Như
một nhà thơ trữ tình, Bjornson là mẫu mực của sự tinh giản và những tình cảm
thâm sâu. Thơ của ông là nguồn cảm hứng dồi dào bất tận, và tính chất du dương
của câu thơ đã lôi cuốn nhiều nhạc sĩ viết thành nhạc... Không có xứ sở nào có
một bài tụng ca hay hơn ''Ja, vi elsker dette Landet'' - Vâng, chúng ta
yêu đất nước của Bjornson, và khi người ta nghe bài tuyệt ca ''Arnljot
Gelline'' mà nhịp điệu chẳng khác nào sự chuyển động tráng lệ của những cơn
sóng. Người ta muốn nghĩ rằng trong tương lai, những cơn sóng kỷ niệm sẽ thì
thầm ''i store maaneskinsklare Naetter'' - trong những đêm trăng sáng
khi họ chơi một bản nhạc của một nhà thơ quốc gia vĩ đại trên bờ biển Na Uy.
1904.- NOBEL NĂM NAY ĐƯỢC TRAO CHO HAI NGƯỜI:
1904.- NOBEL NĂM NAY ĐƯỢC TRAO CHO HAI NGƯỜI:
1. FRÉDÉRIC MISTRAL (Pháp, 1830 - 1914)
Chân dung dung nhà thơ do Auguste Clément vẽ
Theo
nhận định của Viện Hàn lâm Thụy Điển, thi hứng của bậc trưởng lão Frédéric
Mistral còn trẻ trung hơn phần lớn những nhà thơ đương thời. Một trong những
tác phẩm chính của ông là Bài ca sông Rhone
- Lou pouèmo dóu rose, xuất bản vào năm 1897.
Mistral
sinh ngày 8 - 9 - 1830 tại làng Maiano (vùng Maillane, Pháp). Làng này nằm giữa
đường đi Avignon và Arles
trong thung lũng Rhone. Ông lớn lên giữa thiên
nhiên hùng vĩ này cùng với những người nông dân ở đây và sớm làm quen với công
việc đồng án của họ. Cha ông, Francois Mistral, là một phú nông, suốt đời tín
thành tập tục của tổ tiên mình. Còn mẹ ông thì nuôi dưỡng tâm hồn con mình bằng
những bài dân ca và truyền thống văn hóa nơi chôn nhau cắt rốn. Trong suốt thời
gian theo học trường College Avignon, ông học những tác phẩm của Homer và
Virgil, những tác phẩm này đã gây ấn tượng sâu sắc cho ông, và một trong những
vị giáo sư của ông - nhà thơ Roumanille - đã truyền cảm hứng cho ông về tình
yêu sâu xa tiếng mẹ đẻ miền Provence.
Theo
ước muốn của cha, Frédéric Mistral theo học luật ở Aix-en-Provence, nhưng sau đó, ông bỏ học để
chọn nghề theo sở thích của mình. Sự chọn lựa này chẳng bao lâu được thực hiện:
ông hiến dâng cuộc đời cho thi ca và mô tả vẻ đẹp của miền Provence bằng ngôn
ngữ địa phương, một phương ngữ mà ông là người đầu tiên nâng lên thành ngôn ngữ
văn học. Thể nghiệm ban đầu của ông là một trường ca viết về cuộc sống nông
thôn, rồi xuất bản tuyển tập thơ Miền Provence - Li Prouvencalo (1852).
Sau
đó, ông đã bỏ ra bảy năm liên tục để viết tác phẩm Mirèio (1859) nổi
tiếng khắp thế giới. Giá trị tác phẩm này không phải chỉ ở đề tài mà còn ở trí
tưởng tượng được diễn đạt trong đó. Hình ảnh của Mirèio đáng quan tâm như thế
nào không thành vấn đề, vấn đề là nghệ thuật liên kết giữa những tình tiết của
câu chuyện và của sự lột trần trước mắt chúng ta tất cả miền Provence với cảnh quang, kỷ niệm , những tập
tục cổ xưa và cuộc sống hàng ngày của dân chúng. Mistral nói rằng ông chỉ cất
lời ca cho những người chăn cừu và dân quê, ông làm như thế bằng tâm hồn mộc
mạc của Homer. Thật vậy, bằng vào sự thú nhận của chính ông, ông là một học trò
của Homer vĩ đại. Nhưng thay vì bắt chước vị thầy một cách mù quáng, ông đã
chứng tỏ tính chất sáng tạo riêng bằng kỹ thuật diễn đạt của mình. Một hơi thở
của thời hoàng kim đã tạo sinh khí cho nhịp điệu những câu thơ mô tả của ông.
Tập
thơ được chào đón nhiệt tình ngay lần đầu xuất hiện. Nhà thơ Lamartine, kiệt
sức với những âu lo riêng nhưng luôn luôn say mê những thi phẩm hay, đã viết
''một nhà thơ vĩ đại chào đời!''. Ông so sánh thơ của Mistral là một hòn đảo của
một quần đảo, là một Délos (thánh địa của thần Apollon) trôi nổi mà tự nó tách
rời khỏi quần đảo Cyclades để gia nhập, trong yên lặng, vào miền Provence thơm
ngát.
Bảy năm sau khi xuất bản tác
phẩm Mirèio, Mistral cho ra đời tác phẩm thứ hai với tầm cỡ tương đương - Calendau (1867). Người ta cho rằng cảnh
tượng của tập thơ này quá dị thường và không có thực. Nhưng nó phù hợp với tập
thơ trước về sự quyến rũ trong cách diễn đạt. Người ta có thể nghi ngờ sự cao
quý của những ý tưởng về tính thanh cao của của con người, thông qua cuộc thử
nghiệm này sao? Trong khi Mirèio ca
ngợi cuộc sống nông dân thì Calendau
trình bày một hình ảnh hấp dẫn của biển cả và núi rừng. Nó giống như một giọt
nước long lanh trong nhiều cảnh quang chính xác đáng nhớ về cuộc sống của ngư
dân.
Mistral không chỉ là một nhà
thơ sử thi mà còn là một nhà thơ lãng mạn vĩ đại. Tập thơ Đảo vàng của ông có nhiều
bài mang vẻ đẹp bất tử.
Trong những bài thơ lãng mạn
khác Mistral với lòng nhiệt tình cố nài những quyền lợi của ngôn ngữ Provence mới đối với sự tồn tại
độc lập và tìm kiếm để bảo vệ nó chống lại mọi
toan tính loại bỏ hay nghi ngờ nó. Nerto
(1884), một tập thơ văn xuôi có nhiều trang lôi cuốn người đọc. Nhưng truyện kể
mang tính sử thi, Lou pouèmo dóu Rose, thâm thúy hơn. Nói tóm lại, những
tác phẩm của Mistral đều là những tượng tài sừng sững mang vẻ huy hoàng của
vùng Provence yêu dấu của ông.
Trang bìa báo Le Petit Journal
vinh danh Frédéric Mistral
vinh danh Frédéric Mistral
được Nobel Văn chương 1904.
Trong quyển tân tự điển đồ sộ
về ngôn ngữ vùng Provence, Tresor dóu Félibrige (1879 - 1886), Mistral
đã bỏ ra hơn 20 năm ghi chép phương ngữ phong phú của miền Provence và xây dựng
một tượng đài bất tử cho vùng đất vàng này.
Hội Nhà thơ Provence
(Association of Provencial Poets) đã tán dương ông bằng câu: ''Mặt trời khiến
tôi cất lời ca''. Đúng vậy, thơ của ông như ánh sáng mặt trời miền Provence
chiếu rộng khắp nhiều quốc gia, ngay cả những vùng Nam địa cầu, ở đó chúng đã
làm cho nhiều con tim hoan hỉ.
2. JOSÉ DE
ECHEGARAY (Tây-ba-nha, 1833 - 1916)
Chân dung José de Echegaray
José de Echegaray sinh năm
1833 ở Madrid, nhưng thời thơ ấu ông sống ở Murcia, nơi cha ông làm việc ở Viện
nghiên cứu về Hy lạp. Nhận bằng tú tài năm 14 tuổi, chẳng bao lâu ông vào học Trường
Kỹ sư Dân sự, ở đó ông nổi tiếng chuyên cần và kỹ năng sắc sảo. Năm năm sau,
1853, ông tốt nghiệp bằng kỹ sư với một luận án xuất sắc nhất. Toán và cơ khí
vốn là những môn ông ưa thích nghiên cứu. Nhờ những kiến thức sâu rộng về hai
môn này nên ông được mời làm giáo sư ở ngay trường mà mới một năm trước đó ông
còn là sinh viên. Trong vài năm tiếp theo, cuộc vật lộn vì miếng cơm manh áo có
vẻ như vô cùng khắc nghiệt đối với ông, ông phải dạy thêm để kéo dài cuộc sống
bình dị nhất. Bất chấp hoàn cảnh, chẳng bao lâu ông trở thành một giáo sư lỗi
lạc, nổi tiếng cả về đức hạnh lẫn toán học ứng dụng và trở thành một công trình
sư tài ba. Cùng lúc này, ông chuyên tâm nghiên cứu kinh tế chính trị, bao gồm
những quan niệm về tự do mậu dịch. Chẳng bao lâu ông vươn đến tột cùng sự
nghiệp: ba lần ông làm bộ trưởng trong chính phủ. Ở những cương vị này, những
ai quen biết ông, dù đối thủ hay bạn bè, ông đều chứng tỏ tài khôn khéo trong việc
điều hành bộ máy mình quản lý.
Chẳng có gì đáng ngạc nhiên
khi chúng ta biết rằng nhà học giả này, người đã xuất bản nhiều giáo trình về
hình học giải tích, vật lý và điện , đã cống hiến năng lực bất tận của mình để
viết kịch bản sân khấu. Người ta cho
rằng những sáng tạo của ông dành cho sân khấu mang hình thức của những phương
trình và những bài toán. Nếu tài năng của ông hiển lộ trên lãnh vực này được
tán dương một cách nồng nhiệt bởi nhiều người ngưỡng mộ thì cũng gặp phải những
lời phê bình nghiêm khắc. Tuy nhiên, người ta không thể chối cãi rằng những tác
phẩm của ông nổi tiếng vì một ý thức đạo đức sâu xa. Một cách nào đó, những nhà
phê bình không sai lầm cho rằng trong kịch của ông, theo cách so sánh của những
nhà phẫu thuật, ông hiếm khi sử dụng phương pháp nào khác hơn là phương pháp
''cắt bỏ và khâu vá''.
Không màng đến những lời ca
ngợi nhất thời mà chỉ lắng nghe nguồn cảm hứng sâu xa trong lòng, Echegaray âm
thầm theo đuổi sự nghiệp của mình đến cùng, chứng tỏ khả năng viết kịch phi
thường của mình khiến chúng ta phải nghĩ
đến một Lope de Vega hay một Calderon.
Echegary đạt được vinh quang
lần đầu vào tháng 11 năm 1874 với vở kịch La esposa del vengador (Vợ của Người báo thù), trong đó tài năng
thực sự của ông được bộc lộ và trong đó, xen kẽ những tình tiết mang tính cường
điệu là những vẻ đẹp cao quí nhất được
ngợi ca. Công chúng có thể tưởng tượng rằng nó quay về thời hoàng kim của kịch
Tây Ban Nha. Họ chào đón Echegaray như một ''cổ máy'' tái sinh của thời đại huy
hoàng nhất trong nền kịch thơ quốc gia. Năm tiếp theo, vở En el puno de la
espada (Chuôi gươm) được giới thiệu và cũng nhận được sự tán thưởng. Năng
lực sáng tạo siêu phàm và quan niệm về cuộc đời của ông trong vở kịch này này
đã khiến cho khán giả phấn khích đến nỗi họ không ngừng vỗ tay suốt buổi biểu
diễn, và, sau khi cảnh cuối cùng kết thúc, Echegary phải xuất hiện trên sân
khấu đến bảy lần để nhận lời tán dương của họ. Nhưng những cuộc tranh luận lớn
lao đã nổ ra vào năm 1878 khi trong vở En el pilar y en la cruz (Chiếc cọc
và Cây tháng giá), tác giả đã chứng tỏ mình là người bảo vệ tư tưởng tự do
chống lại sự cố chấp, bảo vệ nhân tính chống lại sự cuồng tín. Nét đặc thù của
Echegaray mà chính ông tuân thủ được thể hiện trong vở Conflicto entre dos
deberes (Sự xung đột của trách nhiệm) giới thiệu vào năm 1882. Sự xung đột
của trách nhiệm được nhìn thấy trong hầu hết kịch phẩm của ông, nhưng hiếm khi
nó được đẩy lên đến cực điểm như trong vở kịch này. Hai vở kịch khác cũng làm
cho tên tuổi của ông nổi tiếng là O locura ó santidad (Người điên
hay vị Thánh) trình diễn vào tháng giêng năm 1877 và El gran Galeoto
(Galeoto vĩ đại). Trong vở Người điên hay vị Thánh ý tưởng hết sức phong phú và nội dung đầy kịch tính. Nó cho ta thấy một
người vì lòng trung thực mà hy sinh cả sự thành công và của cải vật chất của
mình, vì thế bị bạn bè và người đời coi như một thằng điên.
Vở Galeoto vĩ đại đã
tạo nên một ấn tượng mạnh hơn. Trong tháng đầu tiên sau lần ra mắt, có ít nhất
là năm bản in được phát hành rộng rãi trong cả nước đã mang vinh dự đến cho tác
giả. Vở kịch có giá trị lâu dài vì tác giả đã miêu tả tâm lý các nhân vật một
cách tài tình. Nó cho thấy sức mạnh của sự vu khống. Nét ngây thơ trong sáng
nhất bị biến dạng và bóp méo một cách đáng kinh tởm bởi những chuyện ngồi lê
đôi mách. Chủ nghĩa lãng mạn với vẻ đẹp nên thơ của nó rõ ràng có thể nhận ra
trong vở kịch này, những chi tiết trữ tình hết sức lôi cuốn và cấu trúc không
một tì vết. Echegaray đã cho một trong những nhân vật trong vở kịch Galeoto
vĩ đại thốt ra những lời nói bi quan về thế giới này, thế giới mà ''không
bao giờ nhận ra những phẩm chất tinh tế của một thiên tài cho đến ba thế kỷ sau
khi ông ta chết''. Điều này có thể xảy ra, nhưng trường hợp của Echegaray thì
không đúng.
Tượng chân dung nhà văn
1905 -
HENRYK SIENKIEWICZ
(Ba
Lan, 1846 – 1916)
Tượng chân dung nhà văn
Bất cứ khi nào nền văn học
của một dân tộc phong phú vô tận thì sự hiện hữu của dân tộc được bảo đảm, vì
loài hoa của một nền văn minh không thể lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi. Nhưng ở
mỗi đất nước chỉ hiếm hoi vài thiên tài mà chính họ là tinh hoa của đất nước
đó. Họ đại diện cho đất nước của họ với thế giới. Mặc dù, họ yêu mến những kỷ
niệm về quá khứ của dân tộc họ, nhưng chỉ để tăng thêm sức mạnh niềm hy vọng
cho tương lai. Cảm hứng của họ được cắm rễ sâu trong quá khứ giống như cây sồi baublis trong sa mạc Lithuania, nhưng
những cành cây thì đong đưa theo cơn gió của thời hiện tại. Một người đại diện
cho nền văn học và nền văn hóa trí tuệ của một dân tộc như vậy là người được
Viện Hàn lâm tặng giải thưởng Nobel Văn chương năm 1905: Henryk Sienkiewicz.
Tài năng đa dạng của Henryk
Sienkiewic hiện rõ vào năm 1890 khi ông thay đổi chủ đề sáng tác, từ chân dung
những chiến binh trong bộ tiểu thuyết ba tập gồm: Với Lửa và Gươm - Ogniem i mieczem
(1884), Trận đại hồng thủy - Potop (1886 - 87) và Ngài Pan
Wolodyjowski - Pan Wolodyjowski (1888 - 89) đến tiểu thuyết tâm lý hiện đại
Không giáo điều - Bez domagtu - mà những nhà phê bình xem đây là tác
phẩm chính của ông. Tiểu thuyết này mang hình thức một nhật ký, nhưng không
giống như nhiều quyển nhật ký khác, người đọc không hề cảm thấy nhàm chán. Với
một nghệ thuật viết khó ai có thể vượt qua được, tác giả giới thiệu cho chúng
ta khuôn mẫu của một con người trần tục, một kẻ hoài nghi về đạo đức và tôn
giáo, trở thành vô sinh vì hoàn cảnh bệnh tật để tự lý giải bản thân mình. Qua
những do dự thường xuyên của anh ta, anh ta ngăn cản hạnh phúc riêng của mình,
hy sinh hạnh phúc của những người khác, và cuối cùng không chịu nổi....
Năm 1892 ông cho in truyện
ngắn Chúng ta hãy theo Người - Pojdzmy za nim, một phác thảo đơn sơ được
tô vẽ bằng vẻ đẹp hết sức nên thơ về nữ bá tước Antea mang bệnh tật và đau đớn
từ những ảo giác nguy hiểm và đau khổ, được chữa trị bởi Đấng Cứu thế phục
sinh. Phải thừa nhận Chúng ta hãy theo Người tuy là một bản phác thảo,
nhưng lại là một câu chuyện cảm động sâu sắc. Thật vậy, viên phấn ngẫu nhiên
trong tay một bậc thầy khi phác họa ra thì thường gần bằng giá trị với những
tác phẩm nhiều công phu hơn. Chúng ta hãy theo Người được viết
với lòng mộ đạo cao quí, nó là một loài hoa thùy mị lớn lên dưới chân cây thánh
giá và trong đóa hoa của nó có một giọt máu của Đấng Cứu thế.
Sienkiewicz theo đuổi đề tài
tôn giáo và chẳng bao lâu ông nổi tiếng khắp thế giới với tác phẩm đồ sộ Quo
Vadis. Trong những năm 1895-96 ông viết Quo Vadis. Câu chuyện về
những cuộc khủng bố đưới thời Nero này là một thành công ngoài sức tưởng tượng.
Chỉ trong một năm 800.000 ấn bản tiếng Anh được bán ở Anh và Mỹ. Giáo sư
Bruckner chuyên về văn học sử Ba Lan ở Berlin đã ước tính trong năm 1901 khoảng
hai triệu ấn bản được bán ra ở hai quốc gia này. Nó được dịch ra hơn ba mươi
thứ tiếng. Quo Vadis diễn tả một cách tuyệt vời sự tương phản giữa phe
ngoại đạo giả hình thích ngụy biện với niềm tự hào của họ, và tín đồ Cơ đốc
giáo trung thành, khiêm tốn, giữa tính ích kỷ và tình yêu, giữa sự xa hoa láo
xược của triều đình và sự câm lặng của những người dân thấp cổ bé miệng.
Sau tác phẩm chính này,
Henryk Sienkiewicz trở lại đề tài về nước Ba Lan và năm 1901 ông viết tác phẩm Những
Hiệp sĩ của Thập tự - Krzyzacy. Lần này, công việc sáng tác của Sienkiewicz
không mấy dễ dàng như trường hợp ông viết
tiểu thuyết bộ ba trước kia, vì có ít nguồn tài liệu hơn. Nhưng
Sienkiewicz đã vượt qua những khó khăn và tạo cho tác phẩm của mình mang màu
sắc đậm đà thời trung cổ. Chủ đề của tiểu thuyết là cuộc chiến đấu của hai dân
tộc Ba Lan và Lithuania chống lại Những Hiệp sĩ Teutonic, những người từ xưa đã
hoàn thành sứ mệnh ban đầu của họ, đã trở thành một thể chế áp bức, chiếm lĩnh
quyền lực và những lợi lộc nhiều hơn từ đất đai bằng cây thập tự may trên chiếc
áo choàng là huy hiệu giai cấp của họ....
Rõ ràng Henryk Sienkiewicz là
người đầu tiên nhận ra món nợ của mình đối với nền văn học cổ Ba Lan. Nền văn
học này quả thực phong phú với những tên tuổi lớn như Adam Mickiewicz (1798 -
1855), Juliusz Slowacki (1809 - 1849), Zygmunt Krasinski (1812 - 1859). Nghệ
thuật sử thi đã được thực hiện thành công bởi những nhà văn như Korzeniowski,
Kraszewski và Rzewuski. Nhưng với Henryk Sienkiewicz nghệ thuật này đã chín mùi
và đạt đến tột đỉnh vinh quang của nó.
1906 - GIOSUÈ CARDUCCI
(1835-1907)
Chân dung nhà thơ
Để đánh giá chính xác sự phát
triễn tài năng và trí tuệ của Giosuè Carducci, điều quan trọng là chúng ta nên
biết đến cha ông, bác sĩ Michele Carducci, một thành viên của Hội Carboneria
(một đoàn thể chính trị bí mật hoạt động vì nước Ý thống nhất) và là nhà hoạt
động trong những phong trào chính trị cho một nước Ý tự do. Và chúng ta cũng
nên biết đến mẹ ông là một phụ nữ thông minh và hào phóng. Ông Michele hành
nghề bác sĩ ở Castagneto, nhờ vậy chàng thi sĩ trẻ tuổi đã trải qua thời thơ ấu
ở Tuscan Maremma.
Năm
1849, Carducci theo gia đình đến Florence.
Tại đây, lần đầu tiên ông được đọc thơ của Leopardi, Schiller và Byron và chẳng
bao lâu, ông bắt đầu làm những bài thơ sonnet (thể thơ 14 câu) châm
biếm. Sau đó, ông theo học trường Cao đẳng Scuola (Scuola Normale Superore) ở Pisa, tại đây, năng lực
sáng tạo của ông bộc lộ dần. Sau khi tốt nghiệp, ông trở thành giáo viên dạy tu
từ ở San Miniato. Vì những biểu hiện ý tưởng cấp tiến ông bị nhà cầm quyền
đương thời loại bỏ việc ứng cử một vị trí ở trường tiểu học Arezzo. Tuy nhiên, sau đó, ông dạy tiếng Hy Lạp tại một trường trung học ở Pistoia. Cuối cùng ông giữ một chân ở Trường đại
học Bologna và
chính nơi này ông đã thành công trong sự nghiệp dạy học của mình.
Nói
tóm lại, có nhiều hoàn cảnh thường tình ảnh hưởng đến đời sống của ông. Nhiều cuộc đấu tranh trong nghề nghiệp. Chẳng
hạn ông bị đình chỉ dạy ở Bologna trong một thời gian và trong nhiều trường hợp
ông dính líu đến những cuộc bút chiến nảy lửa
với nhiều tác giả Ý. Ông chịu đựng nhiều bi kịch cá nhân to tát, như
chuyện tự tử của người anh trai Dante là nỗi đau khủng khiếp nhất. Nhưng cuộc
sống gia đình và tình yêu dành cho vợ con đã cho ông niềm an ủi lớn lao nhất.
Chính trong thời gian này, sự nghiệp thi ca của ông nở rộ. Mặc dù ông là tác
giả của những bài phê bình văn học và
lịch sử xuất sắc, nhưng chính thi ca đã
đưa ông đến đỉnh vinh quang của sự nghiệp văn chương.
Tập
thơ Juvenilia (1863), như tên gọi, là
những bài thơ thời trai trẻ của ông sáng tác trong thập niên 50 (của thế
kỷ 19). Tập thơ gồm hai phần. Một phần có ngữ điệu và bố cục cổ điển, phần kia
mang âm điệu yêu nước sâu xa đi đôi với lòng căm thù sâu sắc Nhà thờ Công giáo
và uy quyền của Giáo hoàng - những trở ngại
kiên cố nhất đối với một nước Ý thống nhất. Tuyển tập thơ Nhẹ nhàng
và Nặng nhọc - Levia Gravia (1868) gồm những bài thơ của những năm 60. Một
nỗi buồn không tên phảng phất trong nhiều bài của tập thơ. Cuộc chinh phục
thành Rome bị
trì hoãn lâu dài khiến cho Carducci càng thêm đau khổ, nhưng cũng có quá nhiều
điều khác nữa xảy ra trong đời sống chính trị đương thời mà ông hết sức hối
tiếc. Carducci đã mong đợi nhiều từ những tình huống chính trị sẽ đến hơn là
đang có. Vì vậy, chúng ta có thể gặp một vài bài thơ toàn mỹ trong tuyển tập
này. Carducci quen thuộc với nền thi ca thế kỷ 14 nên có nhiều bài mang hơi
hướm của thời đại này, chẳng hạn như trong bài Những nhà thơ của Đảng Trắng -
Poeti di Parte Bianca và trong bài thơ về lời tuyên bố của Vương quốc Ý.
Chỉ
trong tập thơ Những bài thơ mới có vần - Rime nuove (1877) và trong ba
tập Tụng ca Người man rợ -
Odi barbare (1877- 89) mới thể hiện đầy đủ vẻ đẹp văn phong và chất trữ
tình thuần thục của Carducci. Ở đây, chúng ta
không còn thấy một nhà thơ có thái độ khinh thị, chiến đấu với thanh
gươm và ngọn lửa nhiệt tình dưới biệt danh Enotrio Romano nữa. Thay vào đó,
tính cách của nhà thơ hình như thay đổi hoàn toàn, chúng ta được nghe những
giai điệu êm ái hơn, dịu dàng hơn. Bài thơ mở đầu Về bài thơ có vần -
Alla Rima chẳng khác nào một bản nhạc
cực hay, một bài thánh ca đúng nghĩa. Phần cuối bài thơ biểu thị tính cách của
Carducci một cách tuyệt vời... Rõ ràng Carducci hiểu được khí chất của ông, cái
khí chất mà ông so sánh nó với biển Tyrrhenian (một phần của Địa Trung hải,
thuộc Ý). Nhưng sự lo lắng của ông không liên tục, và những âm điệu hân hoan
thật sự vang lên trong bài thơ quyến rũ Thơ đồng quê tháng Năm - Idillo
de Maggio. Buổi sáng – Mattinata - cũng là một bài thơ dễ thương khiến
chúng ta nhớ đến những bài thơ mang tên Mùa Xuân Hy Lạp của Hugo. Sự lớn
lao của nhà thơ bộc lộ đầy đủ hơn trong tác phẩm Tụng ca Những người man
rợ, tập đầu xuất hiện năm 1877, tập hai năm 1882 và tập ba năm 1889. Tuy
nhiên, có vài lời bào chữa cho những phê phán về hình thức tác phẩm.
Mặc
dù Carducci thông qua nhịp điệu thơ cổ, nhưng ông đã chuyển hóa chúng một cách
trọn vẹn đến nỗi người đọc quen với thể thơ này sẽ không hề nghe những âm điệu
cổ điển. Nhiều sự tương phản rõ ràng là được tìm thấy trong một bản chất đầy
thi vị và mạnh bạo như bản chất của Carducci. Nhà thơ đã nhận được lòng ngưỡng
mộ cũng như sự chê bai từ nhiều phía. Nhưng chắc chắn Carducci là một trong
những thiên tài uy thế nhất của nền văn chương thế giới. Và sự chê bai như thế,
cũng từ những ngươi đồng hương của ông, không được miễn trừ ngay cả những nhà
thơ vĩ đại nhất. Làm người ai mà chẳng có nhược điểm.
1907.- RUDYARD KIPLING
(1865 – 1936)
Chân dung Kipling do John Collier vẽ năm 1891.
Sáu
năm trước khi Rudyard Kipling được trao giải thưởng Nobel Văn chương, một tác
giả người Pháp đã dành nhiều thời gian nghiên cứu văn học Anh đã viêt: “Những
năm gần đây, trong lãnh vực văn học Anh đã xuất hiện một khuôn mặt sáng giá
nhất, đó là Kipling”.
Ở
Thụy Điển, cũng như những quốc gia khác, Quyển
sách Rừng của Kipling lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1894, được nhiều người
ngưỡng mộ và yêu thích. Một kiểu mẫu căn bản của khả năng tưởng tượng đã gây
cảm hứng cho người sáng tạo những câu chuyện hoang đường về loài vật như người
sói Mowgli, báo đen Bagheera, gấu Baloo, con trăn đá láu cá và mạnh bạo Kaa,
rắn mang bành trắng Nag và những con Khỉ ngốc nghếch, nói huyên thuyên. Những
truyện kể trong Quyển sách Rừng đã giúp Kipling trở thành tác giả ưa
thích nhất đối với trẻ em nhiều nước. Hơn thế nữa, người lớn cũng thích thú đọc
nó để sống lại những kỷ niệm thời thơ ấu.
Trong
số lớn những tác phẩm giàu tính sáng tạo của Kipling có quyển Kim (1901)
đã gây sự chú ý đặc biệt. Tác phẩm mô tả một tu sĩ Phật giáo hành hương dọc
theo những bờ con suối mà tín đồ thường tắm tẩy trần. Cách chọn từ cao nhã cũng
như sự quyến rủ và thận trọng trong tác phẩm là đặc điểm nổi bật trong phong
cách của nhà văn táo bạo này. Nhân vật chú nhãi ranh Kim, một chú tiểu, là mẫu
người bao giờ cũng ở trong trạng thái phấn chấn, thích quậy phá.
Thỉnh
thoảng có lời kết tội Kipling đôi khi dùng ngôn ngữ có phần thô lỗ và cách sử
dụng tiếng lóng của lính tráng trong những bài thơ gần như dung tục của ông.
Mặc dù đó là những nhận xét đúng, nhưng bù lại, điều quan trọng trong phong
cách của ông là tính nhiệt tình thẳng thắn và là tác nhân của sự kích thích đạo
đức. Ông đã chiếm cảm tình của đa số quần chúng độc giả, không chỉ ở các nước
Anglo-Indian xem ông như một bậc thầy văn chương vĩ đại, mà còn vượt xa những
biên giới của đế quốc Anh rộng lớn.
Vậy
thì nguyên nhân nào khiến cho Kipling được mến mộ khắp nơi trên thế giới? Hay,
đúng hơn, bằng cách nào Kipling tự chứng tỏ mình xứng đáng như thế? Vì sao mà người ta thấy ông xứng đáng được
nhận giải thưởng Nobel Văn chương, một giải thưởng mà nhà văn phải đặc biệt
chứng tỏ chủ nghĩa lý tưởng trong những quan điểm và nghệ thuật? Câu trả lời
như sau:
Về
căn bản, Kipling có lẽ không xuất chúng vì tư tưởng uyên thâm hay vì những suy
gẫm hơn người. Nhưng ngay cả người quan sát nhanh nhất cũng bất ngờ khi nhận ra
tài quan sát độc nhất vô nhị của ông, khả năng tái tạo những chi tiết tỉ mỉ
nhất từ hiện thực cuộc sống với độ chính xác đến kinh ngạc. Tuy nhiên, chỉ có
tài quan sát, mà nó hết sức trung thực với thiên nhiên, sẽ không đáp ứng trình
độ chuyên môn trong trường hợp cá biệt này. Có vài yếu tố khác mà nhờ nó tài
năng thi ca của ông được bộc lộ. Khả năng tưởng tượng tuyệt vời của ông không
chỉ giúp ông sao chép từ thiên nhiên mà còn cho chúng ta thấy cái nhìn nằm
ngoài tiềm thức của ông. Những trang tả phong cảnh của ông hiện ra bất ngờ
trước mắt. Ông chỉ cần dùng vài từ đầu tiên là phác thảo rõ ràng tính cách của
nhân vật, những đặc điểm tiêu biểu của tính tình và nhân cách của con người đó.
Tính sáng tạo không dựa vào nội dung bằng cách chụp ảnh đơn thuần những giai
đoạn hiện có của các vấn đề, nhưng nó muốn thâm nhập vào tận cốt tủy và tâm hồn
sâu kín nhất của sự vật và con người. Đó là nền tảng của hoạt động văn học.
Nếu
Kipling là một người theo chủ nghĩa duy tâm từ một quan điểm mỹ học vì trực
giác thi ca, ông cũng là người theo chủ nghĩa duy tâm từ quan điểm tôn giáo
trọng luân thường đạo lý, vì ý thức bổn phận của ông, mà nó gây cảm hứng cho một
niềm tin ăn sâu trong sự nhận thức tội lỗi. Ông ý thức về sự thực một cách sâu
sắc rằng, ngay cả những nhà nước hùng mạnh nhất cũng sẽ diệt vong trừ khi họ
đặt nền tảng vững chắc trong lòng công dân biết tuân thủ luật pháp và biết tự
kiềm chế hợp lý.
Thế
mạnh của Kipling rõ ràng là trí tưởng tượng cũng như sự quan sát do kinh
nghiệm. Nó tiềm ẩn trong máu thịt của ông. Mặc dù ông không có được văn phong
hoa mỹ gợi cảm và tinh tế của Swinburne, trái lại, ông thoát khỏi mọi khuynh
hướng nhằm tôn sùng khoái lạc vì ý thích thấp hèn của một kẻ ngoại đạo. Ông
tránh mọi tình cảm ủy mị trong nội dung và hoa hòe hoa sói trong hình thức.
Kipling thích cụ thể và tập trung hơn. Trong tác phẩm của ông hoàn toàn không
có những miêu tả trừu tượng và uẩn ngữ. Ông có sở trường tìm từ để diễn đạt
trong cách kể chuyện, những tên gọi có ý nghĩa mang tính đặc trưng rất chính
xác và chắc chắn. Có lúc người ta so sánh ông với Bret Harte, lúc thì với
Pierre Loti, lúc thì với Dickens, tuy nhiên ông luôn luôn là chính mình và
dường như năng lực sáng tạo của ông thì vô tận.
Nếu
Kipling hoàn toàn độc lập như một nhà văn, điều đó không có nghĩa là ông chẳng
học được điều gì từ những nhà văn khác, ngay cả những bậc thầy vĩ đại nhất cũng
thế thôi. Với Bret Harte, Kipling đã học cách nhìn đời sống sinh động của dân
cù bơ cù bất. Với Defoe là sự chính xác trong cách miêu tả từng chi tiết và ý
nghĩa của giá trị trong cách dùng thuật ngữ và đoạn văn một cách chính xác.
Giống như Dicken, ông có mối thương cảm thấm thiết với những người bần cùng
trong xã hội và có thể nắm được tính châm biếm trong những đặc điểm và những
hành động tầm thường. Nhưng văn phong của ông rõ ràng là độc đáo, không lẫn lộn
với ai. Nó hoàn thành mục đích nhờ gợi ý nhiều hơn là mô tả. Nó không hoàn toàn
xuất sắc một cách đồng bộ nhưng nó luôn luôn diễn cảm và sinh động vô cùng.
1908 - RUDOLF EUCKEN
(Đức, 1846 – 1926)
Chân dung triết gia Rudolf Eucken
Viện
Hàm lâm Thụy Điển tặng giải thưởng Nobel Văn chương cho triết gia Rudolf Eucken
vì “công nhận công lao tìm kiếm sự thực một cách nghiêm túc, khả năng tư duy
sâu sắc, có cái nhìn bao quát trong nhiều lãnh vực và cách trình bày vấn đề sôi
nổi, có sức thu hút mà ông đã chứng minh và phát triễn triết lý duy tâm của
cuộc sống trong nhiều tác phẩm”.
Giáo
sư Eucken đã in nhiều bài viết sâu sắc trong nhiều lãnh vực triết học. Với tư
cách là nhà văn, ông đã cho ra đời nhiều quyển sách quan trọng về vấn đề triết
học giúp chúng ta hiểu được toàn bộ tư tưởng của ông. Hơn thế nữa, công chúng
rộng rãi đã đón nhận những quan điểm sáng suốt và có tính thuyết phục mà ông
trình bày để cố gắng giải quyết những
vấn đề cấp bách nhất của nền văn minh đương đại.
Ông
xem lịch sử có một ảnh hưởng quyết định đến triết lý của ông, và những nghiên
cứu về triết học và lịch sử đã đưa ông đến những vấn đề mà ông quan tâm giải
quyết. Từ nhỏ, cuộc sống thực tế của con người và xã hội có ý nghĩa đối với ông
nhiều hơn là những khái niệm trừu tượng của sự phân tích tư tưởng đơn thuần.
Ngay
từ thời trẻ, Eucken đã làm quen với mọi trường phái triết học ở Đức, nhưng lãnh
vực chính của ông là nghiên cứu lịch sử và phê bình về sự nảy sinh và phát
triển dòng tư tưởng chính thống liên quan đến sự tiến hóa và đổi thay nền văn
hóa chung.
Ông
hiểu biết sâu sắc về lịch sử, và những cố gắng đầy ý nghĩa gắn liền với tư
tưởng riêng ông về những tác động mạnh mẽ của cuộc sống đối với chứng cứ của
lịch sử, đã đặt ông lên trên những quan điểm thiển cận mà chúng muốn cường điệu
và hiểu sai ý nghĩa nội tại của lịch sử. Những quan điểm này, phải trả bằng
giá của lòng yêu sự thực khách quan, đã
quá phổ biến trong lịch sử của thế kỷ này.
Xa
hơn nữa, Eucken nhìn thấy mối đe dọa nền văn minh trong bức tranh biếm họa của
chủ nghĩa lịch sử, một phần nó định kéo tất cả mục tiêu vững chắc và mục đích
cao cả hơn vào vòng xoáy của một học thuyết tương đối được hiểu sai, một phần cổ
vũ những cố gắng thường xuyên để hạn chế và làm tê liệt ý chí con người bằng
cách làm cho nhân loại với những phát triễn và thành tựu ăn khớp vào một chủ
nghĩa được coi là tự nhiên và quan hệ nhân quả theo thuyết định mệnh.
Nhưng
tương phản với Nietzsche, chẳng hạn như ông không tin vào quyền năng của một cá
nhân quá tự phụ để duy trì ý chí của
chính mình, mặc dù có quyền định đoạt
bổn phận đối với những qui luật đạo đức bất di bất dịch. Theo quan điểm của
Eucken, không phải là cá nhân hay siêu
nhân hiện hữu trong sự chia cắt mà là nhân cách vững mạnh được hình thành trong
ý thức của sự hài hòa thanh thoát với những sức mạnh trí thức về vũ trụ, vì vậy
con người không phụ thuộc quá sâu, nên nhân cách này được đánh thức để giải
phóng chúng ta ra khỏi sự cưỡng bức nông cạn của tạo hóa và sức ép không thể
không thoát được một cách hoàn toàn của một chuỗi nguyên nhân và hiệu quả thuộc
về lịch sử.
Eucken
không loại bỏ thuyết siêu hình nhằm diễn tả những sự kiện dễ ảnh hưởng đến
chúng ta trong lãnh vực vô tận của chân lý và đời sống. Nhưng ông cũng không
xây dựng một hệ thống vĩnh viễn mà chính ông cũng không muốn. Triết học của
ông, mà ông gọi là triết lý hành động, chủ yếu điều khiển những ảnh hưởng của
sự tiến hóa loài người và vì vậy nó năng động hơn là tĩnh tại.
Chúng
ta có thể xem ông là một triết gia văn hóa (Kulturphilosoph), một người
đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn và nhu cầu trong thời đại chúng ta.
1909 - SELMA LAGERLOF
(Thụy Điển, 1858 – 1940)
Chân dung Selma Lagerlof
Ngay
từ những tác phẩm đầu tay, Selma Lagerlof đã gây sự chú ý trên văn đàn Thụy Điển
và trong lòng công chúng. Quyển Truyện kể về giòng họ Gosta Berling -
Gosta Berlings Saga - nổi tiếng không chỉ vì nó đánh đổ một cách dứt khoát
thuyết duy thực giả dối và không lành mạnh mà còn vì tính chất độc đáo.
Bà
sớm bước vào lãnh địa riêng của mình mà đó chính là di sản của tổ tiên: thế
giới mầu nhiệm của những truyện thần tiên và cổ tích. Chỉ có một tâm hồn đã
được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện cổ tích từ thời thơ ấu và tâm hồn đó hết
sức giàu tưởng tượng, luôn luôn nhìn thấy xa hay sâu hơn thế giới vô hình, mới
dám chuyển dịch những bí mật của thế giới vô hình. Tài tưởng tượng, tính đặc
trưng trong những tác phẩm của Lagerlof, thấm đậm trong máu thịt của bà hơn bất
cứ ai khác từ thời đại của Nữ thánh Birgitta (*). Giống như những khúc xạ trong
hơi nóng của sa mạc tạo nên những ảo tượng sinh động đối với người lạc bước
trong đó, trí tưởng tượng đầy màu sắc và ấm áp tình người của bà đã ban cho bà
một khả năng tuyệt vời với cái nhìn về ý nghĩa của thực tế sinh động mà bất cứ
ai nghe thơ của bà cũng nhớ lại một cách rõ ràng.
Như
một họa sĩ chuyên vẽ tranh sinh hoạt nông thôn, bà là người độc nhất vô nhị và
có thể tranh đua với những họa sĩ xuất sắc nhất ở các quốc gia khác. Trong tác
phẩm Cô gái ở Marsh Croft - Tosen fran Stormytorpet (1908) không
ai có thể bắt chước được cách miêu tả hiện thực và trung thực này. Nó chứa đựng
một vẻ đẹp mới lạ và thâm sâu mang tính hấp dẫn không thể cưỡng lại được của
một tình yêu vị tha làm nền tảng cho toàn bộ tác phẩm. Nhiều tác phẩm của bà
cũng mang vẻ đẹp tương tự. Nhưng tài năng của Selma Lagerlof hiển lộ rõ ràng
nhất trong tác phẩm nổi tiếng Thánh địa - Jerusalem (1901-02). Những tình cảm thiêng
liêng sâu xa thỉnh thoảng khuấy động người dân nông thôn ở đất nước Thụy Điển,
hiếm khi được truy nguyên rạch ròi như cách miêu tả cuộc hành hương của người
dân Dalekarlia đến thánh địa trong tác phẩm này.
Selma Lagerlof nhận giải Nobel Văn chương
Tranh minh họa của Svenska Dagbladet
Văn
phong của Selma Lagerlof xứng đáng với cách đánh giá Viện Hàn lâm Thụy Điển.
Như một người con gái trung nghĩa, bà đã cai quản một di sản ngôn ngữ phong phú
mà mẹ bà để lại, từ suối nguồn này đưa đến cách chọn từ trong sáng, cách diễn
đạt sáng sủa và nhạc điệu êm ái là nét đặc trưng trong toàn bộ tác phẩm của bà.
Cách chọn từ đơn giản và trong sáng, nét đẹp văn phong và tài năng tưởng tượng
lại được kèm theo tình cảm tôn giáo sâu xa và mạnh mẽ mang tính đạo đức. Thật
vậy, về mặt nào đó, nó không tồn tại với bất cứ ai mà cuộc đời họ là “sợi chỉ trong khung dệt của Thượng đế”. Điều
khiến cho những tác phẩm của Selma Lagerlof quá đáng yêu là hình như chúng ta
luôn luôn nghe trong đó có tiếng vọng của những điều tốt đẹp nhất, sôi nổi nhất
và kỳ lạ nhất mà chúng luôn luôn lay động tâm hồn người dân Thụy Điển. Ít người
hiểu được tâm can của người dân ở xứ sở này bằng một tình yêu như thế. Điều này
biểu hiện trong tác phẩm Cô gái ở Marsh Croft một cách chính xác, nét đặc trưng khốc liệt
của nó sáng bùng lên ở cách nhìn về lòng hy sinh của cô gái trẻ, cuối cùng cô
nói bằng một tình cảm sâu xa: “Đó là nhân dân tôi. Tôi sẽ không giận họ vì tình
yêu và nỗi sợ trong sâu thẳm tâm hồn nhỏ bé của họ dành cho Thượng đế quá nhiều”.
Một cái nhìn thân thiết và sâu xa như vậy chỉ có đối với một người mà tâm hồn
họ cắm rễ sâu trong lòng đất Thụy Điển và đã hút chất dinh dưỡng của nó từ
những câu chuyện thần thoại, lịch sử, dân ca và thiên nhiên. Thật dễ hiểu tại
sao sự thần bí, luyến tiếc quá khứ và bóng tối kỳ diệu là tài sản riêng của
thiên nhiên Bắc Âu được phản ánh trong toàn bộ tác phẩm của bà. Nghệ thuật vĩ
đại của bà chính xác là ở điểm bà biết dùng trái tim cũng như tài năng thiên
phú của mình để đưa ra những hình tượng từ nguyên mẫu mà chúng ta tự nhận ra
mình trong đó.
(*)
Nữ thánh Birgitta : (1303 - 1373), góa phụ của một hoàng tử Thụy Điển, nổi
tiếng với tác phẩm Revelations – Mặc khải. Hàng năm được nhân dân làm lễ tưởng
niệm vào ngày 8-10.
1910 - PAUL VON HEYSE
(Đức, 1830
–1914)
Chân dung nhà văn
Chúng
ta có thể nói một cách chính xác rằng Paul Von Heyse là người sáng tạo ra loại
tiểu thuyết ngắn (nouvella) tâm lý hiện đại. Ông ít có dụng ý trong loại tiểu
thuyết này, và có lẽ đó là lý do mà chúng ta thích tính khách quan theo quan
điểm Goeth của chúng hơn là những truyện dài của ông như Trẻ con Thế giới
- Kinder der Welt (1872) và Trên Thiên đàng - Im Paradiese (1875) mà
chúng đề cập đến nhiều vấn đề đạo lý. Tác phẩm trước bày tỏ vấn đề đạo lý không
lệ thuộc vào những giáo điều hẹp hòi, tác phẩm sau nhằm bảo vệ nghệ thuật chống
lại chủ nghĩa đạo đức khắc khổ. Cả hai tác phẩm đều cho chúng ta thấy rõ chủ
nghĩa nhân đạo của tác giả. Trong Trên Thiên đàng ông còn miêu tả thế
giới nghệ sĩ ở Munich.
Với Ngược dòng - Gegen den Strom (1904), Heyse can đảm thách thức những
thành kiến cố hữu bằng cách chống lại thông lệ tranh chấp tay đôi. Một năng lực
sáng tạo trẻ trung một cách kỳ lạ hiện rõ trong tác phẩm Thần Vệ Nữ chào đời
- Geburt der Venus (1909), qua đó ông kiên định và dứt khoát bày tỏ quan niệm
thẩm mỹ của mình bằng cách bảo vệ tự do sáng tạo, chống lại chủ nghĩa khổ hạnh
bằng cách bút chiến đồng thời chống lại kỹ thuật sao chép tư tưởng nông cạn,
tầm thường và ngèo nàn theo chủ nghĩa tự nhiên.
Tuy
nhiên, Heyse không chỉ là nhà văn của tiểu thuyết và tiểu thuyết ngắn, ông còn
là nhà thơ trữ tình nhất của nước Đức đương thời. Ông đã sáng tác những “tiểu
thuyết ngắn” bằng thơ rất thú vị, trong số đó có tập thơ đáng ca ngợi là Salamander
(1879). Mặc dù lãnh vực kịch nghệ không phải là tài năng thiên bẩm của ông,
nhưng ông cũng viết nhiều vở kịch xuất sắc, có thể chọn hai trong tổng số trên
năm mươi vở là: Kolberg (1865) - viết về những người yêu nước và Hadrian
(1865) - vở bi kịch hấp dẫn, trong đó sự khôn ngoan và nỗi buồn phiền của nhân
vật Hadrian trộn lẫn
vào nhau được mô tả bằng một bút pháp cảm động nhất.
Heyse
là người có tư tưởng độc lập. Trong khi bạn ông là nhà viết kịch Ibsen ca ngợi
hết lời tác phẩm Những người giả vờ và Những tên Viking cướp biển ở
Helgeland của ông thì ông chẳng những không thích vở Những con ma mà
cả những vở kịch tượng trưng sau đó của ông này. Ông cũng hết sức mê nhạc,
nhưng không quá xúc động khi nghe nhạc của Wagner cũng như của Beethoven,
Mozart, Schubert, Chopin và Brahms.
Thực
sự mà nói rằng nhà văn có sức quyến rủ và
hài hòa này đã được công chúng biết đến rất sơm, nhưng cũng phải công
nhận có lúc tình thế thay đổi. Chủ nghĩa tự nhiên, nổ tung về phía trước trong
những năm 80 và chiếm ngự quang cảnh văn chương nghệ thuật trong thập niên kế
tiếp, nhắm vào sự chối bỏ thần tượng, đã không thương tiếc tấn công chống Heyse
bởi những đối thủ sừng sỏ nhất của chủ nghĩa này. Ông cũng là người quá hòa
nhã, quá yêu cái đẹp, quá đạo đức và cao thượng đối với những người mà họ phỉ
báng ông bằng bất cứ giá nào, những người đòi hỏi cảm giác, ấn tượng, sự phóng
túng kỳ quái và những mô phỏng đần độn của những sự thực xấu xa. Heyse không
đầu hàng. Thái độ khôn ngoan của ông bị phỉ báng bằng những hành vi thô lỗ của
họ. Ông đòi hỏi nhà văn nên nhìn cuộc sống trong một ánh sáng lý tưởng thì văn
chương sẽ tôn lên vẻ đẹp thực tế.
Heyse
đã đi theo con đường riêng của mình. Về mặt thẩm mỹ ông tôn sùng sự thực, nhưng
bằng thái độ đó, ông phản ánh cốt tủy sự thực qua cái nhìn thực tế bên ngoài.
Một câu nói nổi tiếng của Schiller: “Cuộc đời thì trang nghiêm mà nghệ thuật
thì trầm lặng”. Để hiểu một cách chính xác, nó diễn tả sự thực sâu xa có thể
nhìn thấy được trong cuộc đời và tác phẩm của Heyse. Vẻ đẹp cần được phóng
thích và tái tạo, nếu không nó không những mô phỏng thực tế một cách mù quáng
mà còn bị kéo xuống bùn đen. Nó mang
tính giản dị thanh cao. Heyse biểu lộ vẻ đẹp trong phương diện này. Ông không
giảng dạy đạo đức, thứ đạo đức cướp đoạt vẻ đẹp ngay tức thì, nhưng trong tác
phẩm của ông chứa nhiều chất thông thái và cao thượng. Ông không thuyết giảng
tôn giáo, nhưng người ta không thể tìm thấy bất cứ điều gì làm tổn thương tình
cảm tôn giáo một cách nghiêm trọng trong tác phẩm của ông. Mặc dù ông chú trọng
đến đạo đức hơn là giáo điều, ông đã diễn tả lòng ngưỡng mộ sâu xa của mình với
mọi quan điểm nghiêm túc. Ông là người khoan dung nhưng không lãnh đạm. Ông tán
dương tình yêu, nhưng đó là tình yêu thần thánh chứ không phải tình yêu trần
tục tô son điểm phấn. Ông thích những ai tin vào bản tánh của mình, nhưng những
cá nhân mà Heyse đồng cảm nhất là những
người tôn trọng triệt để bản tánh cao quí của họ nhiều hơn là bản tánh thấp
hèn.
Chân dung tác giả
1911 – MAURICE MAETERLINCK
(Bỉ, 1862 – Pháp,
1949)
Chân dung tác giả
Tác
phẩm đầu tay của Maurice Maeterlinck là tập thơ mỏng mang tên Những móng
vuốt nóng bỏng - Serres chaudes (1889). Tập thơ này mang tâm trạng dằn vặt
nhiều hơn là điều mà người ta mong đợi từ tính tình trầm tư, điềm đạm của ông.
Cùng năm (1889) ông in một vở kịch kinh dị, Công chúa Maleine - La
Princesse Maleine. Đây là một vở kịch u sầu, khủng khiếp và đơn điệu vì nhiều
cảnh cứ tái diễn nhằm tạo một ấn tượng kéo dài, nhưng nội dung là một câu
chuyện thần tiên đầy sức quyến rủ, được viết bằng một sức sống mãnh liệt mà
người ta không nghi ngờ ở tác giả Những móng vuốt nóng bỏng. Dù sao đây
cũng là một tác phẩm nghệ thuật quan trọng. Vở kịch Công chúa Malein
được nhà văn Octave Mirbeau (1848-1917) hết lời ca ngợi trên tờ Le Figaro,
và kể từ đó Maurice Maeterlinck bắt đầu nổi tiếng. Sau đó, Maeterlinck viết
tiếp một loạt kịch bản. Hầu hết những kịch bản này cho chúng ta thấy những thời
đại không thể xác định và những nơi chốn không thể tìm thấy trên bất kỳ tấm bản
đồ địa lý nào. Cảnh trí thường là một tòa lâu đài tưởng tượng với những lối đi
dưới lòng đất, một công viên với nhiều chỗ có bóng râm dễ thương hay một ngọn
đèn biển ngoài khơi xa. Những cảnh tượng u uất này, luôn luôn chuyển dịch mờ ảo
như chính ý tưởng trong nhiều tác phẩm sân khấu hoàn hảo nhất của ông. Maurice
Maeterlinck là người theo trường phái tượng trưng và thuyết bất khả tri, nhưng
không thể kết luận rằng ông là người duy vật. Với bản năng và trí tưởng tượng
của nhà thơ, ông cảm thấy rằng con người không chỉ thuộc về thế giới hữu hình,
và ông xác quyết rằng thi ca không làm thỏa mãn chúng ta nếu nó không làm cho
chúng ta lĩnh hội được nhiều điều hơn là
sự phản ánh thực tế bí ẩn và sâu thẳm mà
đó là suối nguồn của hiện tượng. Chủ đề tư tưởng luôn chiếm lĩnh trong những
tác phẩm của ông, đặc biệt những tác phẩm hay nhất, là cuộc đời cao cả, chân
chính, tâm phúc và sâu thẳm của con người,
được biểu thị một cách chính xác trong những màn kịch thanh thoát nhất
của ông, và xoáy sâu vào những lãnh vực vượt xa hơn ý nghĩ và lý lẽ lan man.
Những màn kịch này Maeterlinck thường vượt trội hơn trong cách miêu tả bằng tài
năng tưởng tượng hầu như bay bổng và tâm hồn mơ mộng của sức tưởng tượng nhưng
với độ chính xác của một nghệ sĩ hoàn hảo. Cùng lúc sự biểu hiện được cách điệu
hóa, tính đơn giản hóa của kỹ thuật được đẩy xa như có thể được mà không làm
tổn hại đến nội dung của vở kịch.
Vở
kịch gây ấn tượng nhất của Maeterlinck là vở Aglavaine và Sélysette
(1896), một trong những viên ngọc thuần khiết nhất trong văn chương thế giới.
Với
năng lực sáng tạo không bao giờ cạn kiệt, năm 1903 Maeterlinck soạn vở kịch
kinh dị hấp dẫn Joyzelle. Nó cho chúng ta thấy tình yêu trải qua những
thử thách cam go và những thời kỳ u ám là niềm hân hoan chiến thắng, thủy chung
với chính bản chất của nó. Marie Magdeleine (1909) mô tả sự thay đổi
trong tâm hồn của một người ăn năn tội lỗi và sự chiến thắng vượt qua mọi cám
dỗ mà tất cả đều mạnh hơn khi nó chạm đến phần thanh cao nhất trong bản thân nàng
một cách chính xác, hối thúc nàng cứu thoát Messiah bằng sự hy sinh của chính
mình và của đời sống đạo đức mới mà chính anh ta đã tạo ra cho nàng, nói một
cách khác, sự hy sinh hành động sống còn của Messiah. Cuối cùng chúng ta tán
dương tác phẩm Con chim xanh -L’Oiseau bleu (1900) , một câu chuyện thần
tiên thâm thúy, lấp lánh chất thơ thời thơ ấu, cho dù có nhiều suy nghĩ hoàn
toàn thanh thoát ngô nghê. Lạy Chúa ! Con chim xanh hạnh phúc chỉ tồn tại bên
kia bờ ranh giới của thế giới có thể bị diệt vong này, nhưng những người có
trái tim trong trắng sẽ không bao giờ tìm kiếm nó vô ích, vì đời sống tình cảm
và trí tưởng tượng của họ sẽ làm cho họ phong phú và làm cho họ trong sạch
trong cuộc hành trình ngang qua những xứ sở cùa vùng đất mộng mơ.
Và
vì thế, chúng ta trở lại nơi chốn khởi đầu, vùng đất mộng mơ. Có lẽ chúng ta sẽ
không sai lầm nói rằng với Maurice Maeterlinck, mọi sự thực về thời gian và
không gian, ngay khi nó không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng, luôn luôn
mang tấm mạng của những giấc mơ. Dưới tấm mạng này sự thực của cuộc đời được
che dấu, và một ngày nào đó khi tấm mạng được nâng lên, thì bản chất của sự vật
sẽ được phát hiện.
1912 - GERHART HAUPTMANN
(Đức, 1862 – 1946)
Chân dung tác giả
Người
xưa nói rằng thời đại thay đổi thì con người thay đổi theo. Nếu chúng ta nhìn
lại quá khứ, chúng ta sẽ phát hiện ra
chân lý này. Chúng ta, những người không còn trẻ nữa, trong cuộc sống
hối hả của chúng ta đã có cơ hội để chiêm nghiệm sự thực của lời nói đó, và mỗi
ngày chiêm nghiệm nó lại một lần nữa. Nhìn lại chiều dài lịch sử, chúng ta thấy
rằng nhiều điều mới mẻ nảy sinh, nhưng trước tiên không được đón nhận mặc dù
trong tương lai chúng giữ một vị trí quan trọng. Một hạt giống nẩy mầm và lớn
thành một cây đại thụ. Có những tên tuổi trong ngành khoa học đương đại minh
họa sự khác biệt giữa những cái khởi đầu khiêm tốn và sau đó thì phát triễn
mạnh.
Điều
này thật phù hợp với thể loại kịch thơ. Đây không phải là nơi lần ra sự phát
triễn của nó qua 25 thế kỷ. Tuy nhiên, có một sự khác biệt ghê gớm giữa dàn
đồng ca của buổi lễ tế thần Dionysiac, gọi là bi kịch vì tất cả ca sĩ đều mặc áo da dê, và những nhu cầu của thời
hiện tại tạo nên kịch thơ, và sự khác biệt này tỏ ra tiến bộ đáng kể.
Trong
thời đại chúng ta Gerhart Hauptmann đã là một tên tuổi lớn trong lãnh vực kịch
nghệ. Trong hầu hết kịch bản của mình, ông đề cập đến tình cảnh của giai cấp hạ
lưu mà ông đã hằng tâm nghiên cứu, đặc biệt tại quê nhà Silesia của ông. Những mô tả của ông dựa
trên những quan sát sắc bén về con người và môi trường xung quanh. Mỗi một nhân
vật đều bộc lộ cá tính đầy đủ - không có dấu vết ước lệ hay rập khuôn. Chẳng
một ai mảy may nghi ngờ tính chân thật trong những nhận xét của ông. Họ xác
nhận Haupmann là một nhà văn hiện thực vĩ đại.
Hauptmann
cũng nổi tiếng về thể loại kịch lịch sử và hài kịch. Ông chưa xuất bản một tập
thơ trữ tình nào, nhưng những bài thơ ngẫu hứng trong kịch chứng tỏ tài năng
của ông trong lãnh vực này.
Thời
kỳ đầu sự nghiệp văn chương, ông đã in một vài truyện ngắn, đến năm 1910, ông
cho ra mắt tiểu thuyết Người bị phỉnh vì Chúa: Emanuel Quint - Der Narr
in Christo Emanuel Quint. Truyện ngắn Der Apostel trong năm 1892 là phác
thảo của tác phẩm này, trong đó chúng ta được biết về đời sống nội tâm của một
con người nghèo khổ, anh ta không được hưởng bất cứ nền giáo dục nào khác hơn
những điều học được trong Kinh Thánh, và không có bất cứ ý kiến phê bình nào về những gì anh đã đọc được, cuối cùng đi
đến kết luận rằng anh ta là hiện thân của Đấng Cứu thế. Thật không dễ dàng để
giải thích đúng về sự phát triễn linh hồn con người mà có thể được xem là bình
thường, vì mọi quyền lực và tình huống đều ảnh hưởng đến sự phát triễn của nó.
Nhưng quả thật có nhiều khó khăn để đạt được chân lý nếu ta diễn tả sự phát
triễn chiều sâu của một linh hồn mà về phương diện nào đó là bất bình thường.
Thử nghiệm là táo bạo, thể hiện được điều này phải mất nhiều thập niên làm công
việc sáng tạo. Phán xét việc làm này là vô cùng khó khăn. Nhiều ý kiến cho
rằng Emanuel Quint là cách giải
quyết bậc thầy của một vấn đề nan giải.
Ưu
điểm của Hauptmann là ở cái nhìn sắc sảo và nghiêm khắc đi sâu vào tâm hồn con
người. Tài năng này cho phép ông tạo ra những cá nhân có đời sống thật hơn là
những mẫu người đại diện cho cách nhìn hay quan điểm cá biệt nào đó trong những
kịch phẩm và tiểu thuyết của ông. Tất cả những nhân vật mà chúng ta gặp, ngay
cả những nhân vật phụ, cũng có một đời sống trọn vẹn. Trong tiểu thuyết của
ông, người ta thán phục những trang mô tả quang cảnh cũng như những phác họa
con người có quan hệ ít nhiều với nhân vật chính của câu chuyện. Còn kịch thì
chứng tỏ nghệ thuật bậc thầy của ông nhờ sự nội lực cô đọng của chúng, khiến
người đọc hay người xem phải theo dõi từ đầu đến cuối. Bất cứ đề tài nào ông đề
cập, ngay khi giải quyết mặt trái cuộc đời, ông luôn là người cao thượng. Đức
tính cao thượng đó và nghệ thuật được tinh lọc của ông đã tạo cho tác phẩm của
ông một sức mạnh tuyệt vời.
Nhà thơ R. Tagore
1913 - RABINDRANATH
TAGORE
(Ấn Độ,
1861 – 1941)
Nhà thơ R. Tagore
Tập
thơ tôn giáo Hiến dâng - Song Offerings (1912) của Tagore là một trong những
tác phẩm đã gây sự chú ý đặc biệt của những nhà phê bình khó tính khi nó chào
đời. Tác phẩm này đã thuộc về tài sản của nền văn học Anh theo đúng nghĩa của
nó, vì chính tác giả, người được giáo dục và rèn luyện là một nhà thơ viết bằng
tiếng mẹ đẻ Ấn Độ của mình, đã dành cho những bài thơ một vẻ hoàn hảo tân kỳ về
hình thức và độc đáo trong cảm hứng.
Người
làm vườn, Những bài thơ Trữ tình về Tình yêu và Cuộc sống - The Gardener, Lyrics of Love and Life (1913) tập
thơ thứ hai cùng chủ đề cũng được đánh giá như vậy. Tuy nhiên, trong thi phẩm
này, như chính tác giả đã cho chúng ta biết, ông đã lập lại nhiều hơn là thăng
hoa những cảm hứng ban đầu của mình. Ở đây, chúng ta thấy một giai đoạn khác
nữa về tính cách của ông, lúc thì nói về kinh nghiệm hạnh phúc xen lẫn đớn đau
của tình yêu thời trẻ, lúc thì day dứt những cảm giác thèm khát và hân hoan mà
những thăng trầm của cuộc đời gây ra, tuy nhiên toàn bộ tập thơ thoáng hiện
những ý tưởng mơ hồ về một thế giới cao xa hơn.
Trong
năm 1913, Tagore xuất bản một tập thơ với tên Trăng lưỡi liềm - The
Crescent Moon, mang tính tượng trưng, vẽ ra những bức tranh nên thơ của thời
thơ ấu và đời sống quê nhà, và một số bài diển thuyết đọc trước cử tọa là sinh
viên Anh và Mỹ mà ông đặt tên chung là Nhận thức cuộc đời - Sâdhanâ: The
Realisation of Life. Cả hai tác phẩm này biểu hiện quan điểm của ông về những
phương thức con người có thể đạt đến một niềm tin mà dưới ánh sáng của nó có
thể thực hiện được để sống. Đây là một tìm kiếm riêng của ông về mối quan hệ
đích thực giữa niềm tin và ý tưởng, làm cho ông nổi bật lên như một nhà thơ
thiên phú, được biểu thị bằng tư tưởng uyên thâm, nhưng hầu hết những kết quả
đạt được là do cảm xúc cao độ và do sức gợi cảm của thứ ngôn ngữ văn hoa mà ông
sử dụng.
Tuy
nhiên, cũng như bất cứ ai trong chúng ta, ông càng xa lánh tất cả những gì mà
chúng ta có thói quen chấp nhận được phân phối và được cung ứng trên những thị
trường như thị trường triết học Phương Đông, xa lánh những giấc mơ đau khổ về
luân hồi và nghiệp chướng (karma) không dành riêng cho ai, xa lánh
thuyết phiếm thần, thực tế là trừu tượng, xa lánh niềm tin luôn luôn được xem
như nét đặc thù của nền văn minh cao ở Ấn
Độ. Ngay cả Tagore cũng không chuẩn bị tư tưởng để thừa nhận rằng niềm tin như đã
mô tả có thể đòi hỏi bất cứ uy quyền nào từ những lời giáo huấn uyên thâm nhất
của những nhà thông thái thời quá khứ. Ông nghiên cứu kỹ Kinh Vệ đà, Upanishads
và cả giáo lý của Đức Phật, trong đó ông
đã phát hiện ra cho mình điều mà ông gọi là chân lý không thể bác bỏ được. Nếu ông tìm kiếm thần linh trong thiên nhiên
thì ông thấy ở đó một con người đang tồn tại với những nét đặc trưng của một vị
thần có sức mạnh vô hạn, một đấng toàn năng toàn trí mà sức mạnh tinh thần siêu
phàm của họ hiện diện khắp thế gian này, đâu đâu cũng có, nhưng đặc biệt trong
linh hồn của con người được vĩnh viễn định trước. Tán dương, cầu nguyện và hiến
dâng hết mình là những yếu tố tinh thần lan tỏa khắp tập Thơ Hiến Dâng
mà ông đặt dưới chân vị thần linh vô danh của mình. Khổ hạnh và ngay cả khắc
khổ về mặt đạo đức có vẻ như xa lạ đối với mẫu thần linh mà ông tôn thờ, mẫu
thần linh này có thể được đặc trưng hóa như một chủng loài của thuyết hữu thần
hợp với nguyên tắc thẩm mỹ. Lòng ngưỡng mộ trong cách mô tả vị thần linh đó
thật phù hợp với toàn bộ thi ca của ông, và nó đã ban cho ông sự bình an. Ông
tuyên bố sự bình an đó sẽ đến với những linh hồn mệt mỏi và tiều tụy vì lo lắng
ngay cả trong linh hồn của những người theo đạo Cơ đốc.
Ngoài tài thi ca, R. Tagore còn có tài hội họa
Đây
là chủ nghĩa thần bí, nếu chúng ta thích
gọi như thế, nhưng không phải là chủ nghĩa thần bí chối bỏ nhân cách, tìm kiếm
để mải mê trong cái Toàn thể tiếp cận cái Hư vô, mà là thứ chủ nghĩa thần bí,
với tất cả tài năng và năng lực của con người được tôi luyện đến mức độ cao
nhất, háo hức tiến về phía trước để gặp Đấng Sáng tạo của muôn loài đang tại
thế. Nhiều hạng người nhiệt tình theo chủ nghĩa thần bí này không phải hoàn
toàn không được biết đến tại Ấn Độ trước thời Tagore, thật vậy trong số những triết gia và những
nhà tu khổ hạnh thời xa xưa còn khắc khổ hơn nhiều dưới nhiều hình thức của bhakti
(*), lòng sùng đạo của họ mà cốt lõi là tình yêu thâm sâu và tin tưởng vào
Thượng đế. Ngay từ thời Trung cổ, những tu sĩ Du già chịu ảnh hưởng trong một chừng mực nào đó bởi tín đồ Ki-tô
giáo và những tôn giáo xa lạ khác, đã tìm kiếm những lý tưởng của niềm tin
trong những thời kỳ khác nhau của Ấn giáo, đặc điểm không giống nhau nhưng xét
tổng quát đều mang khái niệm của thuyết nhất thần. Tất cả những dạng thức cao
hơn của niềm tin này đã biến mất hay bị quá khứ đào thải, bị chết tức tưởi bởi
sự phát triển quá sức dồi dào của sự pha trộn
thờ cúng mà đã lôi cuốn tất cả người dân Ấn Độ thiếu khả năng tương xứng
để đối kháng lại những lời tán tỉnh của nó. Ngay cả Tagore cũng phải vay mượn
một hay nhiều âm điệu khác từ những dàn nhạc giao hưởng của các bậc tiền bối
trên quê hương ông, thật vậy ông đã đặt chân lên mặt đất vững chắc hơn trong
thời đại này, thời đại mà những cư dân trên trái đất cùng sát cánh bên nhau đi
trên con đường hòa bình, mà cũng là con đường tranh chấp, để liên kết và chịu
trách nhiệm chung, thơi đại tiêu phí những năng lực riêng của nó để gửi đi lời
chúc mừng và thiện ý ra khỏi đất liền và biển cả. Thế nhưng, Tagore, bằng những
hình ảnh mang tư tưởng tiên phong, đã cho chúng ta thấy những gì là trần tục bị
nuốt chửng như thế nào trong thế giới vĩnh hằng...
(*) Con đường tu hành bằng từ ái của các Du-
già
1919 - CARL SPITTELER
(Thụy Sĩ, 1845 – 1924)
Chân dung tác giả - ảnh chụp 1905.
Tác
phẩm Mùa Xuân Olympic - Olympischer Fruhling của Spitteler chỉ được dân
chúng Thụy sĩ và Đức biết đến khi tái bản vào năm 1909. Nhưng mỗi năm và đặc
biệt từ khi kết thúc chiến tranh (lần thứ I), nó càng lúc càng được mọi người
chú ý và số lượng phát hành càng tăng không ngừng. Đây là một con số đáng lưu ý
đối với một thiên sử thi 600 trang, được viết bằng thể loại thơ, nói về những
vị thần ở Olympus, người đọc phải đọc hết tập
và cũng gây sự nhàm chán lẫn tập trung cho họ. Nhà văn này, trong nhiều thập kỷ
đã hiến dâng tất cả năng lực của mình cho một công trình đồ sộ như vậy, quả
thực đã cố ý và luôn luôn tách biệt mình khỏi cuộc sống đương đại cuồng nhiệt
và đã ban tặng một ít tư tưởng cho nhu cầu hiện đại với sự đền bù vật chất
tương xứng.
Ông
đã không làm điều gì để làm suy yếu những tương phản này. Trái lại, ông đã cố
tình chọn một đề tài và cách tiếp cận chắc chắn để gây hoang mang và gây cảm
giác khó chịu cho những độc giả có thiên hướng khác nhau hay nền giáo dục và sở
thích khác nhau, khi họ cố gắng hiểu được một thế giới đầy thi vị mà ông đã mở
ra trước mắt họ. Từ đầu, ông đủ táo bạo để kêu gọi đức tính kiên trì của người
đọc phải đi theo ông đến cuối những con đường kỳ lạ của ông, những con đường
không chỉ được soi sáng bằng chuỗi hành động liên tục và rõ ràng mà cả những
độc thoại lẫn đối thoại của những vị anh hùng, tất cả đều mang kịch tính cao
mặc dù cốt truyện là sử thi. Người đọc thành thạo nhận ra những dấu vết của
Homer, nhưng điều bất ngờ là ông dẫn người đọc đến một mục tiêu không được biết
trước và không bao giờ đoán được.
Nhưng
suy cho cùng thì giữa Olympus của Homer và
thần thoại mang phong cách riêng của Spitteler có sự tương phản gay gắt và nổi
bật! Không gì có thể bất công hơn là lời chỉ trích rằng ông thích lôi cuốn
những nhà ngữ văn và những môn đồ uyên thâm khác bằng những ẩn dụ bí hiểm và
những biểu tượng thâm thúy vay mượn từ tư tưởng và sự hiểu biết của họ. Cách mô
tả những vị thần Olympic và những anh hùng, những huyền thoại và sấm truyền của
ông họa hoằm lắm mới làm chúng ta nhớ lại một trong những văn phong hay lối
diễn đạt của thi sĩ triết gia Hy Lạp lão luyện này. Có thể chúng không những được bắt nguồn từ những tìm
tòi mới nhất bằng sự uyên thâm về kinh điển, mà còn bằng cách trích dẫn những
chứng cứ đáng tin cậy của nhà thơ vào bất cứ hình thức thể hiện nào mang tính
phúng dụ. Spitteler không bắt chước bất cứ ai, không bắt chước ngay cả Goethe
khi nhà thơ này cố gắng hóa giải sự đam mê của người theo chủ nghĩa lãng mạn và
sự cân bằng kinh điển trong những chiếc mặt nạ của Faust và Helen trong tác
phẩm Faust. Thần thoại của Spitteler là hình thức biểu hiện hoàn toàn cá
nhân, nó phát triển một cách tự nhiên nằm ngoài sở học của ông và nó diễn đạt
tình trạng lộn xộn đang tồn tại của những nhân vật sống chật vật mà ông gợi lên
để miêu tả chúng theo mức độ của khả năng sáng tạo lý tưởng, miêu tả những nỗi
thống khổ, những hy vọng, và những ảo tưởng tan vỡ của con người, những thăng
trầm của từng vận mệnh khác nhau trong cuộc đấu tranh tự nguyện chống lại cảnh nghèo túng đã được an bài.
Thật
đầy đủ để nói rằng cuộc đời lỗi lạc của các vị thần Olympic và các thần vũ trụ,
tự biểu thị niềm hoan lạc và những thử thách về sức mạnh, kết thúc trong nỗi
tuyệt vọng mang khuôn mặt của kẻ vong ân bạc nghĩa, dâm loạn, ác đức và khốn
khổ. Herakles, con trai của thần Zeus, được cha, người thân và bè bạn trang bị
cho tất cả tài năng toàn hảo, nhưng cùng lúc mang gánh nặng bị Hera, hoàng hậu
của các vị thần, nguyền rủa và ghen ghét, phải rời ngọn Olympic để hoàn thành
nghĩa vụ bạc bẽo của lòng thương hại và can đảm trên mặt đất.
Những
vị thần Olympic, với những kỳ công và những cuộc phiêu lưu của họ, những cuộc
chiến đấu thắng lợi và những cuộc cãi vả lẫn nhau, thực tế là những siêu nhân
mà nhà thơ quí trọng vì họ có khả năng chế ngự những ý thích chớm nở và lòng
khát khao của họ...
1920 - KNUT HAMSUN
(Na-uy, 1859 – 1952)
Chân dung nhà văn
Mặc dầu trong thời đại chúng ta, có nhiều quan điểm
đang thịnh hành muốn tìm kiếm một nền văn học vượt qua bản sao trung thực của
thực tế, nhưng vẫn phải đón nhận tác phẩm Sự phát triển của đất -
Markens Grode (1917) của Knut Hamsun. Tác phẩm này tiêu biểu cho một cuộc sống mà
nó thiết lập cơ sở của sự sống, và cho sự phát triển những xã hội ở bất cứ nơi
nào mà con người đang sống và xây dựng. Những mô tả này không bị bóp méo bởi
bất cứ ký ức nào của một quá khứ lâu dài, có nền văn minh cao. Nó tạo hiệu quả
trực tiếp vì gợi lên sự đấu tranh khắc nghiệt mà tất cả những con người tích
cực trong buổi ban đầu phải chịu đựng (trong những điều kiện ngoại giới khác
nhau, dĩ nhiên) chống lại một thiên nhiên khó khuất phục. Thật khó diễn đạt về
một tương phản nổi bật hơn với những tác phẩm thường được gọi là “kinh điển”.
Tuy
nhiên, tác phẩm này xứng đáng được gọi là kinh điển, nhưng trong một ý nghĩa
thâm sâu hơn thì tên gọi này dùng để diễn tả một điều gì khác và nhiều hơn là
lời ca tụng mơ hồ. Kinh điển, tài sản văn hóa mà chúng ta được thừa hưởng từ
thời xa xưa, nó ít mang ý nghĩa mô phỏng thời quá khứ đã hoàn thành hơn là ý
ngĩa có được trực tiếp từ cuộc sống, và được mô tả dưới hình thức có giá trị
lâu dài, ngay cả trong những thời đại tương lai. Sự tầm thường, ngay bản thân
nó không có gì quan trọng, trong khái niệm này không thể hiểu theo nghĩa khác
hơn là chính thức hiểu theo nghĩa nhất thời hay khiếm khuyết. Nhưng ngoài cái
đó ra, bất cứ điều gì được quí trọng trong đời sống con người, mặc dù nó có vẻ
bình thường, có thể được đặt trong cùng phạm trù như khác thường và lỗi lạc,
với ý nghĩa và hình thức có giá trị bằng nhau, khi mà lần đầu tiên nó hiện ra
trong trạng thái chính xác của nó. Trong ý nghĩa này chẳng có sự cường điệu nào
để xác nhận rằng qua tác phẩm Sự Phát triển của đất, Hamsun đã trao cho
thời đại chúng ta một tác phẩm kinh điển, nó có thể đọ sức với những tác phẩm
xuất sắc nhất mà chúng ta đã có. Chỉ riêng về khía cạnh này, những thế hệ tương
lai khó mà hiểu được nó, bởi vì cuộc đời luôn luôn mới và bất tận nên nó luôn
luôn được biểu thị trong những hình thái mới được sáng tạo bởi những tài năng
mới.
Tác
phẩm của Humsun là một bản anh hùng ca lao động, mà tác giả đã cho chúng ta
thấy những đường nét vĩ đại. Nó không phải là vấn đề lao động bình thường, mạnh
ai lo thân người đó, mà là vấn về lao động cực nhọc tập trung, dưới hình thức
thuần túy nhất nó định hướng phát triển con người một cách toàn diện, nó xoa
dịu và mang tinh thần chia xẻ với nhau, nó bảo vệ và làm tăng lợi tức của họ
bằng sự phát triển thường xuyên và liên tục. Lao động của người tiên phong và
người nông dân đầu tiên với muôn vàn khó khăn, dưới ngòi bút của một nhà thơ,
theo đó đảm nhiệm vai trò đấu tranh quả cảm mà không khuất phục điều gì, bằng
đức tính hy sinh cao cả cho xứ sở và bạn bè cùng hội cùng thuyền với họ. Cũng
giống như nhà thơ nông dân Hesiod (*) mô tả những người lao động trên đồng
ruộng, Hamsun đã làm nổi bật hình ảnh người lao động lý tưởng cống hiến cả cuộc
đời và sức lực của mình để khai khẩn đất đai và chiến thắng những trở ngại mà
con người và sức mạnh của thiên nhiên cản phá. Nếu Hamsun đã bỏ lại sau lưng
tất cả những ký ức nặng nề của nền văn minh, bằng tác phẩm của mình, ông đã góp
phần cho việc hiểu biết chính xác về nền văn hóa mới, mà thời đại chúng ta mong
đợi, phát sinh do sự phát triển của lao động vật chất như một tiếp diễn của nền
văn minh cổ.
Những
dự tính này nọ của con người, thay vì suy giảm lại tăng cường cảm giác cho
người đọc nhờ nội dung kinh điển của câu chuyện. Chúng xua tan nỗi e sợ mà
người đọc cảm thấy ánh sáng của lý tưởng phải trả giá bằng sự thật, chúng bảo
đảm tính chân thật ý đồ của tác giả, sự chính xác của những hình ảnh và nhân
vật. Tính nhân đạo thông thường của chúng dành cho mọi người. Bằng chứng là
những người có tâm tính, ngôn ngữ và phong tục khác nhau đều đón nhận tác phẩm
này. Hơn nữa, qua lối hành văn hóm hỉnh, tác giả đã đề cập đến cả những điều
buồn bả nhất mà ông đã trải qua , ông đã chứng tỏ lòng trắc ẩn của mình đối với
số mệnh và bản chất con người. Nhưng trong truyện, ông luôn luôn giữ phong thái
thâm trầm của một nghệ sĩ hoàn thiện nhất. Văn phong của ông không cầu kỳ hoa
mỹ. Ông diễn tả thực tế sự việc chính xác và trong sáng. Người đọc có thể tìm gặp trong tác phẩm này
màu sắc phong phú tiếng mẹ đẻ của tác giả...
(*)
Hesiod: nhà thơ Hy lạp, sinh ở Ascra (miền Trung tâm Cổ Hy lạp) khoảng giữa thế
kỷ VIII trước Tây lịch.
1921 - ANATOLE FRANCE
(Pháp,
1844 – 1924)
Anatole France thời trẻ
Chỉ
một vài tác phẩm của Anatole France
đã xuất bản cũng đủ cho tên tuổi ông nổi tiếng khắp thế giới, điều mà ông chẳng
ao ước nhưng không thể tránh khỏi. Ông được công nhận là bậc thầy kể chuyện nhờ
ở sự uyên bác, trí tưởng tượng, văn phong trong sáng mà quyến rũ, và tính châm
biếm thâm trầm cùng tình cảm nồng nàn kết hợp lại để tạo ra những hiệu quả kỳ
diệu.
Có
lúc, France
mở ra trước mắt chúng ta một hộp khảm ngọc trai đựng đầy nữ trang vô giá được
chạm trổ bởi bàn tay của bậc thầy thời xa xưa. Chúng ta tìm thấy trong đó những
truyền thuyết mang tính châm biếm nhẹ nhàng nhưng hết sức quyến rũ, của Cêlestin
và d’Amyers – một nhà tu khổ hạnh già và vị thần Đồng án trẻ - cùng hát bài
Ngợi ca lễ Phục sinh, một người tán dương sự trở về của Chúa còn người
kia thì tán dương mặt trời lại mọc lên, những tín đồ có chung lòng mộ đạo vô
nhiễm, cuối cùng tập hợp lại - dưới con mắt hoảng hốt của nhà viết sử - trong
cùng một ngôi mộ thiêng. Câu chuyện này cho chúng ta thấy France sống trong một
vương quốc mà ông say mê, một vương quốc giữa người ngoại đạo và tín đồ của
Chúa Ki-tô, nơi vàng thau lẫn lộn, nơi những người cuồng dâm gặp những tông đồ
của Chúa, nơi những con vật trần tục và linh thiêng đi lang thang, nơi những
chất liệu phong phú được tìm thấy để thực hiện khả năng tưởng tượng của ông, dự
tính của ông và tính châm biếm đầy trí tuệ của ông bằng mọi sắc thái của nó.
Người ta thường không biết nên gọi nó là hư cấu hay hiện thực.
Chúng
ta hãy cùng ông tản bộ một cách thản nhiên, không chút sợ hãi, trong khu vườn
của Epicurus. Ông sẽ dạy chúng ta tính khiêm tốn. Ông sẽ nói với chúng ta: thế
giới thì vô cùng rộng lớn còn con người thì vô cùng nhỏ bé. Các bạn tưởng tượng
ra điều gì? Lý tưởng của chúng ta là những chiếc bóng dễ nhận ra nhưng đi theo
chúng, chúng ta sẽ tìm thấy niềm hạnh phúc đích thực duy nhất của chúng ta. Ông
sẽ nói rằng tính chất tầm thường của con người là phổ biến, nhưng ông sẽ không
loại trừ nó. Chúng ta có thể trách cứ ông về thú nhục dục chiếm ngự một vị trí
quá lớn trong vài tác phẩm và về quan điểm mang chủ nghĩa khoái lạc, chẳng hạn,
được ông mô tả bằng dấu hiệu hoa huệ đỏ của miền Florence nước Pháp, mà không
được thực hiện bằng những ý tưởng nghiêm túc. Ông sẽ trả lời, theo những câu
châm ngôn của người cha tinh thần của ông, rằng những khoái lạc của tinh thần
vượt trội hẳn những khoái lạc của thể xác, và sự thanh thản của tâm hồn là nơi
ẩn náu cho người khôn ngoan lái chiếc thuyền của mình để trốn thoát những cơn
bão của đời sống nhục dục.
Theo
khuynh hướng này, Anatole France từ bỏ tư tưởng ẩn dật mang tính thẩm mỹ của
mình, cái “tháp ngà” của ông, để lao vào
cuộc xung đột xã hội trong thời đại ông, hò hét như Voltaire để khôi phục quyền
con người bị lên án một cách bất công cũng như khôi phục chủ nghĩa yêu nước bị
thương tổn của ông. Và ông đã đi vào những khu nhà ở của công nhân tìm kiếm
biện pháp hòa giải giữa giai cấp và quốc gia. Kết cuộc có hậu cho ông. Sau khi
được hưởng nhiều năm vui vẻ ở cung điện của ba chị em nữ thần Graces, ông vẫn
ném tia sáng kiến thức vào cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa duy tâm, vào một thời
đại tiến bộ, ông tiến hành chống lại thời kỳ suy đồi của những tầng lớp thượng
lưu và chống lại chủ nghĩa duy vật cùng quyền lực của đồng tiền. Ông chẳng phải
là người tham danh vọng. Tác phẩm của ông được bàn luận nhiều là tác phẩm viết
về Jean d’Arc. Nó đã làm ông hao tốn không biết bao nhiêu công sức, với ý định
xé tan màn bí mật của vị nữ anh hùng gây nhiều cảm hứng của nước Pháp để khôi
phục nàng lại đúng với bản chất, với đời sống thực. Đó là việc làm khó khăn vô
vụ lợi trong kỷ nguyên chuẩn bị phong thánh cho nàng.
Những
vị Thần khát nước - Les Dieux ont
soif (1912) là vở kịch nổi tiếng về cuộc
Cách mạng Pháp, giống như mặt trận tư
tưởng, nó phơi bày những số phận tầm
thường của con người được phản chiếu trong máu. Một thế kỷ là khoảng thời gian
quá ngắn cho phép phác họa một cách rõ ràng bước đi của con người tiến đến lòng
khoan dung và nhân đạo hơn. Nhiều sự kiện diễn ra thật ứng với những lời tiên
đoán của ông làm sao! Nhiều năm sau khi tác phẩm này có mặt một tai ương khủng
khiếp xảy ra. Hiện giờ biết bao vũ đài xinh đẹp đã được chuẩn bị cho những trò
chơi của những kẻ hiếu chiến! Khói của những trận đánh vẫn còn lơ lửng trên mặt
đất. Và hiện lên khỏi làn khói mờ là những nhà tài phiệt, những vị thần nham
hiểm của quả đất. Phải chăng họ là kẻ trở về từ cõi chết? Nhà tiên tri u sầu
thông báo một mặc khải mới. Một làn sóng dị đoan đe dọa cuốn trôi nền văn minh.
Anatole France
vận dụng vũ khí tinh vi và có khả năng phá hủy từ từ để truy đuổi những hồn ma
và những ông thánh giả mạo. Trong thời đại chúng ta, niềm tin là vô cùng cần
thiết, nhưng niềm tin đó phải được thanh lọc bởi sự ngờ vực lành mạnh, bởi tinh
thần minh mẫn, một chủ nghĩa nhân đạo mới, một chủ nghĩa Phục hưng mới, một
Phong trào Cẩi cách mới...
1923 - WILLIAM BUTLER YEATS
1922 - JACINTO BENAVENTE
(Tây Ban Nha,
1866 – 1954)
Chân dung tác giả
Jacinto
Benavente đã cống hiến phần lớn tài năng sáng tạo của mình cho sân khấu, và có
thể nói ông đã phát triển tài năng một cách có hệ thống thông qua nhiều trạng
thái khác nhau của kinh nghiệm. Nhưng với nhà nghệ sĩ giàu sáng tạo này, phương
pháp hình như là cách biểu hiện trực tiếp và phóng túng của con người ông.
Chúng ta có thể nói rằng không ai có thể
đạt đến mục đích bằng ít nỗ lực và suy ngẫm so với giá trị thành đạt của ông.
Cảm
xúc điều khiển ông cũng là cảm xúc của một bản chất cực kỳ hài hòa và trọn vẹn:
nó không chỉ là nghệ thuật kịch và không khí sân khấu mà ông yêu mến. Ông cũng
yêu thương cuộc sống xã hội bằng một tình cảm nồng ấm, yêu thương thế giới thực
tế mà nhiệm vụ của ông là đưa nó lên sân khấu. Nó không phải là vấn đề chỉ tôn
thờ cuộc sống một cách thiển cận và thiếu suy xét. Ông đã quan sát thế giới của
mình bằng đôi mắt cực kỳ sắc bén và sáng suốt, ông đã cân đo nó bằng một trí óc
linh hoạt và tỉnh táo. Ông không cho phép mình bị lừa bịp không những bởi con
người mà còn bởi những quan niệm, không những ngay cả quan niệm riêng mà còn
cảm hứng chủ đạo riêng của ông nữa.
Vì thế, văn phong của ông mang tính đặc trưng dễ phân
biệt nhất - uyển chuyển. Văn phong như thế có một giá trị rất hiếm, đặc biệt
trong thời đại chúng ta, mà trên thị trường thì nhu cầu quá ít còn mọi người
thì hầu hết không nhận ra.
Hoạt động của ông đặc biệt nằm trong lãnh vực hài
kịch, nhưng đối với chúng ta thuật ngữ này ở Tây Ban Nha mang tính toàn bộ
nhiều hơn, nó bao gồm điều mà chúng ta thường gọi là kịch dành cho giai cấp
trung lưu, kết thúc không bi lụy. Nếu có một kết thúc bi lụy thì gọi là bi kịch
và Benavante cũng viết nhiều vở kịch như thế, trong đó có vở Yêu lầm -
La Malquerida (1913) xuất sắc và gây xúc động. Ông cũng soạn nhiều vở kịch lãng
mạn và kinh dị đầy chất thơ.
Nhưng sở trường của ông nằm trong những hài kịch, mà,
như chúng ta đã biết, chúng đều nghiêm túc và đều gây cười cho khán giả, đồng
thời ông cũng soạn những hài kịch ngắn, mà trong văn học Tây Ban Nha được phát
triển thành một loại kịch đặc biệt với truyền thống cổ và hết sức thú vị. Với
thể loại kịch ngắn này, Benavente là một bậc thầy làm say mê lòng người nhờ
tính dí dỏm tự nhiên và cảm hứng tươi vui cũng như vẻ tao nhã mà ông tạo ra.
Nói chung, Benavente không có ý định làm cho khán giả đau khổ, mục đích của ông
là giải quyết những xung đột giữa u sầu và thất vọng một cách hài hòa. Sự hài
hòa này thường đạt được bằng nhẫn nhục, không buồn chán mà cũng chẳng lâm ly bi
đát và không có những hành động để tỏ thiện ý gì lớn lao.
Những vở bi kịch khác lạ, đơn giản và trầm lắng tiêu
biểu của ông như: Chinh phục linh hồn - Alma triumfante (1902), Lòng
tự trọng - La propria estimacion (1915) và Tấm bảng tên màu trắng -
Campo de armino (1916) đều mang đậm lòng nhân đạo thuần túy lạ thường .
Những truyền thống thi ca Tây Ban Nha bao gồm chủ
nghĩa hiện thực kiên quyết, táo bạo, và hoàn chỉnh, phát triển khả năng sáng
tác nhiều cùng sự quyến rũ không thể bắt chước được theo tinh thần giải trí cốt
để vui và dựa vào thực tế, không dựa vào
lời đàm thoại dí dỏm. Benavente đã chứng tỏ mình thuộc trường phái này, và theo
cách riêng của mình, ông đã cho chúng ta thấy hài kịch hiện đại mang nhiều đặc
điểm tinh thần cổ điển. Ông đã chứng tỏ mình là người trung thành đáng kính của
nền thi ca cổ điển và có văn phong cao nhã.
1923 - WILLIAM BUTLER YEATS
(Ireland, 1839 – 1922)
Chân dung nhà thơ
Ngay từ thời niên thiếu, William Butler Yeats đã nổi
tiếng là một nhà thơ. Tự truyện của ông cho chúng ta biết rằng những thôi thúc
nội tâm đã định đoạt mối quan hệ của ông với thế giới thi ca khi còn bé...
Khi sân khấu kịch Ireland ra đời, Yeats đã tích cực
tuyên truyền làm náo động cả sân khấu lẫn công chúng, và buổi trình diễn đầu
tiên dành cho vở kịch Nữ Bá tước Cathleen - The Countess Cathleen (1892)
của ông. Tiếp theo kịch phẩm hết sức giàu chất thơ này là một loạt kịch thơ,
tất cả đều lấy chủ đề Ireland
rút ra từ những truyện kể chiến công của các vị anh hùng thời xa xưa. Trong số
này, có những vở nổi tiếng như: Deirdre
(1907) - một bi kịch về số phận của nàng Helen, người con gái Ireland; Mũ
sắt xanh - The Green Helmet (1910) - một thần thoại vui về những vị anh
hùng thời sơ khai hoang dã; và nổi bật hơn cả là vở Ngưỡng cửa của nhà Vua
- The King’s Threshold (1904), ở đây tính thâm trầm và vẻ trang nghiêm hiếm có
của tư tưởng đã lan tỏa trong chất liệu
đơn sơ của vở kịch. Cuộc tranh chấp về vị trí và đẳng cấp của nhà thơ ở cung
đình đã gây ra vấn đề luôn cấp bách cũng như gây ra bao nhiêu vấn đề tinh thần
được cho là đúng trong thế giới chúng ta, và không biết những vấn đề đó có được
đón nhận bằng niềm tin đích thực hay giả dối. Với những yêu sách mà nhân vật
chính trong vở kịch đánh cược cuộc đời mình lên đó, anh ta bảo vệ uy thế của
thi ca mà chính nó làm cho đời người tốt đẹp và đáng trọng. Không phải nhà thơ
nào cũng đề xuất những yêu sách như thế, nhưng Yeats thì có thể làm được: chủ
nghĩa duy tâm của ông không bao giờ bị phai mờ mà cũng chẳng nghiêm khắc với
nghệ thuật của ông. Trong những kịch phẩm này thơ của ông đạt đến vẻ đẹp hiếm
có văn phong vững vàng.
Tuy nhiên, điều làm cho người ta say mê nhất là nghệ
thuật mà ông thể hiện trong tác phẩm Xứ sở Dục vọng - The Land of
Heart’s Desire (1894). Nó có cả sức lôi cuốn của loại thơ mang chất thần kỳ và
cả sự tươi mát của mùa xuân, sự trong sáng cũng như giai điệu kỳ ảo. Thật thú
vị, tác phẩm này cũng là một trong những tác phẩm tinh tế nhất của ông. Nó có
thể được xem như một đóa hoa trong vườn thi ca của ông khi ông chưa viết vở
kịch thơ ngắn Cathleen ni Hoolihan (1902) - một vở kịch dân gian giản dị
nhất và là một tác phẩm cổ điển hoàn hảo nhất của ông.
Tác phẩm này có tác động mạnh hơn bất cứ tác phẩm nào
khác khi ông chạm vào sợi dây của lòng yêu nước. Chủ đề là cuộc đấu tranh cho
tự do của người Ireland qua
nhiều thời đại, và nhân vật chính là người Ireland cải trang thành một người
đàn bà ăn xin đây đó. Nhưng chúng ta không chỉ nghe tiếng nói của lòng căm thù,
và tính chất cảm động sâu sắc của vở kịch được kiềm chế nhiều hơn bất cứ bài
thơ nào có thể so sánh được. Chúng ta chỉ nghe phần cao cả nhất và trong sáng
nhất của lòng tự ái dân tộc, lời thoại
thì ít và diễn biến kịch thì đơn giản đến mức cao nhất có thể được. Toàn bộ vở
kịch thật lớn lao không có một chi tiết màu mè. Chủ đề, đến với Yeats trong một
giấc mơ, đã giữ lại tính chất huyền ảo của nó dấu hiệu đặc trưng của một tài
năng từ quan điểm nói trên mà không xa lạ với triết lý thẩm mỹ của Yeats.
Chân dung nhà thơ
do John Singer Sargent vẽ năm 1908
Những năm đầu
thập niên 20, kịch của Yeats luôn luôn mang tính lãng mạn vì chất liệu khác
thường của chúng, nhưng về mặt hình thức ông cố gắng cho chúng đạt tới sự giản
dị kinh điển. Chủ nghĩa kinh điển này dần dần phát triển đến việc bắt chước
dùng những từ cổ. Nhà thơ đã tìm tòi để đạt đến cách tạo hình nguyên thủy xuất
hiện trong buổi ban đầu của nghệ thuật bi kịch. Ông đã dồn hết tâm trí vào công
việc tự giải phóng mình khỏi sân khấu hiện đại, với cảnh phông sân khấu làm
nhiễu loạn hình ảnh được đánh thức bởi khả năng sáng tạo, với những phạm vi
diễn mà động tác của diễn viên cần được khuếch đại bằng đèn chiếu trước sân
khấu, với yêu cầu của khán giả về ảo giác hiện thực. Yeats muốn làm nổi bật
chất thơ như nó được sinh ra bằng trí tưởng tượng của nhà thơ, ông đã tạo ra
hình thể cho trí tưởng tượng này theo mô hình kịch của Hy Lạp và Nhật Bản. Vì
vậy ông đã làm sống lại cách sử dụng mặt nạ và đã tạo ra một khoảng rộng thích hợp cho những động tác
của diễn viên đi đôi với nền nhạc bình dị…
Chân dung tác giả
1924 -
WLADYSLAV REYMONT
(Ba Lan, 1867 - 1925)
Chân dung tác giả
Những người
nông dân Úchlopi - (1904 - 09) là
tác phẩm của trí tưởng tượng viết bằng tiếng Ba Lan, khởi đầu từ một cuốn tiểu
thuyết theo trường phái tự nhiên, đặc biệt về hình thức mà thể loại đó tiếp
nhận là từ nhà văn Zola của Pháp. Reymond đã thừa nhận rằng ý tưởng về tác phẩm
của ông được gợi lên nhờ quyển tiểu thuyết La Terre của Emile Zola,
không phải do lòng ngưỡng mộ của ông đối với cuốn sách mà do sự phẫn nộ và đối
kháng kích động. Trong cuốn sách đó, ông nhận ra tính cách của tầng lớp xã hội
mà ông lớn lên và yêu mến với tất cả tâm hồn, được nuôi dưỡng bằng những hồi ức
tuổi thơ, được mô tả theo qui ước, bị bóp méo và thô lỗ. Ông từng có nhiều kinh
nghiệm phong phú về tầng lớp này, ngay trong lòng nó, và với một sự hiểu biết
đầy đủ về nó chứ không phải như Zola, chỉ đơn thuần thông qua những bài báo
điều tra vội vàng cho phù hợp với một chủ đề được định trước và những kết quả
sắp sẵn. Ông muốn mô tả tầng lớp này một cách trung thực, không vì một lý do gì
mà làm sai lệch nó. Nhưng Zola lại có một ảnh hưởng quyết định đến tác phẩm
theo một kiểu cách hoàn toàn khác và tích cực hơn. Tác phẩm Những người nông
dân - Chlopi (1904 - 09), mà chúng ta biết dưới hình thức cuối cùng của
nó, khó có thể hiểu được nếu không có
những bài học mà Reymont rút ra được từ tác phẩm của Zola như một tổng thể - sự
mô tả tinh tế về môi trường, tính chân thực không nhân nhượng của nó, và những
hoạt động hài hòa với thiên nhiên bên ngoài và đời sống con người. Mặc dù, Những
người nông dân, có khuynh hướng là một tiểu thuyết theo chủ nghĩa tự nhiên nhiều
hơn về mặt phương pháp, nhưng lại là thiên anh hùng ca về mặt tầm vóc.
Tác phẩm đạt được thành quả của nó chính là từ thực
tế mà tất cả yếu tố xung đột và tình trạng náo động dần dần được giải quyết trước
mắt chúng ta, giống như nhiều cơn sóng chống lại một con sóng; những vòng tròn
không bao giờ trải dài tới tận chân trời bình lặng tiếp giáp với thi ca; tình
trạng náo động không đặt câu hỏi và không còn gởi lời than van vượt qua giới
hạn đó. Thế giới mà chúng ta có trước mặt chúng ta là một thế giới hữu hạn và những
nền tảng của nó không thể lay chuyển; nhưng nó không phải là thế giới của sự
cưỡng bách và giam hãm. Nó rộng lớn đủ cho con người có thể biểu lộ chính mình
bằng hành động theo thước đo năng lực của họ. Đó chính là sự hài hòa của một vẻ
đẹp nên thơ. Bất kể niềm hạnh phúc nào được ghi nhận, điều khổ đau nhất không
thể chữa lành - sự khác biệt giữa thực tế đã qui định và những đòi hỏi lý tưởng - là không được tìm
thấy ở đó, hoặc ít nhất nó cũng không đạt đến sự hiểu biết. Bi kịch cay đắng
thường xuyên nhất, là bi kịch từ bên trong làm tiêu tan một sinh vật thành
từng mảnh , vẫn chưa được tái tạo; những
hình thù mà chúng ta thấy là toàn vẹn và vừa bình dị vừa chuyển động trong một
bộ phận. Dù cho những hình thù này lớn hay nhỏ, dù diện mạo chúng đẹp hay xấu,
chúng vẫn khoác một vẻ đẹp tạo hình và một thứ
tượng đài bằng chất dẽo. Đó chính là điều mà nhà văn Ba Lan này muốn đạt
tới trong tác phẩm Những người nông dân, và ông đã thành công.
Tóm lại, quyển tiểu thuyết có tầm vóc sử thi này được
viết bằng một nghệ thuật thật cừ khôi,
xác thực, có sức hấp dẫn đầy ma lực, mà chúng ta có thể tiên đoán rằng nó sẽ có
giá trị và thứ hạng trường cửu, không phải chỉ trong nền văn học Ba Lan mà còn
trong dòng văn học giàu tính sáng tạo.
1925 -
GEORGE BERNARD SHAW
(Anh, 1856 –1950)
George Bernard Shaw, ảnh chụp năm 1925
khi tác giả nhận giải Nobel Văn chương.
Những tiểu thuyết mà Bernard Shaw viết từ thời trẻ
cho chúng ta thấy ông có cùng một quan niệm về thế giới và cùng một thái độ về
những vấn đề xã hội mà ông đã bảo vệ lâu nay. Chính điều này đã giúp ông hơn
bất cứ thứ gì khác chống lại những lời buộc tội dai dẩng rằng ông thiếu chân
thành và hành động như một diễn viên kịch vui chuyên nghiệp trước tòa án dân
chủ. Những tư tưởng của ông là những tư tưởng cấp tiến có phần thiếu thực tế;
vì thế chúng xa rời cái mới, nhưng chúng nhận từ ông một cái mới khác - rõ ràng
và sáng chói. Trong ông, những tư tưởng này kết hợp với sự hóm hỉnh sẵn có, coi
thường các qui ước xã hội, và óc hài hước cao độ - tất cả cùng tập hợp trong
một hành động ngông cuồng mà trước kia hiếm khi thấy xuất hiện trong văn
chương.
Điều khiến cho
người ta khó xử nhất là sự vui đùa thái quá của ông: họ sẵn sàng tin rằng những
điều ông bày ra chỉ là một trò chơi và một ước muốn làm giật mình thiên hạ. Điều
này không giống với sự thực mà chính Shaw đã từng tuyên bố rằng thái độ bất cần
của ông thực ra chỉ là một mưu mẹo: ông phải chọc cho người ta cười để họ không
thể tìm ra ý tưởng chết tiệt của ông. Nhưng chúng ta biết rất rõ rằng, khó có
điều gì buộc ông phải từ bỏ tính bộc trực, và biết rằng ông chọn thứ vũ khí đó
vì nó thích hợp với ông cũng như nó có hiệu quả nhất. Ông vận dụng nó với ngòi
bút thiên tài, dựa trên một ý thức tuyệt đối trầm tĩnh và tự tin.
Ban đầu ông trở thành một nhà tiên tri về những học
thuyết cách mạng, hoàn toàn khác nhau về những giá trị, trên những lãnh vực mỹ
học và xã hội học, và chẳng bao lâu ông nổi tiếng như một người giỏi tranh
luận, một nhà hùng biện tiếng tăm, và là một nhà báo. Ông đã đặt dấu ấn của
mình trên sân khấu Anh như một chiến sĩ của Ibsen, và là đối thủ của truyền
thống thiển cận, cả người Anh lẫn người Paris.
Lúc 36 tuổi ông mới bắt đầu viết kịch nhằm thỏa mãn nhu cầu nội tâm thôi thúc.
Ông viết theo bản năng, tin chắc rằng mình có nhiều điều để nói.
Bằng cách ngẫu nhiên này, ông đã tạo ra một loại hình
nghệ thuật kịch mới mà nó cần được đánh giá theo những nguyên tắc đặc biệt của
nó. Tính mới lạ của loại kịch này không nằm trong cấu trúc và hình thức. Nhờ có
kiến thức uyên bác về kịch nghệ, ông dễ dàng đạt được hiệu quả sân khấu mà ông
cảm thấy cần thiết cho mục đích của mình.
Nhìn lại những tác phẩm hay nhất của Shaw, chúng ta
sẽ dễ dàng tìm thấy ở nhiều đoạn, bên dưới tính hài hước và bất chấp của ông, là một điều gì đó giống như chủ nghĩa duy tâm mà
nó được biểu hiện trong nhân vật anh hùng Thánh Joan. Sự phê phán của ông về xã
hội và cái nhìn của ông về quá trình phát triển có lẽ biểu lộ quá máy móc,
những suy nghĩ quá vội vàng, quá đơn giản một cách vô tổ chức; nhưng cuộc chiến
đấu của ông chống lại những khái niệm truyền thống mà nó không dựa trên một cơ
sở vững chải nào và chống lại những cảm
xúc truyền thống mà nó hoặc giả tạo hoặc chỉ chân thật nửa vời, làm bằng chứng
cho tính kiêu ngạo là những mục tiêu của ông. Trong tác phẩm của ông nổi bật
nhất vẫn là tính nhân bản, và những đức tính mà
ông tỏ lòng kính trọng - sự tự do
tinh thần, tính trung thực, lòng can đảm, và tư tưởng trong sáng - rất hiếm có
những người theo đến cùng trong thời đại của chúng ta.
Tượng của Shaw do Peter Beens tạc
Những nhận
định trên đây chỉ là một góc nhìn nhỏ bé đối với toàn bộ sự nghiêp của Shaw.
Chúng ta chưa nhắc đến những lời nói đầu nổi tiếng của ông - hay đúng hơn là những
chuyên luận - mà ông viết cho hầu hết các kịch phẩm của mình. Chính những kịch
phẩm đã làm cho ông trở thành một trong những kịch tác gia lôi cuốn nhất của
thời đại, trong khi những lời nói đầu của ông lại đưa ông lên đẳng cấp một
Voltaire - nếu chúng ta chỉ nghĩ đến phần tốt đẹp nhất của Voltaire.
1926 -
GRAZIA DELEDDA
(Ý, 1871 – 1936)
Chân dung tác giả, 1926
Grazia Deledda sống suốt thời thơ ấu và thanh niên ở
Nuoro, một thị trấn của Sardinia, nơi chôn
nhau cắt rún của bà. Khung cảnh thiên nhiên và cuộc sống của người dân ở đó đã
trở thành nguồn cảm hứng và là linh hồn cho những tác phẩm văn học của bà sau
này. Trong một ngôi nhà đơn sơ mang vẻ cổ kính, xung quanh là thiên nhiên hoang
dã xinh đẹp và những con người có dáng vẻ oai vệ sơ khai, ''các cô gái chúng
tôi'', Grazia Delleda viết ''không bao giờ được phép đi ra ngoài trừ dịp đi dự
lễ Tro hay dịp đặc biệt dạo chơi miền quê''. Bà không có cơ hội để tiếp thụ một
nền học vấn tiên tiến, và giống như những đứa trẻ thuộc tầng lớp trung lưu
trong vùng, bà chỉ học ở trường địa phương. Sau này bà theo học một số lớp dạy
tư về tiếng Pháp và tiếng Ý vì gia đình bà chỉ giao tiếp bằng thổ ngữ
Sardinian. Vì thế nền giáo dục mà bà hấp thụ không rộng. Tuy nhiên bà làm quen
và say mê những bài dân ca địa phương như những bài thánh ca, những khúc
ballad, những bài hát ru. Bà cũng rất quen thuộc những truyền thuyết và truyền
thống của Nuoro.
Để đánh giá giá trị nghệ thuật về văn phong của
bà, một trong những nhà phê bình nổi
tiếng của Ý đã viết: ''Văn phong của bà là văn phong của những bậc thầy vĩ đại
về thể loại truyện kể, mang dấu ấn đặc biệt của tất cả những nhà văn lớn. Ngày
nay không ai ở Ý có thể viết những cuốn tiểu thuyết với văn phong có khí lực,
điêu luyện hay những sự hiểu biết về xã hội mà tôi đọc được trong một số tác
phẩm, nhất là những tác phẩm mới nhất của Grazia Delleda như Người mẹ -
La Madre (1920) và Bí mật của người đàn ông độc thân - Il Segreto
dell'uomo solitario (1921)”.
Người ta chỉ chú ý đến bố cục trong những tác phẩm
của bà không chặt chẽ, có những đoạn
chuyển tiếp bất ngờ khiến người đọc có cảm giác hụt hẩng. Nhưng nhược điểm này
lại được đền bù nhờ nhiều tính năng khác của bà. Như một họa sĩ của thiên
nhiên, bà ít có điểm tương đồng trong nền văn học châu Âu. Bà không tiêu phí
một cách vô ích những màu sắc sinh động của mình. Thiên nhiên mà bà mô tả có
những đường nét phóng khoáng, bình dị như những bức tranh phong cảnh cổ, đúng
với vẻ uy nghi, hoang dại của nó. Đó là một thiên nhiên sống động một cách kỳ
diệu, có sự giao hòa tuyệt đối với đời
sống tâm lý của các nhân vật của bà. Như một nghệ sĩ tài ba thật sự, bà đã
thành công trong việc kết hợp chặt chẽ cách diễn tả tình cảm và thói quen của
con người với cách mô tả thiên nhiên .
Trong những tiểu thuyết của Grazia Delleda con người
và thiên nhiên hòa hợp làm một. Người ta
có thể nói rằng con người là cây cối nẩy mầm trên chính mảnh đất Sadinia. Đa số
họ là những nông dân chân chất, với tính nhạy cảm và kiểu suy nghĩ đơn sơ,
nhưng lại có một cái gì đó lớn lao trong bản chất tự nhiên của người Sardinia. Một số người mang vóc dáng của những nhân vật
lạ thường trong Cựu Ước. Và bất kể họ khác nhau như thế nào, họ vẫn cho chúng
ta cái cảm giác hiển nhiên của những con người có thực trong đời sống thực. Họ
không giống chút gì gọi là những con búp bê trên sân khấu. Grazia Delleda là
bậc thầy của nghệ thuật vừa theo khuynh hướng hiện thực vừa theo khuynh hướng
duy tâm . Bà không thuộc về nhóm nhà văn làm việc theo một chủ đề và tranh luận
nhiều vấn đề. Bà luôn luôn giữ mình tránh xa các trận bút chiến của thời đại.
Tác giả với chồng và con trai, 1905
Mặc dù bà ít quan tâm đến lý thuyết, nhưng bà lại rất
quan tâm đến mọi mặt của đời sống con người. Bà viết trong một bức thư: ''Nỗi
lo lắng lớn của chúng ta cuộc đời đi quá nhanh. Đó là lý do tại sao chúng ta
phải cố gắng làm cho cuộc sống chậm lại, làm cho nó mãnh liệt hơn, làm cho nó
có ý nghĩa phong phú nhất. Người này phải cố gắng sống trên cuộc sống của người
kia, như mây ở trên biển''. Chắc chắn là vì cuộc đời phong phú và đáng yêu đối
với bà, bà không bao giờ muốn tham gia vào các cuộc tranh luận văn chương, xã
hội hay chính trị của thời đại. Bà yêu con người hơn các lý thuyết và sống cuộc
đời yên tĩnh cách xa những náo động của cuộc sống. Trong một bức thư khác, bà
viết: ''Số phận đã xui khiến tôi sinh ra
trong lòng xứ Sardinia cô độc. Nhưng dù
cho tôi có sinh ra ở Rome hay ở Stockholm, tôi cũng sẽ chẳng khác đi. Tôi vẫn
sẽ luôn luôn là tôi - một tâm hồn say sưa với những vấn đề của cuộc sống, nhận
thức rõ ràng về con người đúng với tư cách người của họ, đồng thời vẫn tin rằng họ có thể tốt hơn và
chính họ chứ không ai khác ngăn cản họ giành được sự thống trị của Đức Chúa
Trời trên cõi đời này. Lòng căm ghét, sự tàn ác và nỗi đau có lẽ một ngày nào
đó, người ta có thể chinh phục nó bằng tình yêu và thiện chí''.
Những lời cuối cùng này diễn tả cách nhìn của bà về
cuộc sống, một cách nhìn nghiêm túc và sâu sắc mang màu sắc tôn giáo. Đó thường
là một cái nhìn buồn nhưng không bao giờ bi quan. Bà tin tưởng rằng cuối cùng
cái tốt sẽ chiến thắng.
1927 -
HENRI BERGSON
(Pháp, 1859 – 1941)
Chân dung tác giả
Trong cuốn Thuyết tiến hóa sáng tạo -
L'évolution créatrice (1907), Henri Bergson đã tuyên bố rằng những hệ thống
triết học thành công và trường cửu nhất đều bắt nguồn từ trực giác. Phát hiện
này được trình bày trong luận án tiến sĩ của ông: Essai sur les données
immédiates de la conscience (1889), trong đó thời gian được nhận thức không
phải là một cái gì trừu tượng hay hình thức mà như là một thực tại, không thể
tách khỏi cuộc sống và tự thân con người. Ông đặt cho thời gian cái tên là ''sự
kéo dài'', một khái niệm có thể được diễn dịch là ''thời gian sống'', tương tự
với sức mạnh cuộc sống. Đó là một dòng chảy năng động, với sự biến đổi liên tục
về chất lượng và không ngừng tăng trưởng. Nó vượt quá sự suy nghĩ. Nó không thể
nối liền với bất kỳ một định kiến nào, vì như thế nó sẽ bị giới hạn và không
còn tồn tại lâu dài nữa. Nó chỉ có thể được nhận biết và cảm thấy bởi một ý
thức tập trung và phản tỉnh để quay về nguồn gốc của nó.
Điều mà chúng ta thường gọi là thời gian, loại thời
gian đo được bằng sự chuyển động của đồng hồ hay sự xoay quanh mặt trời, là một
điều hoàn toàn khác. Đó chỉ là một hình thức được tạo ra bởi trí óc và hành
động của con người. Tận cùng của sự phân tích hết sức tinh tế, Bergson kết luận
rằng nó chẳng là gì ngoài việc ứng dụng của hình thái không gian. Sự chính xác,
chắc chắn, và hạn chế của toán học thịnh hành trong phạm vi của nó. Nguyên nhân
được nhận ra từ hậu quả và vì thế nó mọc lên tòa lâu đài đó, một sáng tạo của
trí óc, mà sự thông minh của nó bao trùm thế giới, dựng lên một bức tường bao
quanh nỗi khao khát thân thiết nhất của tâm trí chúng ta hướng về tự do. Những khát
vọng đó tìm thấy sự thỏa mãn trong ''thời gian sống'', ở đó, nguyên nhân và hậu
quả được hợp nhất; không có điều gì được tiên đoán một cách chắc chắn, vì sự
chắc chắn nằm trong hành động, tự thân nó đơn giản, và chỉ có thể được thiết
lập bởi chính hành động đó. Thời gian sống là vương quốc của sự chọn lựa tự do
và những sáng tạo mới, một vương quốc mà trong đó mọi điều chỉ được tạo ra một
lần duy nhất và không bao giờ có sự lập lại y hệt. Lịch sử của nhân cách hình
thành trong đó.
Học thuyết tiến hóa trong tác phẩm L'Évolution
créatrice của Bergson là một bài thơ hùng vĩ đầy ấn tượng. Bài thơ, nếu
muốn nhìn theo cách đó, trình bày một loại sự việc có kịch tính. Thế giới được
tạo ra bởi hai khuynh hướng đối lập nhau. Một khuynh hướng đưa ra vấn đề mà
trong ý thức riêng của nó, có chiều hướng bi quan; khuynh hướng thứ hai là cuộc
sống có tư do tình cảm bẩm sinh và sức mạnh sáng tạo thường hằng, càng lúc
càng hướng về ánh sáng tri thức và những
chân trời vô hạn. Hai yếu tố này trộn lẫn vào nhau, cái này là tù nhân của cái
kia, và sản phẩm của sự kết hợp này đươc phân nhánh thành nhiều cấp độ khác
nhau.
Sự khác biệt nguồn gốc cơ bản đầu tiên được phát hiện
giữa thế giới thực vật và thế giới động vật, giữa những hoạt động cơ học chuyển
động và bất động. Nhờ mặt trời, thế giới thực vật vẫn bảo lưu được năng lượng
mà nó rút ra được từ vật chất trơ; động vật thì được miễn trừ nhiệm vụ cơ bản
này vì nó có thể thu hút năng lượng đã dự trữ trong thực vật mà từ đó nó giải
phóng năng lượng xảy ra cùng lúc và tương ứng với nhu cầu của nó. Ở một mức độ
cao hơn trong chuỗi sự kiện này, thế giới động vật sống bám vào thế giới thực
vật, nhờ có sự tập trung năng lượng này, để làm nổi bật sự phát triển của nó.
Vì thế những đường lối tiến hóa ngày càng đổi khác và sự chọn lựa của chúng là
đi vào ngõ cụt: bản năng được sinh ra cùng lúc như cơ quan mà nó sử dụng. Khả
năng hiểu biết cũng hiện hữu trong giai đoạn trứng nước, nhưng trí tuệ vẫn còn
ở mức thấp hơn bản năng.
Nếu những phác thảo tư tưởng của Bergson chứng tỏ hợp
lý đủ để làm chỉ nam cho tinh thần nhân loại, trong tương lai, chắc chắn rằng
ông có một ảnh hưởng lớn hơn ảnh hưởng mà ông đã có lúc này. Là một người viết
chú trọng đến văn phong và là một nhà thơ, ông không nhường bước cho ai trong
số những người cùng thời với ông. Trong việc tìm kiếm sự thật khách quan một
cách nghiêm túc của họ, tất cả những khát vọng của ông được xáo động lên bởi
tinh thần yêu chuộng tự do, phá vỡ tình trạng nô lệ mà vật chất qui phục vào,
tạo chỗ trống cho chủ nghĩa duy tâm.
1928 -
SIGRID UNDSET
(Na-uy, 1882 – 1949)
Chân dung tác giả thời trẻ
Trong những cuốn truyện dài hay tiểu thuyết ngắn
(novella) đầu tiên đáng chú ý của Gigrid Undset, đã vẽ nên một thế giới hiện
tại của những thiếu nữ trong vùng Christiania.
Đó là một thế hệ không biết mệt mỏi, sẵn sàng có những quyết định can đảm ngay
khi những khát vọng hạnh phúc đứng bên bờ vực thẳm, sẵn sàng nhận lấy những hậu
quả tình cảm và lý trí cuối cùng của bản chất thôi thúc, và say mê sự thật. Thế
hệ đó phải trả giá đắt cho ý nghĩa của thực tại mà nó đòi hỏi. Nó phải trải qua
nhiều cuộc thử nghiệm trước khi thu phục được sự thống nhất tinh thần, và một
vài đại diện của nó đã phải chết trong cuộc tranh đấu. Những người phụ nữ của
thế hệ này bị cô lập một cách kỳ quặc trong thế giới hỗn độn này. Họ không được
bảo vệ theo luật lệ xã hội được thiết lập một cách vững chắc, họ được xem như
là một gánh nặng vô dụng, họ chỉ dựa trên chính mình để tạo ra một xã hội mới,
có sức thuyết phục, hết sức ngay thật, nhưng cũng dễ nhầm lẫn.
Cha bà là một nhà sử học tài năng, từ thời bé bà đã
sống trong không khí đầy truyền thuyết lich sử và văn học dân gian. Ở đó bà tìm
thấy chất liệu thật sự thích hợp với bản chất của bà, và trí tưởng tượng của bà
tương xứng với tầm vóc của nó. Những nhân vật từ quá khứ mà bà mô tả là một thể
thống nhất hoàn chỉnh hơn và là một khuôn mẫu vững chắc hơn là các nhân vật
đương thời. Thay vì bị giam hãm trong sự cô lập cùng quẩn, họ tham gia vào khối
đoàn kết của những thế hệ đã qua. Đám đông vĩ đại này tồn tại trong tác phẩm
của bà với một hình thù sống động, kiên định hơn là cái xã hội bất định trong
thời đại chúng ta. Đây là thách thức lớn đối với một nhà văn cảm thấy trach
nhiệm nặng nề mà mình phải mang.
Cuộc sống tính dục, vấn đề chung cho cả hai phái, là
trung tâm cho những phân tích tâm lý của Sigrid Undset, lại được tìm thấy, hầu
như không thay đổi, trong các tiểu thuyết lịch sử của bà. Về mặt này, sự chống
đối về mặt tinh thần đến một cách tự nhiên. Trong các tài liệu thời trung cổ,
vấn đề nữ giới không được biết đến; người ta không hề tìm thấy những dấu vết về
cuộc sống nội tâm cá nhân mà sau này là vấn đề được gợi lên. Nhà sử học, đòi
hỏi các bằng chứng, có quyền chú ý đến sự không nhất quán này. Nhưng, lời tuyên
bố của nhà sử học không phải là tuyệt đối; ít nhất nhà thơ cũng có quyền bình
đẳng để biểu lộ chính mình khi anh ta tin tưởng vào kiến thức trực giác và vững
chắc về tâm hồn con người. Nhà thơ có quyền giả định rằng bản chất con người
thật khó thay đổi qua các thời đại, ngay cả khi biên niên sử của quá khứ im lặng về một số vấn đề.
Tác giả trong phòng làm việc
Thể văn kể chuyện của bà mạnh mẽ, chảy xiết và đôi
khi nặng nề. Nó cuồn cuộn như một dòng sông, không ngừng nhận những nhánh sông
mới mà dòng chảy của nó cũng được tác giả mô tả, nó liều mạng bắt trí nhớ người
đọc phải làm việc quá sức. Điều này một phần xuất phát từ chính bản chất của vấn đề. Trong một chuỗi
thế hệ, những xung đột và những số phận mang một hình thái tập trung, đấy là
những đám mây va chạm nhau khi các ánh chớp sáng lóe lên. Tuy nhiên, sự nặng nề
này cũng là kết quả của lòng nhiệt tình và trí tưởng tượng tức thời của tác
giả, tạo nên một cảnh tượng và một cuộc đối thoại của mỗi tình tiết trong cách
kể chuyện mà không cần quay lại nhìn toàn cảnh. Và dòng sông rộng lớn, mà dòng
chảy của nó khó mà ôm lấy một cách toàn diện, trôi cuồn cuộn những làn sóng
mạnh mẽ mang theo người đọc, lao vào với một trạng thái đờ đẫn. Nhưng tiếng gầm
của nước lại mang vẻ tươi mát bất tận của thiên nhiên. Trong những ghềnh thác,
suối nguồn, độc giả tìm thấy sự vui thích bắt nguồn từ sức hấp dẫn của sức mạnh
thiên nhiên, như những mặt hồ rộng lớn trong suốt như gương mà họ cho là phản
ánh của cái bao la, họ nhìn thấy tất cả sự vĩ đại của bản chất con người. Rồi,
khi dòng sông ra tới biển, khi nàng Kristin Lavrandastter trong tác phẩm Kristin
Lavrandastter (1920 - 22) chiến đấu cho đến phút cuối cùng của trận chiến
đời nàng, không ai phàn nàn về chiều dài của dòng sông cứ chồng chất lên trên
số phận nàng. Trong thi ca của mọi thời đại, những cảnh tượng tuyệt mỹ như thế
không nhiều…
1929 -
THOMAS MANN
(Đức, 1875 – 1955)
Chân dung tác giả, ảnh chụp năm 1937.
Tiểu thuyết hiện thực - người ta có thể gọi nó là một
thiên sử thi hiện đại ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lịch sử và khoa học - là sáng tạo
của người Anh, Pháp và Nga, với những tên tuổi như Dickens và Thackeray, Balzac
và Flaubert, Gogol và Tolstoy. Không có đóng góp đáng kể nào từ nước Đức trong
một thời gian dài. Đến cuối thế kỷ thứ 19, khi một nhà văn trẻ 27 tuổi, con
trai một thương gia từ thành phố Hanse cổ xưa của xứ Lubeck, phát hành
cuốn tiểu thuyết Buddenbrooks
(1901) thì hai mươi bảy năm sau, kể từ ngày, ấy đã chứng minh rằng Buddenbrooks
chính là tác phẩm lấp đầy khoảng trống đó. Đây chính là cuốn tiểu thuyết hiện
thực đầu tiên của nước Đức và vẫn chưa có ai vượt qua được về mặt văn phong kỳ
vĩ của nó. Chính nó đã tạo ra một chỗ đứng bình đẳng và không thể chối cãi
trong dòng văn học châu Âu.
Buddenbrooks
là một cuốn tiểu thuyết viết về giai cấp tư sản, vì thế kỷ mà nó mô tả là thời
đại của giai cấp tư sản. Nó mô tả một xã hội không quá lớn khiến người đọc phải
bối rối nhưng cũng không quá hạn hẹp làm cho người ta phải ngạt thở. Một cấp độ
vừa phải thích hợp cho một nhà phân tích thông minh, sâu sắc, tinh tế và
một phản ảnh phức tạp. Chúng ta bắt gặp
một nền văn minh tư sản với tất cả những sắc thái của nó, những chân trời lịch
sử, những sự thay đổi thời đại, thay đổi thế hệ, sự chuyển đổi dần dần từ những nhân vật độc lập, mạnh mẽ, không e thẹn
đến những loại nhân vật đầy suy tư với tính đa cảm yếu đuối. Cách trình bày rõ
ràng nhưng đi sâu vào phần chìm để che dấu quá trình phát triển của cuộc sống;
nó đầy uy lực nhưng không thô bạo, và chạm nhẹ nhàng vào những điều tế nhị, nó
buồn và nghiêm túc nhưng không bao giờ là tuyệt vọng vì nó tràn đầy tâm trạng
trầm tĩnh, sâu lắng được phản chiếu một cách đa dạng màu sắc trong lăng kính
của một trí thông minh châm biếm.
Trong một truyện ngắn sâu sắc nhất của Thomas Mann, Tonio
Kroger (1903), ông đã tìm ra những từ ngữ xúc động đơn giản nhất để diễn tả
tình yêu cuộc đời. Nó biểu hiện óc phê phán, tự
quan sát, tinh tế về mặt tâm lý, sâu sắc về mặt triết lý và cảm quan mỹ
học đối với chàng trai Thomas Mann như những sức mạnh tàn phá và phân hủy. Vì
ông đứng ngoài thế giới tư bản mà ông mô tả, ông có cái nhìn tự do, nhưng ông
có cảm giác luyến tiếc quá khứ vì đánh mất tính ngây thơ trong sáng, một cảm
giác cho ông am hiểu, đồng cảm và kính trọng.
Các truyện ngắn trong Tonio Kroger và Tristan
(1903) mô tả về những cuộc sống đày đọa, những kẻ say mê nghệ thuật, tri thức,
và cái chết, thú nhận niềm ao ước của họ về một cuộc sống đơn giản và lành
mạnh, về ''cuộc sống vô vị đầy sức cám dỗ của nó''. Chỉ có tình yêu nghịch lý
của riêng Mann dành cho bản chất hạnh phúc và đơn giản mới có thể nói lên được
những điều đó.
Trong tiểu thuyết Vị Hoàng tử - Konigliche
Hoheit (1909), hình thức hiện thực của nó ngụy trang bằng một câu chuyện tượng
trưng, ông đã hòa hợp cuộc sống của một nghệ sĩ với cuộc sống của một con người
hành động, và ông đã đề ra phương châm cho lý tưởng con người đó: ''sự cao quý
và tình yêu - một niềm hạnh phúc đơn sơ''. Nhưng sự tổng hợp này không thuyết
phục cũng không sâu sắc như phản đề trong Buddenbrooks và ở các truyện
ngắn khác. Trong vở kịch Fiorenza (1906), nhà đạo đức học Savonarola và
nhà mỹ học Lorenzo di Medici như những kẻ thù không đội trời chung, hố ngăn
cách giữa con người với con người lại lộ ra lần nữa. Trong tác phẩm Cái chết
ở thành Venice
- Der Tod in Venedig - (1913) nó lại chạm vào ý nghĩa bi kịch.
Chiến tranh Thế giới Thứ nhất và hậu quả của nó buộc
Mann phải từ bỏ thế giới của lòng ngưỡng mộ, sự phân tích tài tình và cách nhìn
tinh tế về cái đẹp, để quay lại với thế giới của hành động thực tiễn. Ông đi
theo lời chỉ bảo của riêng mình, hàm ý trong cuốn tiểu thuyết Vị Hoàng tử
của ông, rằng hãy cảnh giác với cái dễ dãi và tiện nghi, và tự buông mình vào
một nhận định mới đầy đau đớn về vấn đề đất nước của ông đang đối diện với thời
kỳ tai họa. Đặc biệt cuốn tiểu thuyết Ngọn núi kỳ bí - Der Zauberberg (1924),
minh họa cuộc đấu tranh tư tưởng mà bản chất biện chứng của ông chiến đấu đến
phút cuối và nó báo trước những tuyên ngôn về quan điểm của ông.
1931 -
ERIK AXEL KARLFELDT
(Thụy Điển,
1864 – 1931)
Chân dung tác giả, 1937
Nếu nhìn lại chặng đường văn học đáng nể của
Karlfeldt từ lúc khởi đầu vào 1895 và tiếp tục suốt ba thập niên sau, mặc dù có
hạn chế về số lượng do những tiêu chuẩn nghiêm khắc của ông, chúng ta sẽ thấy
rất rõ rằng làm thế nào mà tác giả có thể sử dụng tài năng của mình với bản
năng hiếm có cho sự thành đạt, vững chắc và xác thực đến thế! Ông khởi đầu như
một người hát rong hay một ca sĩ ca ngợi thiên nhiên, ý thức được tài năng của
mình nhưng vẫn còn hồ nghi về tiếng gọi của nghề nghiệp. Có ích gì cho những
ước mơ chất đầy trong lồng ngực mình? Liệu nó có thể có ý nghĩa gì cho toàn thể
loài người? Lúc khởi đầu sự nghiệp, nhà thơ tìm kiếm một kẻ đại diện, một cái
tôi biến đổi, một nhân vật độc lập thích hợp để diễn tả những cảm xúc, đau khổ
và lòng khao khát cũng như tài châm chọc của ông.
Thơ của Fridolin - Fridolins visor (1898) nổi tiếng trước tiên là một tác phẩm nói về
tính nhút nhút, vì nhà thơ miễn cưỡng phải hiện nguyên hình con người thật của
mình và phơi bày tâm tư thầm kín của mình ra. Chẳng bao lâu Fridolin đã
trở thành tác phẩm kinh điển, và ông đã có một vị trí trong buổi dạ hội lớn của
miền Bắc Bacchus, người anh em họ quê mùa của những nhân vật của Bellman, với
một dáng đi vững chải hơn, nhưng có những bông hoa trên mũ từ lễ hội mùa màng ở
Pungmakerebo.
Căn nhà của Karlfeldt ngày càng trở thành một thế
giới văn nghệ thu nhỏ, trong đó vũ trụ được phản ánh giống như những quang cảnh
trong sách Thánh kinh phản ánh trên các bức bích họa kỳ dị thời kỳ Baroque
trong các ngôi nhà nông trại ở Dalekarlia. Với khiếu hài hước thường được ngụy
trang dưới lớp vỏ tôn kính, ông giữ cho con người của mình không vẩn đục, và
tạo được sự hài hòa cân đối. Nhưng sự phát triển có vẻ như yên ả đó đã chứa
đựng nhiều đấu tranh và căng thẳng, đủ để tạo nên một áp lực cần thiết cho sức
bật sáng tạo. Đối với Karlfelt, thi ca là một cuộc thử nghiệm sức mạnh và bản
chất con người ông. Vì thế, ông đã cho thi ca của mình có một kết cục đầy năng
lực trong tập thơ Tiếng tù và Mùa thu - Hosthorn (1927), lời bạt của ông
được chơi trên cây đàn organ mùa
đông, với tiếng nhạc vút lên tận trời cao nhưng cùng lúc người ta lại nghe
tiếng vọng của thời thơ ấu từ những ngôi giáo đường sơn trắng nhỏ bé ở Dalarna.
Sự nhất quán trong tác phẩm của ông là một điều hiếm
có trong thời đại chúng ta. Nếu có ai hỏi về vấn đề chính của Karlfeldt là gì,
người ta có thể nghe được câu trả lời: tính kỷ luật tự giác. Tính sáng tạo của
ông phát triển trên đất đai của một kẻ ngoại giáo và vùng hoang dã rộng lớn,
thường thì ông không bị lôi cuốn vào những chủ đề làm mê hoặc lòng người và
loại bia đen của vùng Uriel, nếu như ông không cảm thấy có sự hiện diện của quỷ
dữ. Thiên nhiên náo động bị bóp nghẹt dưới ánh trăng của những lễ hội ngoại
giáo là một trong những cảnh mà ông gợi lên cho người đọc. Sự tương phản giữa
tật nghiên rượu nặng từ trong máu và nỗi khao khát trong sáng của linh hồn tái
diễn thường xuyên trong thơ ông. Nhưng những yếu tố khác nhau ấy không bao giờ
tiêu diệt lẫn nhau. Như một nghệ sĩ ông đã thuần hóa chúng bằng cách duy trì
lòng thành thật với chính mình và cho nó một bút pháp rất riêng ngay đến những
chi tiết nhỏ nhất.
Thi ca của
Karlfeldt rõ ràng là mang dấu ấn của một sự hoàn hảo kỳ lạ. Làm sao chúng ta
quên được những bài thơ tứ tuyệt vang lên như tiếng chuông hay rung lên như
những sợi dây đàn, nhưng trên tất cả là chúng được hát với một giọng hát đặc
biệt rền vang khác tất cả những giọng hát khác.
Trong tất cả các tác phẩm thi ca lớn đều có mối tương
quan hỗ tương giữa truyền thống và kinh nghiệm, và những nguyên tắc của sự tân
tạo và bảo tồn được chứa đựng trong đó. Truyền thống quốc gia tồn tại trong thơ
Karlfeldtvì nó đã được hồi phục với tư cách cá nhân và có đặc tính của một cuộc
xâm chiếm hầu như đã giành được. Chúng ta có thể vui mừng rằng nhà thơ này, với
những cảm hứng có được từ một quá khứ đang biến mất hay đã biến mất dần, đã sử
dụng những phương tiện diễn đạt hoàn toàn không theo những qui ước cũ kỹ và
trình bày những cách tân táo bạo, trong khi những người theo cái mới thường tự
hài lòng bước theo sau những khuynh hướng mới nhất hay những mốt nhất thời.
Chẳng hồ nghi gì nữa, mặc dù chủ đề có tính cách địa phương của mình, nhà thơ
xứ Dalarna là một trong những nhà thơ đương đại đã chắp đôi cánh táo bạo cho
trí tưởng tượng và thể nghiệm khả năng của những loại hình thi ca...
1932 -
JOHN GALSWORTHY
(Anh, 1867
– 1933)
Chân dung tác giả
Trực giác của ông chính xác đến độ ông có thể tự hài
lòng với một lời bóng gió nhẹ nhàng. Nhưng ở nhà văn này cũng có sự châm biếm,
một vũ khí đặc thù mà ngay cả giọng điệu là đã phân biệt ông với các nhà văn
khác. Có nhiều loại châm biếm khác nhau. Một loại là kiểu châm biếm tiêu cực và
có thể so sánh nó như sương muối trên cánh cửa sổ của một căn nhà không có lửa,
nơi bếp lò đã lạnh cóng từ lâu. Nhưng cũng có kiểu châm biếm thân ái với cuộc
sống, bật ra từ nhiệt tình, sự quan tâm, và tình nhân loại, đó là kiểu châm
biếm của Galsworthy. Đối diện với cái xấu vừa bi vừa hài, lối văn châm biếm của
ông như là cách đặt vấn đề tại sao nó phải là như thế, tại sao nó lại cần
thiết, và phải chăng không có gì có thể sửa chữa được. Đôi khi Galsworthy đã để
cho thiên nhiên tham dự một phần vào trò chơi châm biếm đó về con người, để
nhấn mạnh những cay đắng ngọt bùi của những biến cố với sự trợ giúp của gió,
mây, mùi hương thơm ngát hay tiếng chim kêu. Với sự tham gia của lối văn châm
biếm này, ông đã thành công khi gợi lên những hình ảnh tâm lý, luôn luôn là bạn đồng hành tốt nhất của hiểu
biết và cảm thông nhau.
Có lần Galsworthy đã tuyên bố phương châm nghệ thuật
của ông bằng những từ như sự hài hòa, cân xứng. Chúng biểu lộ thiên hướng của
ông, một lý tưởng tinh thần mà giờ đây thường đáng ngờ, có lẽ vì nó quá khó để
có thể đạt được. Chẳng bao lâu, chúng ta khám phá ra rằng nhà văn đã thật
nghiêm túc và kiên trì tấn công vào hạng người quý phái có tính tự mãn điển
hình, bản thân ông đã thành công trong việc đưa cuộc sống mới vào những quan
điểm xưa, và như thế nó có thể giữ gìn được mối tương quan cả con người lẫn bản
năng mỹ học vô hạn. Trong con người nghệ sĩ của Galsworthy, những phẩm chất kia
được gọi một cách hoa mỹ trong tiếng Anh là tính hòa nhã. Những phẩm
chất này thể hiện trong những tác phẩm của ông, và theo cách này chúng đã trở
thành một đóng góp văn hóa cho chính thời đại của chúng ta.
1934 –
LUIGI PIRADELLO
(Ý, 1867 – 1936)
Chân dung tác giả.
Tác phẩm của Luigi Piradello
bao quát mọi thể loại. Ông đã sáng tác một số lớn truyện vừa, in chung thành
một tuyển tập đồ sộ mang tên Novelle per un anno (15 tập, 1922 – 1937).
Bộ sách này đa dạng về chủ đề cũng như tính cách nhân vật. Bằng lối viết vừa
khôi hài vừa châm biếm, ông mô tả cuộc đời không những hoàn toàn hiện thực mà
còn mang tính triết lý sâu xa và cả nghịch lý nữa. Cũng có những sáng tác của
trí tưởng tượng nên thơ, vui nhộn mà trong đó những nhu cầu thực tế nhường chỗ
cho một lý tưởng và chân lý sáng tạo.
Nhưng thành công lớn lao
nhất của Luigi Piradello là kịch. Kịch của ông hầu hết đều đặt ra những vấn đề
triết lý. Nỗi cay đắng trong thời đại hiện nay của chúng ta đã ảnh hưởng nhiều
đến những vở kịch mang tính triết lý bi quan, cho dù triết lý này dựa trên bản
chất của tác giả. Tập kịch Maschere Nude [bản dịch tiếng Anh: Naked Masks] (1918-1921) khó dịch sang
một ngôn ngữ khác vì tính phức tạp của nó. Theo nghĩa đen, tên tập kịch có
nghĩa là “những cái mặt nạ không che đậy”, nhưng “mặt nạ” thường biểu thị cái
mặt ngoài trần trụi. Tuy nhiên, đối với Piradello, “mặt nạ” như là một cương
lĩnh về vấn đề cá tính mà ông luôn luôn ám ảnh. Theo ông, cái tôi chỉ tồn tại
trong mối tương quan với người khác, nó bao gồm những khía cạnh thường biến đổi
được giấu kín trong một vực thẳm bí hiểm.
Nét đặc trưng nổi bật nhất
trong nghệ thuật kịch của Piradello là phân tích tâm lý nhân vật bằng tài năng
ma thuật của mình. Ông không từ bỏ những
khuynh hướng văn chương phổ quát. Ông đề cập đến những vấn đề xã hội và đạo
đức, những xung đột giữa các bậc cha mẹ và cấu trúc xã hội với những quan điểm
cứng nhắc của nó về danh dự và khuôn phép lễ nghi, và những khó khăn mà lương
tâm con người nhận biết được để tự bảo vệ, chống lại những kẻ thù giống hệt
nhau. Về mặt đạo đức cũng như lý luận, tất cả đều được nêu ra trong những tình
huống phức tạp và kết thúc hoặc là chiến thắng hoặc là thất bại. Những vấn đề
này có bản sao tự nhiên của chúng để phân tích nhân xưng “tôi” của các nhân
vật, những người có liên quan cũng như có ý tưởng chống lại cái mà họ đang
chiến đấu.
Nói chung, kịch của
Piradello đều đặt vấn đề chính là phân tích về “tôi” – sự phân hủy trái với
nguyên lý cơ bản của nó, sự phủ định tính đồng nhất và không thực tế của nó và
những mô tả mang tính tượng trưng của Maschere Nude. Nhờ hiệu suất vô
tận của trí tuệ, ông tấn công vấn đề từ nhiều mặt khác nhau.
Bằng cách thăm dò chiều sâu
của chứng điên rồ, ông đã phát hiện ra nhiều điều quan trọng. Chẳng hạn trong
vở bi kịch Vua Henry IV [Enrico IV] (1922), ấn tượng mạnh nhất đến từ
cuộc đấu tranh của cá nhân để khẳng định mình trong dòng thác vô tận của thời
gian. Luật chơi [Il giuoco delle parti] (1919) là vở kịch trừu tượng
hoàn toàn. Ông sử dụng những khái niệm giả tạo của bổn phận để tạo cho người
xem nhớ rằng xã hội có thể bị khuất phục bởi sức mạnh của truyền thống hết sức
hợp lý cho một hành động hoàn toàn trái với sự mong đợi. Bằng một nhát gậy
thần, trò chơi trừu tượng đầy cảnh đời cực kỳ quyến rũ.
Sáu nhân vật đi tìm tác giả [Sei Personaggi
in cerca d’autore] (1921) cũng là một trò chơi hết sức nghiêm túc và đầy những
ý tưởng. Ở đây, óc tưởng tượng sáng tạo đi quá đà hơn là khái niệm trừu tượng.
Nó thực sự là một vở kịch giàu chất thơ, cũng là cách bài trí những miêu tả
giữa sân khấu và chân lý, giữa thể diện và thực tế. Hơn thế nữa, đây là một
thông điệp nghệ thuật gần như tuyệt vọng gởi đến linh hồn của một thời đại tàn
phá, của những cảnh chấp vá tung tóe lửa đạn. Sức truyền cảm mãnh liệt tuôn
tràn này và tầm hiểu biết vượt bậc, giàu chất thơ, thật sự là nguồn cảm hứng
của một thiên tài.
Tượng đài tác giả ở công viên Palermo
Như một nhà đạo đức học,
Piradello không phải là kẻ ngược đời mà cũng không là người phá hoại. Thiện vẫn
là thiện và ác vẫn ác. Một lòng nhân đạo cao thượng về thế giới loài người đã
lỗi thời ngự trị trong tư tưởng của ông. Chủ nghĩa bi quan chua xót của ông
không dập tắt được chủ nghĩa lý tưởng của ông, lý trí phân tích sắc bén của ông
không xa rời cội rễ của cuộc sống. Hạnh phúc không chiếm một vị trị rộng lớn
trong thế giới tưởng tượng của ông, nhưng điều mà tạo ra chân giá trị của cuộc
sống vẫn tìm thấy đủ không khí để thở ở đó.
Luigi Piradello được tặng
thưởng Nobel Văn chương “vì ông đã khéo léo và táo bạo phục hồi nghệ thuật kịch
và sân khấu”.
1935 - KHÔNG PHÁT GIẢI
1936 –
EUGENE GLADSTONE O’NEILL
(Mỹ, 1888
– 1953)
Chân dung tác giả
Kịch của Eugene O’neill là
kịch của một người lúc nào cũng u sầu và đối với ông toàn bộ cuộc đời là một bi
kịch ngay từ phút đầu tiên. Khuynh hướng này được hình thành do những kinh
nghiệm đắng cay mà ông nếm trải trong thời trẻ tuổi và đặc biệt hơn là trong
thời gian làm thủy thủ. Tư tưởng bi quan của ông có lẽ một mặt là do tính bẩm
sinh, mặt khác là do một phần của dòng văn học thời đại, nhưng đúng hơn có thể
được lý giải như một phản ứng sâu xa của cá nhân đối với truyền thống lạc quan
cố cựu của Mỹ. Cho dù nguồn gốc bi quan đó bất kể từ đâu mà ra, nhưng ông đã
vạch sẵn từ đầu phương châm phát triển nó và dần dần ông trở thành nhà viết bi
kịch khốc liệt và độc nhất vô nhị mà cả thế giới đều biết đến.
Những vở kịch đầu tiên của
O’Neill phần lớn là kịch một màn, viết theo lối hiện thực, hơi khô khan, dựa
trên vốn sống những năm ông đi biển. Tiêu biểu trong loạt kịch này là vở Trăng
trên biển Caribbe [The Moon of the Caribbees] (1918), mang đầy chất thơ,
một phần nhờ mô tả cuộc sống khốn khổ của một
thủy thủ với những ảo tưởng rồ dại về niềm vui, một phần nhờ bối cảnh
của vở kịch: những bài hát buồn giống như những bài ca truy điệu của người Da
đen cất lên từ rặng san hô nằm dưới những cây cọ lấp lánh như kim loại và mặt
trăng khổng lồ của vùng biển Caribbe. Tất cả đều mang vẻ u sầu, hoang dại, khát
khao, ngời sáng và tiêu điều ngột ngạt.
Năm 1922 O’Neill ra mắt vở
kịch Con Dã nhân lông rậm [The hairy Ape]. Ông muốn giới thiệu một tượng
đài người nô lệ nổi loạn trên một chiếc tàu chạy bằng hơi nước, Anh ta say sưa
với sức mạnh và những ý tưởng siêu nhân của mình. Bề ngoài anh mang hình dáng
của con người sơ khai và tự ví mình là một loài dã thú. Vở kịch miêu tả sự thất
bại và sụp đổ một cách thảm hại của con người muốn đứng lên chống lại xã hội
tàn bạo.
O’Neill cũng đã bỏ ra nhiều
năm dồn tâm sức nghiên cứu những tư tưởng mang tính biểu hiện táo bạo và những
vấn đề xã hội. Kết quả là sau đó ông cho ra đời nhiều vở kịch có chút ít liên
quan đến đời sống thực tế. Hoàng đế Jones [The Emperor Jones] (1920) là
vở kịch đầu tiên trong chủ đề này đã tạo danh tiếng cho ông. Chủ đề bám sát sự
sụp đổ tinh thần của một bạo chúa người Da đen cai trị một quần đảo toàn cư dân
da đen ở Tây An. Vở kịch gây ảnh hưởng mạnh lên thần kinh và cảm giác người xem
đến nỗi họ không thể rời mắt được từ màn đầu đến màn cuối.
Năm 1928, vở Một vở kịch;
thời gian nghỉ giải lao kỳ lạ [A Play; Strange Interlude] được khán giả và
giới phê bình tán thưởng nhiệt liệt. Nó được mang tên “Một vở kịch” bằng cách
dùng phương pháp trình diễn khoáng đạt và phóng túng nên không thể được xem như
một vở bi kịch mà nên xem nó như một tiểu thuyết tâm lý có nhiều cảnh là thích
đáng nhất. Về phụ đề “thời gian nghỉ giải lao kỳ lạ” là đầu mối trực tiếp được
đưa ra trong tiến trình của vở kịch: “Cuộc đời, hiện tại, là thời gian nghỉ
giải lao kỳ lạ giữa quá khứ và cái sắp đến.” Tác giả cố làm sáng tỏ ý tưởng của
ông, càng rõ càng tốt, bằng cách sử dụng đến một phương kế đặc biệt: một mặt
những diễn viên nói và trả lời khi hành động kịch đòi hỏi, mặt khác họ biểu lộ
đúng bản chất và hồi ức của mình dưới hình thức độc thoại, không thể nghe thấy
những nhân vật khác trên sàn diễn. Một lần nữa, ông sử dụng yếu tố mặt nạ hoá
trang!
Vở bi kịch đúng nghĩa và
xuất sắc nhất của O’Neill là Tang tóc đến với Electra [Mourning Becomes
Electra] (1931). Nó gần với truyền thống kịch cổ điển, tuy nhiên được chỉnh lý cho thích hợp cả những chi tiết
về cuộc sống lẫn cách suy nghĩ hiện đại. Cảnh là ngôi nhà thời hiện đại của gia
đình Atreu được lồng vào giai đoạn nội chiến khốc liệt của nước Mỹ, một thiên
hùng ca Iliad của Mỹ.
Trong vở A, nơi hoang dã
[Ah, Wilderness] (1933) nhà viết bi kịch đáng kính làm ngạc nhiên những người
mến mộ ông bằng cách giới thiệu với họ vở hài kịch về giai cấp trung nông.
Trong vở kịch có nhiều bài thơ mô tả đời sống tinh thần của thanh niên, tuy có
những cảnh vui nhộn nhưng không ảnh hưởng đến chất hài hước của một vở hài
kịch.
Mộ của Eugene O' Neill ở Boston
Năm 1934, vở Tháng ngày
vô tận [Days Without End] ra đời, tác giả đứng trên quan điểm của một nhà
khoa học tự nhiên thích tranh luận đưa ra vấn đề tôn giáo. Ông tách nhân vật
chính ra làm hai phần, trắng và đen, không những đi sâu vào nội tâm mà còn thể
hiện đời sống bên ngoài một cách cụ thể, mỗi phần chỉ huy thể xác độc lập của
riêng mình – một loại người như anh em sinh đôi mâu thuẫn nhau. Tuy có rủi ro
kèm theo việc mạo hiểm đó, nhưng vở kịch được thể hiện bởi thủ pháp xử lý sân
khấu hiếm có của tác giả. Về nhân vật thầy tu, người phát ngôn của đạo Thiên
Chúa, O’Neil đã tạo ra một trong những nhân vật giống y như ngoài đời. Dù gì
chi tiết này cũng có thể được hiểu như một thay đổi dứt khoát trong quan điểm
của tác giả về những gì còn lại của cuộc đời được nhìn thấy trong tương lai.
Eugene Gladstone O’Neill
được tặng giải Nobel Văn chương “vì những kịch bản của ông đã biểu hiện nhận
thức căn cơ của bi kịch, có sức hấp dẫn mãnh liệt, tính trung thực và những mối
xúc cảm sâu sắc”.
1937: ROGER MARTIN DU GARD
(Pháp, 1881 – 1958)
Chân dung tác giả - hình chụp 1937.
Giải thưởng Nobel năm nay
dành cho Roger Martin Du Gard, người đã cống hiến cho chúng ta một công trình
độc đáo: một loạt các tiểu thuyết với nhan đề chung Gia đình Thibault
[Les Thibault] (1922 – 40). Đó là một công trình to lớn cả về số lượng lẫn phạm
vi. Nó giới thiệu một bức tranh xã hội Pháp hiện đại với nhiều loại nhân vật,
phân tích những xu hướng và vấn đề tri thức đã ám ảnh nước Pháp trong suốt thập
niên trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, một bức tranh thật đầy đủ và một phân
tích thật hoàn chỉnh. Vì thế, công trình của ông đã tạo ra một thể loại văn học
đặc trưng trong kỷ nguyên của chúng ta, được gọi là “roman fleuve” (trường
thiên tiểu thuyết) trên quê hương của tác phẩm.
Thuật ngữ này dùng để chỉ một phương pháp kể chuyện tương
đối ít liên quan đến bố cục và cứ thẳng tiến như một con sông chảy qua những xứ
sở bao la, phản ánh tất cả những gì nó nhìn thấy trên đường đi. Điều cốt yếu
của một tiểu thuyết như thế, bất kể vấn đề lớn nhỏ, chính là tính chính xác của
sự phản ảnh hơn là sự hài hòa cân đối giữa các phần, nó không có hình dạng. Con
sông cứ lượn lờ trôi theo ý mình, chỉ năm thì mười họa dòng nước ngầm mới làm
xáo trộn bề mặt yên tĩnh của nó.
Thời đại của chúng ta thật
khó mà gọi là yên tĩnh; ngược lại, tốc độ của kỹ thuật đã làm cho nhịp điệu
cuộc sống gia tăng đến mức đáng ngại. Vì vậy, thật kỳ lạ là trong một thời đại
như vậy mà hình thức phổ biến nhất của văn học là tiểu thuyết lại phát triển
theo chiều hướng hoàn toàn ngược lại, và bằng cách đó nó đã trở nên phổ biến
hơn. Tuy nhiên, nếu như tiểu thuyết cung cấp cho chúng ta một thế giới tưởng
tượng như ý thì cũng có thể giải thích hiện tượng này theo kiểu tâm lý rằng, đó
là một sự đền bù thơ mộng cho sự thất vọng đối với cuộc sống thường ngày. Nhưng
nói một cách chính xác, đó là nỗi lo âu não lòng về thực tại mà tiểu thuyết
phải làm công việc đánh động và làm cho nó nổi bật lên.
Tuy nhiên, tiểu thuyết chính
là thế, với thực chất không giới hạn của nó, và người đọc có thể tìm thấy sự
khuây khỏa nào đó trong nhận thức được nâng cao, mà mình đạt được từ yếu tố bi
kịch, không thể tránh, được vốn có trong cả cuộc đời. Bằng một loại chủ nghĩa
anh hùng, nó nuốt chửng thực tại trong những mẻ lưới lớn, và khuyến khích chúng
ta chịu đựng ngay cả những nỗi khổ đau lớn lao cùng niềm vui sướng. Những đòi
hỏi thẩm mỹ của người đọc sẽ được thỏa mãn trong những đoạn cô lập súc tích hơn
của tác phẩm, và vì thế nó càng thích hợp với việc phát huy hết cảm xúc của
người đọc. Gia đình Thibault không thiếu những đoạn như thế.
Nhân vật chính trong tác
phẩm là ba thành viên của cùng một gia đình: người cha và hai cậu con trai.
Người cha là nhân vật làm nền; vai trò thụ động của ông, với dáng vẻ “vai u
thịt bắp”, thô kệch bề ngoài, được tác giả mô tả bằng một kỹ thuật thật đặc
biệt. Hai người con trai và vô số các nhân vật phụ khác được mô tả bằng một bút
pháp đầy ấn tượng. Trong truyện không có gì được chuẩn bị trước, chúng ta thấy
họ nói năng, hành động trước mặt mình, và chúng ta thấy được một bức tranh toàn
cảnh lẫn chi tiết . Người đọc phải nhanh chóng nắm vững những gì mình thấy và
nghe được, vì nhịp điệu thất thường và bất qui tắc của cuộc sống có mặt ở khắp
nơi. Tác giả giúp cho người đọc hiểu được vấn đề bằng phương tiện hoàn hảo
nhất: đó là sự phân tích tư tưởng nhân vật, một cái nhìn thấu vào bên trong cõi
sâu thẳm của họ đã làm phát sinh những hành động của ý thức. Martin Du Gard còn
đi xa hơn một bước: ông cho thấy những
tư tưởng, tình cảm và ý chí đã được chuyển hóa như thế nào trước khi biến thành
ngôn ngữ và hành động. Đôi khi những cái cớ bên ngoài như thói quen, thói kiêu
căng tự phụ, hay ngay cả cách cư xử vụng về, làm thay đổi những biểu lộ tình
cảm và nhân cách. Sự khảo sát tinh tế và đậm nét này về tiến trình năng động
của tâm hồn con người rõ ràng là tạo nên sự đóng góp cơ bản và sâu sắc nhất của
Martin Du Gard trong nghệ thuật mô tả
đặc điểm nhân vật. Xét về mặt mỹ học, điều này không phải lúc nào cũng thuận
lợi, vì sự phân tích có thể trở thành rườm rà ở đôi chỗ, dường như không cần
thiết lắm cho câu chuyện.
Gia đình Thibault là trường thiên
tiểu thuyết của Roger Martin du Gard mà Viện Hàm lâm Thụy Điển chọn để trao
giải Nobel Văn chương vì “bằng tài năng nghệ thuật và lẽ phải ông đã mô tả cuộc
xung đột của con người cũng như những khía cạnh căn bản của cuộc sống đương
đại”.
1938: PEARL
BUCK
(Mỹ, 1892 –1973)
Chân dung tác giả, 1938
Pearl Buck đã từng nói rằng
bà nhận nhiệm vụ như một người thông dịch cho phương Tây về thiên nhiên và con
người của đất nước Trung Hoa. Bà hoàn toàn không có ý làm văn học về xứ sở ấy,
nó đến với bà một cách tự nhiên.
Bà từng sống chung với những người dân Trung
Hoa qua tất cả các thời kỳ, lúc thịnh cũng như lúc suy, lúc ê chề cũng như khi
vinh quang, bà gắn bó với tầng lớp thượng lưu cũng như kẻ chân lắm tay bùn suốt
đời chưa có dịp nhìn thấy một người phương Tây trước khi gặp bà. Trên xứ sở
phương Đông ấy, bà là một người xa lạ nhưng chưa bao giờ có cảm giác mình là
người xa lạ. Từ tình cảm chân thành này, với cách nhìn khách quan và đầy nhân
bản mà bà đã cung cấp cho kho tàng văn học thế giới những tác phẩm nổi tiếng như Đất Lành [The Good Earth] (1931), Người
Mẹ [The Mother] (1934), Lưu Đày [The Exile] (1936), Thiên thần ra
trận [Fighting Angle] (1936)…
Đất lành là một thiên sử
thi về người nông dân Trung Hoa, từ đời này sang đời khác có cùng một tâm hồn
cổ xưa, luôn gắn bó thân thiết với ruộng đồng. Vương Long, nhân vật chính của
tác phẩm được tạo ra cũng từ chất đất vàng-nâu trên những cánh đồng và niềm tin
mãnh liệt vào khả năng lao động của mình. Cả hai yếu tố này có sẵn trong máu thịt
của anh và đến ngày anh nhắm mắt xuôi tay một cách bình thản, chúng lại trở
thành một. Việc làm của anh cũng là bổn phận đã hoàn thành, vì vậy lương tâm
anh yên ổn. Vì tính bất lương không giúp được gì cho công việc anh theo đuổi
nên anh trở thành người lương thiện. Đây là toàn bộ quan niệm đạo đức của anh
và nó cũng nằm trong quan niệm tôn giáo hầu như được nhận thức một cách trọn
vẹn trong việc thờ cúng tổ tiên.
Anh ta biết rằng đời người
là tia chớp giữa hai bóng đêm. Từ tia chớp sau lưng anh là sự ràng buộc của tổ
tiên từ đời cha đến đời con, và anh không thể phá bỏ được sợi dây ràng buộc này
nếu anh vẫn còn hy vọng mong manh sống sót trên vùng đất cha ông để lại, vùng
đất lóe lên ngọn lửa cuộc sống của dòng họ mà mỗi cá nhân phải gìn giữ.
Một nhân vật hoàn toàn khác
với Vương Long là nhân vật chính trong tác phẩm Người Mẹ. Không thể có
một từ nào chính xác hơn để nói về số phận cuộc đời của người mẹ bằng chính từ
này. Bà đã được cá tính hóa một cách sinh động, một mẫu người can đảm, đầy nghị
lực, cá tính mạnh và không mang khí chất nô lệ. Chồng bà bỏ nhà ra đi, nhưng bà
quyết giữ lại ngôi nhà cho con cái. Toàn bộ câu chuyện đưa đến một kết thúc
thất bại nhưng không thất vọng. Người mẹ không thể bị đè bẹp, ngay cả khi đứa
con trai của bà bị chém đầu vì làm cách mạng, bà phải đi tìm một ngôi mộ của
một người không quen biết để khóc thương, vì con bà không có mộ. Rồi thì đứa
cháu nội ra đời, bà lại có người để thương yêu và thờ cúng bà sau này.
Tác giả lúc về già, 1972
Người mẹ là hình ảnh người
đàn bà Trung Hoa hoàn hảo nhất của Pearl Buck. Đây là một trong những tác phẩm
hay nhất của bà. Nhưng hợp với tính chất mô tả và nghệ thuật kể chuyện của bà
phải kể đến hai tác phẩm viết về cuộc đời của cha mẹ bà là Lưu đày và Thiên
thần ra trận. Những tác phẩm này được xem là kinh điển với đủ ý nghĩa của
từ này nhất, chúng có giá trị mãi mãi vì chúng tràn đầy cuộc sống.
Giải thưởng Nobel năm nay
dành cho Pearl Buck vì những tác phẩm đặc sắc của bà đã mở đường cho mối đồng
cảm giữa con người vượt qua những ranh giới chủng tộc và về sự nghiên cứu những
lý tưởng con người thông qua nghệ thuật miêu tả chân dung đặc sắc và sinh động.
Viện Hàn Lâm Thụy Điển cảm thấy điều này cũng phù hợp với những ước mơ về tương
lai mà Alfred Nobel hướng tới.
1939 – FRANS EEMIL SILLANPAA
(Phần Lan, 1888 – 1964)
Chân dung tác giả
Văn kiện
chính thức của Giải Nobel vừa được trao cho ngài và ngài đã biết được lý do
khiến Viện Hàn Lâm Thụy Điển công nhận sự nghiệp văn học của ngài. Những lý do
đó được nêu lên rất ngắn gọn trên tờ giấy da chứng nhận này, nhưng điều đó sẽ
làm giảm bớt lòng tôn kính đối với ngài và ngài sẽ nhận được đầy đủ trong buổi
lễ phát giải.
Lòng tôn kính này ngài sẽ
nhận ra một cách đồng đều trong hội đồng chúng tôi, trong cuộc họp mang đặc
tính đơn giản của chúng tôi, nhưng cũng ấm cúng như ngài sẽ nhận được trong hội
trường vào ngày lễ phát giải. Không ai trong chúng tôi biết tiếng Phần Lan của
ngài, chúng tôi chỉ có thể thưởng thức tác phẩm của ngài qua những bản dịch,
nhưng không nghi ngờ gì về tài năng của ngài. Tài năng đó lớn đến nỗi nó hiển
hiện rõ ràng ngay cả trong văn dịch. Giản dị, ngắn gọn, khách quan, không màu
mè, ngôn ngữ của ngài tuôn trào như một giòng suối trong phản ánh lại những gì
màu cặp mắt của nhà nghệ sĩ nắm bắt được. Ngài đã chọn lựa những chủ đề hết sức
tinh tế, và hầu như có thể nói, với cái
vẻ bẽn lẽn trước các đẹp bất ngờ. Ngài muốn tạo ra cái đẹp từ những gì tồn tại
trong thiên nhiên thường ngày bằng một bút pháp luôn luôn là bí mật của ngài.
Không phải chính tại bàn giấy mà người ta nhìn thấy ngài làm việc, mà là trước
giá vẽ của một họa sĩ màu nước, và người ta phải tập làm quen với một cách nhìn
mới về tác phẩm trước mặt tác giả. Thỉnh thoảng, khi những đám mây và những
không gian được vẽ lên dưới ánh sáng của một ngày hè, ngài không còn sợ rằng
mình có một chủ đề đầy triễn vọng và rồi ngài sử dụng nghệ thuật âm nhạc bằng
bàn tay của một bậc thầy. Nét đặc trưng này, lòng yêu mến của ngài về điều đơn
giản và tính đặc thù, ngài cũng chứng tỏ nó trong sự mô tả con người. Ngài
thích mô tả về cuộc sống thường ngày của người nông dân, những kẻ gắn bó với
đất đai là nguồn gốc tạo nên sức mạnh của họ. Khi gặp phải vấn đề hóc búa, ngài
cũng chứmg tỏ một sự lỗi lạc không kém, và đã tạo nên hiệu quả chỉ bằng những
phương tiện đơn giản nhất.
Nhắc đến tác phẩm nổi tiếng
của mình, ngài đã nói đôi điều mà không ai khác có thể nghĩ ra: “Mọi vật chạm
tới Silja thường đều là một sự tầm thường lộng lẫy”. Không có nghệ sĩ nào có
thể đi xa hơn ước muốn giữ nguyên lòng chung thủy đối với tính chất chính xác
của sự vật một cách kính trọng. Vì thế, ngài đã giới thiệu về dân tộc mình mà
không cần đến một chút hoa mỹ nào dù là nhỏ nhất.
Vào giờ phút này, ngay tên
đất nước của ngài cũng mang đầy ý nghĩa khắp mọi nơi. Cũng đơn giản như cái
nhìn của ngài về họ, dân tôc ngài nhận ra mình là con mồi của số phận, vĩ đại
một cách anh hùng với lòng can đảm vô biên, trung thành với nhiệm vụ cho đến
phút chót, đối đầu với cái chết mà không biết run sợ. Trong niềm biết ơn của
chúng tôi với những gì ngài đã ban cho, tư tưởng chúng tôi sẽ còn đi xa nữa,
với tất cả sự ngưỡng mộ và cảm xúc của chúng tôi đối với đất nước ngài, dân tộc
ngài.
1944 -
JOHANNES V. JENSEN
(Đan
Mạch, 1873 – 1950)
Chân dung tác giả, 1944
Ngay từ đầu thế kỷ Johannes
V. Jensen đã đứng vào hàng ngũ tiên phong
trong nền văn học Đan Mạch. Ông luôn năng động, gây tranh cãi trong một thời
gian dài, nhưng lại được ngưỡng mộ khắp thế giới vì sức sống của ông. Đứa con
của vùng Jutland khô khan đầy gió này, hầu như đứng ngoài thù hận, đã làm cho
những người cùng thời phải ngạc nhiên vì sức sáng tạo dồi dào của ông. Ông được
xem như một trong những nhà văn Scandinavi có khả năng sáng tác sung mãn nhất. Ông
đã xây dựng nên một mảnh đất văn chương rộng lớn và đầy ấn tượng, bao gồm nhiều
thể loại khác nhau: sử thi, thơ trữ tình, những tác phẩm hiện thực và tưởng
tượng, những tiểu luận về triết học và lịch sử, ấy là chưa kể đến những cuộc
dạo chơi vào lãnh vực khoa học ở mọi hướng .
Nhà cải cách văn phong và
táo bạo đập phá thánh tượng trong văn học này ngày càng tạo nên tên tuổi của
mình để trở thành một nhà văn kinh điển
hàng đầu. Trong thâm tâm, ông cảm thấy mình gần gũi với thi ca của thời hoàng
kim, và hy vọng rằng một ngày nào đó ông sẽ là một trong số những vị thần hộ
mệnh phục hồi sinh khí cho quốc gia mình.
Những tác phẩm đầu tiên của
Johannes V. Jensen cho thấy ông giống như một chàng trai tỉnh lẻ, một sinh viên
đối kháng sống ở Copenhagen, một tuổi trẻ khó khăn và bị khích động, hăng say
đấu tranh chống lại đầu óc rỗng tuếch và hẹp hòi về tri thức. Chàng trai gốc
Jutland này, đầy ý thức, khó gần, nhưng nhạy cảm, chẳng bao lâu đã phát hiện ra
xứ sở của mình quá nhỏ bé. Ngột ngạt vì không khí quen thuộc của những hòn đảo
xứ Đan Mạch, chàng ném mình vào chủ nghĩa lãng mạn ngoại lai với lòng đam mê
nửa vời của một con bạc. Những chuyến du lịch đầu tiên đến những lục địa nước
ngoài đã mở ra trước mắt chàng trai khoảng không gian cần thiết cho trí tưởng
tượng không mêt mỏi của chàng. Trong suốt thời gian này, chàng hát bài ngợi ca
kỹ thuật và cơ khí hóa. Cũng giống như người đồng hương H. C. Andersen, lần đầu
tiên mô tả kỳ công của chuyện đi du lịch bằng đường sắt, Johannes V. Jensen là
nhà tiên tri về những kỳ công của thời đại chúng ta, về các tòa nhà chọc trời,
xe ô tô, các rạp chiếu bóng, mà ông không tiếc lời ca ngợi trong những quyển
tiểu thuyết về châu Mỹ của mình, đó là quyển Bà D’Ora (194) và Bánh
xe [Hjulet] (1905). Nhưng chẳng bao lâu, ông lại bước vào một giai đoạn
phát triển mới. Có thể nói là đúng vào lúc đứng trước nguy cơ đơn giản hóa các
vấn đề, thỏa mãn khát vọng du lịch , ông bắt đầu nhìn lại đúng lúc những gì mà
ông đã từng đeo đuổi. Cũng chính người đã ca tụng cuộc sống hiện đại với tốc độ
nhanh và những cỗ máy ồn ào của nó, giờ đây lại trở thành một khán giả của
những triều đại cổ, hiến mình cho công cuộc nghiên cứu những thời kỳ trong quá
khứ, khi loài người lần đầu tiên bước vào cuộc phiêu lưu.
Có lẽ nhờ vậy mà chúng ta có
được bộ tiểu thuyết sáu quyển quan trọng nhất của ông với nhan đề Cuộc hành
trình dài [De lange rejse] (1908 – 22), đưa chúng ta đi từ thời kỳ băng hà
cho đến thời Christophe Colombus. Chủ đề trung tâm hay một trong những chủ đề
trung tâm của tác phẩm này là nhiệm vụ toàn cầu của dân tộc Scandinavi, từ sự
di dân vĩ đại và cuộc xâm lăng của người Norman đến sự khám phá ra châu Mỹ.
Jensen khám phá ra Christophe Colombus là hậu duệ của người Lambard, hay còn
gọi là người Bắc Âu, nếu không phải là dân Jutland giống như ông. Trong loạt
tác phẩm vĩ đại này xuất hiện một gương mặt huyền thoại, Nornagestr. Ông ta
chẳng giống chút gì với con người đã xuất hiện trước triều đình của Vua Olaf
Tryggvason để kể lại chuyện mình và chết tại đó. Theo truyền thuyết dân gian
của Iceland, ông ta thọ ba trăm tuổi, nhưng Jensen đã làm cho ông ta già hơn
nữa và biến ông thành một loại Ahasverus, có mặt khắp nơi, luôn luôn đứng sau
thời đại của mình, một kẻ xa lạ giữa những thế hệ mới, nhưng vì thế lại trẻ hơn
họ vì ông ta sống vào thời mà chính bản chất sự hiện hữu là trẻ trung, và loài
người gần gũi với nguồn gốc của họ hơn. Nhà văn theo truyền thống truyện kể Bắc
Âu để làm rõ ý đồ sáng tác của mình.
Đối với Johannes V. Jensen,
người lớn lên trong vùng đồng hoang Jutland, nơi mà chân trời thường bị chia ra
làm đôi bởi đường dung nham hình nón, thì đó là điều tự nhiên khi sự quan tâm
của ông chia đều cho các sự kiện và huyền thoại, cũng như việc ông tìm kiếm
đường đi giữa bóng tối của quá khứ và thực tế của hiện tại. Những hình mẫu ông
đưa ra cho chúng ta thấy cả sự quyến rũ của thời sơ khai đối với một con người
nhạy cảm lẫn sự cần thiết để biến sức mạnh thô bạo thành dịu dàng. Ông đã đạt
đến đến đỉnh cao nghệ thuật của mình nhờ những tương phản mãnh liệt đó. Ngọn
gió tươi mát mặn mà đã thổi qua tác phẩm của ông, mở ra bằng một thứ ngôn ngữ
sinh động, diễn đạt đầy ấn tượng, và một năng lực phi thường. Rõ ràng là đối
với các nhà thơ gắn bó sâu sắc với đất nước mình, tài năng thiên phú của họ thể
hiện ở việc sử dụng ngôn ngữ. Jensen là tiếng nói của Jutland và Đan Mạch. Với
tài năng của mình, ông xứng đáng với danh hiệu người kể chuyện kiệt xuất về
cuộc chiến đấu chống lại thiên nhiên, làm vẻ vang của dân tộc Bắc Âu, và về sự
kế tục tinh thần Bắc Âu qua các thời đại.
1945 – GABRIELA MISTRAL
(Chi-lê, 1889–1957)
Chân dung nhà thơ, 1945.
Ngày nọ, những giọt nước mắt
của người mẹ đã tạo ra một thứ ngôn ngữ toàn vẹn, vốn bị khinh thị trong xã hội
tử tế lúc bấy giờ, để khám phá lại tính chất cao quý của nó và gặt hái được
vinh quang bằng sức mạnh của những vần thơ. Người ta kể rằng khi Frédéric
Mistral, người đầu tiên trong số hai nhà thơ mang cái tên của ngọn gió Địa
Trung hải, viết ra những giòng thơ đầu tiên bằng tiếng Pháp khi còn là sinh
viên, mẹ bà đã để cho nước mắt mình tuôn trào. Là một phụ nữ mù chữ sống ở
Languedoc, bà không hiểu gì về thứ ngôn ngữ nổi tiếng này. Sau đó, Mistral đã
sáng tác Miréio kể về tình yêu của một cô thôn nữ xinh đẹp dành cho
người thợ thủ công nghèo khó, một thiên sử thi toát lên mùi hương của một vùng
đất đang nở hoa và chấm dứt bằng cái chết tàn nhẫn. Từ đó ngôn ngữ cổ của những
người hát rong trở thành ngôn ngữ của thơ ca. Giải Nobel năm 1904 đã lôi kéo sự
chú ý của thế giới đối với sự kiện này.
Trong cùng năm ấy, năm 1914,
năm Chiến tranh thế giới thứ Hai bùng nổ, ở đầu bên kia của thế giới, một
Mistral mới xuất hiện. Khi còn là một cô giáo làng, Gabriel Mistral đã nhận
được giải thưởng thơ với một số bài thơ tưởng nhớ một nhân viên đường sắt tự tử
Câu chuyện của bà quá nổi
tiếng đối với nhân dân Nam Mỹ đến nỗi, khi lưu truyền từ quốc gia này sang quốc
gia khác, nó đã trở thành một huyền thoại. Và giờ đây, cuối cùng khi bà đến với
chúng ta, vượt qua những ngọn núi của rặng Cordilleran Ande và Đại Tây dương
bao la, chúng ta lại có thể kể lại câu chuyện ấy một lần nữa.
Trong một ngôi làng nhỏ ở
thung lũng Elquis, nhiều thập niên trước, một cô giáo tương lai đã chào đời tên
là Lucila Godoy y Alcayaga. Godoy là tên của cha nàng, một thầy giáo, người có
thể xuất khẩu thành thơ một cách dễ dàng. Tài năng của ông dường như được pha
trộn với sự âu lo và bất định thường thấy ở các nhà thơ. Ông rời bỏ gia đình
khi cô con gái mà ông đã từng tạo cho nó một mảnh vườn nhỏ, hãy còn là một đứa
trẻ. Người mẹ xinh đẹp của cô nói rằng thỉnh thoảng bà khám phá ra cô con gái
bé nhỏ cô độc của mình chuyện trò thân mật với chim muông và hoa lá trong vườn.
Một trong những huyền thoại cho rằng cô bị đuổi học vì quá đần độn. Vì thế cô
đã tự học bằng phương pháp riêng cho đến khi trở thành cô giáo trường làng ở
Cantera. Ở đó, số phận của cô gái hai mươi tuổi được định đoạt khi cô rơi vào
cuộc tình say đắm với một anh nhân viên đường sắt.
Chúng ta biết ít ỏi về
chuyện tình của họ. Chỉ biết rằng anh ta đã phản bội cô. Vào một ngày tháng 11
năm 1909, anh ta tự sát bằng một phát súng vào đầu. Cô gái trẻ vô cùng tuyệt
vọng. Cũng giống như Job, cô chỉ còn biết than khóc với Trời. Từ thung lũng xa
xôi trong dãy núi khô cằn của Chile, một
giọng nói vang lên, và tất cả những người đàn ông ở quanh đó đều nghe. Cái bi
kịch tầm thường của cuộc sống thường ngày đã mất đi tính cách riêng tư của nó
và đi vào văn học thế giới. Lucila Godoy y Alcayaga trở thành Gabriela Mistral.
Cô giáo làng tỉnh lẻ kia, bạn đồng nghiệp của Selma Lagerlof ở Marbacka (xem
Nobel 1909), đã trở thành nữ hoàng tinh thần của Châu Mỹ Latinh.
Khi những bài thơ tưởng nhớ
đến một người đã khuất đã tạo nên tên tuổi của nhà thơ mới, thì những bài thơ u
buồn và say đắm của Gabriela Mistral bắt đầu lan khắp Nam Mỹ. Nhưng điều này
chưa xảy ra cho tới năm 1922, khi tập thơ Tuyệt vọng [Desolaciún] của bà
in ở New York. Những giọt nước mắt của người mẹ đã rơi giữa tập thơ, trên bài
thơ thứ mười lăm, những giọt nước mắt dành cho đứa con trai đáng lý không bao
giờ ra đời.
Gabriela Mistral chuyển hóa
tình yêu tự nhiên của mình sang đám học trò. Bà viết cho chúng những bài hát
đơn giản và những bài hát tập thể, in thành tập ở Madrid năm 1924 dưới nhan đề Dịu
dàng [Ternura]. .Vinh dự cho bà, bốn ngàn trẻ con Mexico đã cùng lúc hát
những bài hát tập thể này. Gabriela Mistral trở thành nhà thơ của tình mẫu tử.
Năm 1938, tập thơ thứ ba, Tala
(nhan đề có thể dịch là Tàn phá, nhưng nó còn là tên một trò chơi của trẻ con), xuất hiện ở
Buenos Aires dành
cho những nạn nhân trẻ con trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Ngược với nỗi
thống thiết trong Desolaciún, Tala diễn tả sự yên tĩnh hài
hòa bao trùm vùng đất Nam Mỹ nơi mà
hương hoa đến với chúng ta từ mọi phía. Một lần nữa chúng ta lại ở trong khu
vườn tuổi thơ của bà, nghe lại những cuộc trò chuyện thân tình với thiên nhiên
và những vật bình thường. Có một sự pha trộn lạ lùng giữa bài thánh ca và bài
hát đồng dao, những bài thơ về bánh mì và rượu, muối, bắp và nước – nước dành
cho kẻ khát – ca tụng những thực phẩm nguyên thủy của cuộc sống loài người!...
Bàn tay từ mẫu của nhà thơ
đã cho chúng ta một thức uống có vị của đất và làm dịu được cơn khát của trái
tim. Nó được kéo lên từ dòng suối chảy từ nhà thơ Sappho trên đảo Hy Lạp đến
Gabriela Mistral ở thung lũng Elquis, dòng suối của thi ca không bao giờ khô
cạn.
Hermann Hesse đã tìm cách
thoát khỏi áp lực chính trị sớm hơn những nhà văn Đức khác. Trong suốt Thế
chiến thứ I, ông định cư ở Thụy Sĩ và nhập tịch nước này vào năm 1923. Tuy
nhiên, không nên dựa vào nguồn gốc gia đình và những liên hệ cá nhân của Hesse
để cho rằng ông chịu ảnh hưởng cuả nền văn hóa Thụy Sĩ, không kém gì nền văn
hóa Đức. Nơi Hesse tỵ nạn trong suốt thời kỳ chiến tranh là một quốc gia trung
lập, tương đối yên tỉnh, cho phép ông tiếp tục sự nghiệp văn chương của mình.
Cùng với Thomas Mann, Hesse là đại diện tiêu biểu nhất được kế thừa di sản văn
hóa Đức trong nền văn học đương thời.
Phòng làm việc của H. Hesse trong Museum Gaienhofen
1946 -
HERMANN HESSE
(Đức, 1877 – 1962)
Chân dung nhà văn - tranh sơn dầu của Ernst Würtenberger
Hesse xuất thân từ một gia
đình sùng đạo. Cha ông nổi tiếng là nhà sử học của giáo hội Tin Lành, mẹ ông là
con gái của một nhà truyền giáo. Bà có giòng máu Pháp và được giáo dục ở Ấn Độ.
Vì thế, gia đình muốn ông trở thành một mục sư, gởi ông đến học tại tu viện
Maulbroom. Hesse trốn khỏi tu viện, đến xin học việc với một người thợ sửa đồng
hồ và sau đó làm việc cho các cửa hàng sách ở Tybingen và Basle.
Khuynh hướng phản kháng lại
tinh thần mộ đạo mà ông được thừa hưởng, dầu sao vẫn luôn tồn tại trong máu
thịt, không ngừng dày vò nội tâm ông. Chính điều này, vào năm 1914, đã tạo cho
Hesse trở thành một thanh niên trưởng
thành và một nhà văn nổi tiếng đi theo con đường mới khác xa với lối mòn bình
dị trước đó của ông. Nói tóm lại, nguyên nhân thay đổi tận gốc rễ văn phong của
Hesse có hai yếu tố:
Thứ nhất, dĩ nhiên là Chiến
tranh Thế giới. Khi chiến tranh bắt đầu bùng nổ, Hesse đã bị báo chí Đức tấn
công quyết liệt vì những phát biểu hô hào hòa bình của ông và ông không tránh
khỏi một cú sốc tinh thần rất nặng về chuyện này. Đối với ông, đó là minh chứng
cho thấy toàn bộ nền văn minh châu Âu mà ông đã từng đặt hết niềm tin vào, thật
sự đã bệnh hoạn và suy sụp. Có chăng, điều có thể cứu vãn được là những gì vượt
ra ngoài những chuẩn mực đã được công nhận, có lẽ từ ánh sáng Phương Đông, có
lẽ từ cốt tủy những học thuyết vô thần về cách giải quyết cái thiện và cái ác
trong một tổng thể cao hơn. Mệt mỏi và hoài nghi, ông đã tìm lối thoát trong
thuyết phân tâm của Freud, lúc bấy giờ đang được nhiều người truyền bá và thực
hành, mà nó đã để lại dấu ấn lâu dài trong các tác phẩm ngày càng táo bạo của
ông vào giai đoạn này.
Cuộc khủng hoảng cá nhân nói
trên còn được thể hiện một cách kỳ vĩ
trong tuyệt tác Sói Đồng hoang [Der Steppenwolf] (1927) với những
mô tả đầy cảm hứng về lỗi lầm trong bản chất con người, áp lực giữa khát vọng
và lý trí của một cá nhân đứng ngoài lề xã hội.
Phòng làm việc của H. Hesse trong Museum Gaienhofen
Tác phẩm của Hesse chịu
nhiều ảnh hưởng từ nhiều hướng: từ Phật Đà và Thánh Francis đến Nietzsche và
Dostoevsky, đôi khi khiến người đọc có cảm giác Hesse đã thử nghiệm cùng một
lúc nhiều triết thuyết khác nhau. Nhưng đây có lẽ là một ý kiến hoàn toàn sai
lầm. Thái độ chân thành và nghiêm túc là nền tảng cho những tác phẩm của ông và
ngay cả những đề tài phóng đạt nhất vẫn nằm trong vòng kiểm soát của ông.
Trong những tác phẩm hay
nhất của Hesse, chúng ta đều bắt gặp gián tiếp hay trực tiếp tính cách của ông.
Văn phong của ông, đáng khâm phục, thật hoàn hảo khi thể hiện sự nổi loạn và
nỗi đam mê lú lẩn của nhân vật cũng như những suy tưởng về triết lý.
Hesse còn là một nhà thơ
muốn phá vỡ những định kiến và không thiếu can đảm thú nhận mình được thừa
hưởng một gia sản phong phú của miền Nam nước Đức, mà ở ông, đó chính là sự pha
trộn khuynh hướng tự do và tinh thần ngoan đạo.
Ông là một nhà văn mà trong
thời đại bi thảm đã thành công trong việc kế tục chủ nghĩa nhân đạo chân chính.
1947 -
ANDRÉ GIDE
(Pháp,
1869 – 1951)
Chân dung tác giả, tranh sơn dầu của Albert Laurens, 1924.
André Gide luôn luôn là một
nhà văn thích tranh luận. Ngay từ lúc khởi đầu sự nghiệp, ông đã tự xác định
mình là người tiên phong gây ra những mối trăn trở tinh thần, tuy nhiên đến giờ
này, điều đó không ngăn cản ông thành một trong những tên tuổi lớn trong làng
văn học Pháp và là người có ảnh hưởng liên tục trong nhiều thế hệ. Những tác
phẩm của ông, bắt đầu xuất hiện trong thập niên 1890 và liên tục cho đến ngày
được trao giải thưởng Nobel Văn chương, đều phác họa một thời kỳ hết sức quan
trọng trong lịch sử đời sống tinh thần của châu Âu, tạo nên một nền tảng sâu
sắc không thể nào quên được đối với cả cuộc đời ông.
Hơn bất cứ nhà văn đương
thời nào, Gide là một con người của những giá trị tương phản, một hải thần
Proteus đúng nghĩa liên tục thay đổi quan điểm của mình, hoạt động không mệt
mỏi ở hai cực đối lập để làm lóe lên
những tia lửa sáng chói.
Đây là lý do để giải thích
tại sao trong tác phẩm của ông đầy những cuộc đối thoại triền miên, trong đó
niềm tin liên tục đấu tranh với sự hoài nghi, chủ nghĩa khổ hạnh chống lại tình
yêu cuộc sống, tính kỷ luật đối lập với nhu cầu tự do. Ngay cả cách sống biểu
hiện bên ngoài của ông cũng năng động và biến dịch. Những chuyến đi nổi tiếng
của ông đến Congo vào năm 1927 và nước Nga Xô-viết năm 1935, còn nhiều nơi khác
nữa, đủ chứng tỏ ông không muốn được coi như một nhà văn chỉ thích sống an lành
trong chốn văn chương quê nhà.
Gide xuất thân từ một gia
đình theo đạo Tin Lành danh giá. Điều này cho phép ông thảnh thơi theo đuổi sự
nghiệp văn chương và có điều kiện thuận lợi hơn, so với những người khác, để
trau dồi nhân cách và phát triễn nội tâm. Mặc dù ông cực lực phản ứng lại nền
giáo dục Thanh giáo mà ông được hấp thụ, nhưng suốt đời ông luôn quan tâm đến
những vấn đề cơ bản về đạo đức và tôn giáo, thỉnh thoảng ông lý giải ở một mức
độ rõ ràng đến bất ngờ về tình yêu Thiên Chúa, đặc biệt trong truyện La
Porte Etroite (1909) [Khung cửa hẹp], tác phẩm này có thể sánh với
những bi kịch của Racin.
Phía sau những thay đổi khác
thường và liên tục qua cách diễn đạt trong các tác phẩm của Gide, tiểu thuyết
cũng như các bài tiểu luận, du ký những bài phân tích các sự kiện đương thời,
chúng ta luôn luôn tìm thấy cũng sự thông minh đầy tinh tế và quan niệm tâm lý
vững chắc đó được thể hiện bằng một ngôn ngữ mà, với phong cách điềm tỉnh nhất,
đã đạt được mức độ hoàn toàn trong sáng mang tính kinh điển và tính chất đa
dạng tinh tế nhất.
Những tác phẩm của Gide có
những trang đầy kích động như một thách
thức thông qua lời tuyên bố hết sức can đảm ít ai sánh kịp. Ông muốn chiến đấu
chống lại những người theo giáo điều, nhưng trong cuộc đấu tranh này, thật khó
tránh làm lay động những tiêu chuẩn khá mong manh của tính cách con người. Điều
đáng ghi nhớ rằng lối ứng xử này là biểu hiện của tình yêu sự thật một cách
cuồng nhiệt, chính biểu hiện này ở hai văn hào Montaigne và Rousseau, đã khiến
họ được xem là chân lý sống của văn học Pháp. Xuyên suốt quá trình sống và sáng
tác, Gide trở thành một người bảo vệ chân chính cho tính liêm sĩ trong văn
chương, đặt nền tảng trên quyền lợi và nghĩa vụ của nhân cách để trình bày mọi
vấn đề một cách quả quyết và trung thực. Từ quan điểm này, những hoạt động đa
dạng và kiên trì của ông, được khơi dậy bằng nhiều cách, là hiện thân cho một
giá trị duy tâm không thể chối cãi được.
Người đoạt giải năm nay đã
chọn một con đường khác. Sự nghiệp của ông đặc biệt ở chỗ, từ một vị trí hoàn
toàn khó hòa nhập và cô lập về ý thức, ông đã dần dần gây ảnh hưởng mạnh mẽ
trong nền văn học thế giới. Lúc khởi đầu chuỗi ý tưởng sáng tạo của ông chỉ là
một vòng tròn nhỏ, nhưng vòng tròn này dần dần mở rộng, ngoài ý định ban đầu
của ông. Vì thế mà trong thơ văn của Eliot có một âm hưởng rất đặc biệt, lôi
cuốn sự chú ý ngay trong thời đại của chúng ta, nó có khả năng xuyên thủng ý
thức hệ của thế hệ chúng ta bằng sự sắc bén của một viên kim cương.
1948 -T.S. ELIOT
(Anh, 1888
– 1965)
Chân dung tác giả - ảnh do Lady Ottoline Morrell (1934)
Trong một bài tiểu luận của
mình, chính Eliot đã đưa ra một giả định hoàn toàn khách quan và dứt khoát mà
các nhà thơ trong thời đại văn minh ngày nay khó có ai đạt được. Ông nói: “Nền
văn minh của chúng bao gồm sự đa dạng và
phức tạp cao độ, sự đa dạng và phức tạp này, đóng vai trò nhạy cảm tinh tế,
phải sản sinh ra những kết quả đa dạng và phức tạp. Nhà thơ phải càng lúc càng
có khả năng lĩnh hội cao hơn, mang tính tượng trưng nhiều hơn, uẩn khúc hơn, để
bắt buộc, để chuyển đổi nếu cần thiết, ngôn ngữ thành những gì mình muốn thể
hiện”.
Eliot lần đầu tiên nổi tiếng
qua tập thơ The Waste Land (1922)
[Miền Đất hoang] nhờ thử nghiệm xuất sắc những tuyên bố nêu trên. Nó đã gây bối
rối cho dư luận ở nhiều phương diện, từ việc ngôn ngữ tượng trưng phức tạp, kỹ
thuật viết như tranh khảm, đến nghệ thuật mang tính tượng trưng uyên bác. Có
thể nhắc lại rằng tác phẩm này đã ra đời cùng năm với một tác phẩm tiên phong
khác, thậm chí vẫn còn gây nhiều tiếng vang hơn trong văn chương hiện đại, đó
là cuốn Ulysses của James Joyce. Sự tương đồng này hoàn toàn không ngẫu
nhiên, vì những tác phẩm văn chương của thập niên 1910 và 1920 hầu như giống
nhau cả về phần hồn lẫn cách bố cục.
Kể từ đó, Eliot tiếp tục
sáng tác một loạt thơ, vẫn hết sức cô đọng như trước, cũng để thể hiện chủ đề
chính đầy trăn trở, tìm kiếm sự cứu rỗi. Bản chất con người hiện đại trong một
thế giới bị trần tục hóa, hỗn loạn, vô nghĩa và thiếu cái đẹp qua những dòng
thơ chân thành đến cay đắng của ông lại hiện lên rõ rệt.
Phần hoàn toàn mang chất thơ
trong các tác phẩm của Eliot chiếm không nhiều về lượng, nhưng phần này nổi bật
trên nền trời thi ca, từ đại dương hiện lên như một đỉnh núi và đương nhiên
vươn cao như một cột mốc, đôi khi kiêu hãnh như những đường nét bí ẩn của một
thánh đường. Đó là loại thơ mang dấu ấn của ý thức trách nhiệm tuyệt đối và
tính kỷ luật tự giác phi thường, tách xa khỏi mọi rập khuôn về cảm xúc, hoàn
toàn tập trung vào những điều cốt lỏi, bộc trực, quả quyết và không hoa hòe,
nhưng thỉnh thoảng lại đột sáng từ khoảng không gian vô hạn của những điều kỳ
diệu và mặc khải.
Nhà của T.S. Eliot, nơi ông sống
và sáng tác từ 1925 đến cuối đời.
và sáng tác từ 1925 đến cuối đời.
Ưu điểm của Eliot là thông
tuệ triết học, chính điều này giúp ông thành công trong việc kết hợp nó với óc
tưởng tượng và học vấn, cả tính nhạy cảm và khả năng phân tích ý tưởng. Ông
cũng có tài khuấy động để xét lại các vấn đề cấp thiết trong phạm vi trí tuệ và
thẩm mỹ, và dù nhận được nhiều ý kiến đánh giá khác nhau, nhưng có một điều
không thể phủ nhận được là trong thời đại của ông, ông là người biết đặt vấn đề
một cách xuất sắc, với một tài năng bậc thầy trong việc chọn ngôn từ diễn đạt,
cả trong thơ lẫn cách bảo vệ ý kiến của
mình trong các hình thức luận.
1949 -
WILLIAM FAULKNER
(Mỹ, 1897 – 1962)
Chân dung nhà văn, 1949.
William Faulkner là nhà văn
sử thi vĩ đại của miền Nam nước Mỹ, qua những tác phẩm của ông, chúng ta thấy
rõ một quá khứ huy hoàng được dựng nên từ sự lao động khổ nhọc nhưng rẻ mạt của
người nô lệ Da đen. Một cuộc nội chiến và một lần chiến bại đã phá vỡ nền tảng
kinh tế thiết yếu cho cấu trúc xã hội đang tồn tại lúc đó. Miền Nam đã trải qua
một thời kỳ oán hận nặng nề kéo dài, và cuối cùng là một tương lai công nghiệp
và thương mại mà cuộc sống cơ khí hóa và chuẩn mực hóa còn xa lạ và thù địch
với họ. Chính Faulkner cũng dần dần mới
có thiện ý thích nghi với lối sống đó. Những tác phẩm của ông không ngừng mô tả
và đào sâu quá trình đau đớn này, một quá trình mà ông thấu hiểu và cảm nhận
một cách sâu sắc, cũng có nguồn gốc giống như ông là từ một gia đình bị buộc phải
nuốt những trái đắng thất bại cho đến phần hạt: sự bần cùng hóa, mục ruỗng,
thoái hóa ở nhiều hình thức khác nhau. Ông đã từng được xem là kẻ phản động.
Tuy nhiên, bản thân từ này ở một mức độ nào đó cũng hợp lý, nó được cân xứng
bởi cảm giác tội lỗi ngày càng rõ ràng và đắt giá hơn trên một kết cấu mơ hồ mà
ở đó, ông đã lao động không mệt mỏi. Cái giá phải trả cho lòng quân tử, hào
hiệp, lòng can đảm và chủ nghĩa cá nhân
tuyệt đối thật là kinh khủng. Nói tóm lại, trong vai trò một nhà văn, ông than
khóc tiếc thương và cường điệu lối sống mà bản thân ông, với ý thức công bằng
và nhân đạo, cũng sẽ không bao giờ đạt được. Chính điều này đã khiến khuynh
hướng địa phương trong văn học của ông mang tính phổ quát cao.
Hầu như trong mỗi tác phẩm,
Faulkner đều có những bước thâm nhập sâu hơn vào thế giới tâm linh, sự vĩ đại
của con người và năng lực xả thân vì mọi người, lòng khát khao quyền lực, tính
tham lam, sự nghèo nàn về tinh thần, óc hẹp hòi, tính bướng bỉnh, nỗi thống
khổ, khiếp sợ và những lầm lạc suy đồi. Là người thích nghiên cứu tâm lý, ông
được xem là bậc thầy trong số tất cả những tiểu thuyết gia Anh, Mỹ đương thời.
Khả năng tưởng tượng và xây dựng nhân vật tuyệt vời của ông cũng vượt qua các
đồng nghiệp. Những nhân vật nửa-người-nửa-thú và siêu nhân, có cách sống khác
thường dù bi hay hài, đều từ tâm trí ông hiện ra với một mức độ chính xác mà
rất ít những con người bằng xương bằng thịt – ngay cả những người thân cận với
chúng ta nhất – có thể có được, và họ đã có mặt trong một bối cảnh đầy hương thơm
của các loài thực vật vùng cận nhiệt đới, mùi nước hoa của quí bà, mùi mồ hôi
mặn chát của người Da đen và mùi hăng hắc của những chú ngựa và lạc đà, thâm
nhập trực tiếp vào cả túp lều tồi tàn ấm cúng của một người dân vùng
Scandinavia. Như một họa sĩ phong cảnh,
ông có kiến thức tinh tường của người thợ săn về khu vực săn bắn của riêng
mình, độ chính xác của người vẽ địa hình và tính nhạy cảm của một họa sĩ ấn
tượng.
Chiếc máy đánh chữ xách tay của William Faulkner.
Hơn thế nữa – có thể sánh bằng hoặc hơn văn hào James Joyce – Faulkner
là người theo chủ nghĩa thực nghiệm vĩ đại trong số những nhà văn thế kỷ 20.
Hầu như không có sự trùng lập về kỹ thuật nào giữa hai tác phẩm của ông. Dường
như bằng sự đổi mới liên tục này, ông muốn đạt đến một bề rộng ngày càng tăng
mà thế giới hạn hữu của ông, cả về mặt địa lý lẫn đề tài, không thể mang lại
cho ông. Cũng chính niềm khao khát thử nghiệm đó, được thể hiện qua trình độ
tinh thông của ông về sự phong phú của tiếng Anh, mà không tiểu thuyết gia Anh
hay Mỹ nào có được, một sự phong phú bắt nguồn từ những yếu tố ngôn ngữ khác
nhau và những thay đổi thường xuyên trong văn phong – từ tinh thần của một nhà
văn thuộc thời đại Elizabeth xuống đến vốn từ vựng nghèo nàn nhưng giàu tính
biểu cảm của người Da đen miền Nam nước Mỹ. Chưa có ai kể từ nhà văn Anh Geoge
Meredith (1828 – 1909) – có lẽ ngoại trừ James Joyce – thành công như ông khi
viết những câu văn dài triền miên và
mạnh bạo như những làn sóng cuồn cuồn của Đại Tây dương. Đồng thời cũng rất ít
nhà văn cùng thế hệ với ông vượt qua được ông khi đặt một chuỗi sự kiện trong
một loạt câu ngắn, mỗi câu như một nhát búa đập lút cây đinh vào miếng ván và
bất di bất dịch tại đó. Khả năng vận dụng ngôn ngữ hoàn hảo của ông có thể – và
thường xuyên – giúp ông liên kết từng chuỗi từ ngữ nhằm thách thức lòng kiên
nhẫn của người đọc trong một cốt truyện phức tạp và hứng thú. Tuy nhiên khối
lượng chữ nghĩa này hoàn toàn không liên quan đến thứ văn chương lòe loẹt. Điều
này cũng không chỉ chứng tỏ sức tưởng tượng vô cùng nhạy bén của ông, mà trong
cách sử dụng vốn từ phong phú, mỗi từ bổ nghĩa mới, mỗi từ liên kết mới đều
nhằm đào sâu vào hiện thực mà khả năng tưởng tượng của ông gợi lên.
1950 –
BERTRAND RUSSELL
(Anh,
1872 – 1970)
Chân dung tác giả.
Với trí tuệ hơn người,
trong suốt nửa thế kỷ qua, Bertrand
Russell luôn là trung tâm của những cuộc tranh luận công khai, đầy cảnh giác và
luôn sẵn sàng chiến đấu, hoạt động không
ngừng cho đến ngày trọng đại này, ông đã để lại sau lưng một sự nghiệp viết
lách tầm cỡ. Các tác phẩm của ông trong các ngành khoa học liên quan đến tri
thức nhân loại và logic toán học đều mở ra một kỷ nguyên mới, và có thể so sánh
với những thành quả cơ bản trong ngành
cơ học của Newton. Tuy nhiên, giải Nobel không chỉ dành để công nhận những thành tựu trong những ngành
khoa học đặc biệt. Điều quan trọng là, theo quan điển của chúng tôi (Viện Hàn
lâm Thụy Điển), Russell đã dành phần lớn các tác phẩm của ông viết cho công
chúng có trình độ học vấn bình thường, và, bằng cách đó, ông đã thành công vượt
bậc trong việc nuôi dưỡng sự quan tâm của công chúng với nền triết học tổng
quát.
Toàn bộ tác phẩm của ông là
sự bảo vệ đầy thú vị tính xác thực của lương tri. Trong vai trò một triết gia,
ông kế tục chủ nghĩa kinh nghiệm cổ điển của Anh, theo bước chân của Locke và
Hume. Thái độ của ông đối với hệ thống lý thuyết của chủ nghĩa duy tâm là hoàn
toàn độc lập và khá thường xuyên ở vị trí đối lập. Những hệ thống triết học vĩ
đại đã phát triễn ở châu Âu được ông xem xét từ quan điểm lạnh lùng, nếu cần
thì xáo tung lên, và có cái nhìn rạch ròi để phân biệt. Với tri giác nhạy bén,
văn phong trong sáng, tính dí dỏm lồng vào sự nghiêm túc, ông đã thể hiện chúng
trong tác phẩm của mình, điều mà chỉ có những nhà văn tài hoa mới dụng công
được.
Hầu hết các tác phẩm của
Russell đều gây nên sự chống đối. Không giống như những triết gia khác, ông xem
chuyện này như một nghĩa vụ cấp bách và tự nhiên của một tác giả. Tất nhiên,
chủ nghĩa duy lý của ông không giải quyết tất cả những vấn đề rắc rối và cũng
không thể sử dụng như một thần dược, ngay cả khi triết gia sẵn lòng viết đơn
thuốc. Một điều không may là, hiện có – và chắc chắn sẽ luôn luôn có - những thế lực vô hình vượt quá sự phân tích
của trí óc và từ chối việc bị kiểm soát. Như vậy, ngay cả khi tác phẩm của
Russell, từ một quan điểm thuần túy thực tế, đạt được chút ít thành công ở độ
tuổi đã chứng kiến hai cuộc thế chiến – cho dù phần lớn tác phẩm của ông cho
thấy tư tưởng của ông bị chối bỏ một cách cay đắng – chúng ta vẫn phải khâm
phục lòng dũng cảm kiên định của người dám nói lên sự thật đầy tính phản kháng
này, và một thứ sức mạnh mãnh liệt, lạnh lùng cùng vẻ tự tin sảng khoái trong
cách ông bày tỏ những quan điểm của mình - những quan điểm không bao giờ bị bức
chế bởi chủ nghĩa cơ hội, nhưng thường xuyên gây phản ứng trực tiếp.
Tượng bán thân của Bertrand Russell
đặt trong công viên Red lion square.
Nói tóm lại, triết lý của
Russell có thể được hiểu đúng đắn nhất là đã thực hiện được những mong muốn và
ý nguyện của Alfred Nobel khi ông lập ra giải thưởng này. Có những điểm rất
tương đồng về cách nhìn cuộc sống giữa hai người. Cả hai đồng thời vừa theo chủ
nghĩa hoài nghi và không tưởng, cả hai đều có cái nhìn bi quan về thế giới
đương thời, tuy nhiên cả hai đều trung thành với niềm tin vào khả năng đạt đến
những chuẩn mực hợp lý đối với hành vi con người. Viện Hàn lâm Thụy Điển tin
rằng vào dịp kỷ niệm lần thứ 50 Giải Nobel, một hành động theo đúng tinh thần ý
nguyện của Nobel là tôn vinh Bertrand Russell như một trong những người phát
ngôn xuất sắc về tính hợp lý và nhân văn, như
một chiến sĩ can trường của khuynh hướng tự do ngôn luận và tự do tư
tưởng ở phương Tây.
1951 – PAR
LAGERKVIST
(Thụy Điển, 1891 – 1974)
Chân dung tác giả.
Lagerkvist thuộc hàng ngũ
những nhà văn đã cống hiến đời mình, một cách dũng cảm và trực tiếp, cho những
vấn đề nhân đạo. Nhà văn không hề mệt mỏi quay lại những vấn đề cơ bản về sự
tồn tại của chúng ta, những điều mà chúng ta không thể chống lại được và đem
đến những phiền muộn. Thời đại ông sống, mà chất liệu cuộc sống quyết định nghề
nghiệp của ông, bị đe dọa bởi những đám mây ùn ùn kéo đến và bởi sự bùng nổ của
những thảm họa. Chính trong bối cảnh u ám và hỗn loạn đó, ông bắt đầu chiến
đấu. Chính trong đất nước không có ánh sáng mặt trời đó ông đã khám phá ra ngọn
lửa của nguồn cảm hứng.
Lagerkvist, với thiên hướng
tiên đoán nhạy bén, đã biết trước tai họa sẽ xảy đến sớm đến mức người ta có
thể xem ông là nhà tiên tri của những nỗi thống khổ trong văn học Bắc Âu; nhưng
ông cũng là người lính gác có trách nhiệm nhất cho ngọn lửa thiêng về tinh thần
luôn có nguy cơ bị dập tắt trong giông bão.
Một trong những chuyên gia
nước ngoài, người mà vào dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Giải Nobel Văn chương, đã
phê phán những người được trao giải, đã đưa ra hai điều kiện làm tiêu chí mà
theo ông ta thì không thể thiếu được: thứ nhất là giá trị nghệ thuật của tác
phẩm, thứ hai là tác phẩm phải nổi tiếng thế giới. Về điều kiện sau, có thể có
ý kiến phản bác rằng những người viết văn bằng một ngôn ngữ không phổ biến sẽ
phải chịu một bất lợi lớn. Trong bất cứ trường hợp nào, việc một nhà văn Bắc Âu
có thể tạo thanh danh với công chúng thế giới là điều cực kỳ hiếm, và, do đó,
đối với những ứng cử viên này, việc đưa ra phán xét công bằng là một vấn đề đặc
biệt tế nhị. Tuy nhiên, bản di chúc của Nobel đã chỉ rõ rằng các giải thưởng
phải được trao mà không cần xét đến quốc tịch. Điều này cũng có nghĩa là nếu
một nhà văn tỏ ra xứng đáng với Giải Nobel, thực tế là nhà văn đó người Thụy
Điển chẳng hạn, sẽ không ngăn được ông ta đoạt giải.
Đối với Lagerkvist, chúng ta
cần xem xét một yếu tố khác mà theo chúng tôi là rất đúng: tác phẩm mới nhất
của ông đã gây được nhiều sự đồng cảm và kính trọng bên ngoài biên giới của
chúng ta. Điều này càng được củng cố hơn bởi những lời tiến cử khẳng định vị
trí ứng cử của Lagerkvist phần lớn thuộc những cố vấn người nước ngoài. Giải
thưởng mà ông nhận được không chỉ gói gọn trong phạm vi đề cử của Viện Hàn lâm.
Việc thể hiện mối thương tâm những xung đột nội tâm của những tội nhân mà người
Do Thái yêu cầu phóng thích để thế chỗ Chúa Jésus đã tạo được những ảnh hưởng
như vậy ngay trong ngôn ngữ nước ngoài, rõ ràng cho chúng ta thấy nguồn cảm
hứng dạt dào trong tác phẩm của ông. Điều này càng có giá trị hơn nhờ văn phong
độc đáo, và ở một phương diện nào đó, không thể lột tả hết khi được dịch ra
tiếng nước ngoài. Quả đúng như vậy, với thứ ngôn ngữ vừa khô khốc vừa nhạy cảm
này, những người đồng hương của ông có thể nghe thấy tiếng vọng của những khúc
dân ca dội lại dưới bầu trời đầy sao của những truyền thuyết trong Kinh Thánh.
Điều này, một lần nữa, gợi nhắc cho chúng ta rằng bản sắc riêng của từng vùng,
đôi khi có thể được chuyển đổi thành một điều gì đó mang tính phổ quát và gần
gũi với tất cả mọi người.
Trên mỗi trang sách của
Lagerkvist đều là những ngôn từ và ý tưởng mà, với sự nhẹ nhàng sâu sắc và đáng
sợ, lại chứa đựng tận cốt lõi sự thuần khiết của chúng một thông điệp đáng kinh
sợ. Những ngôn từ và ý tưởng xuất phát từ cuộc sống mộc mạc, bình dị, cần cù và
dè sẻn từng chữ một. Tuy nhiên, tất cả những tố chất đó, dưới tay của một nhà
văn bậc thầy, đã được dành để phục vụ cho những ý đồ khác, cho những mục đích
cao cả hơn, chúng được nâng lên tầm cao nghệ thuật cách lý giải về thời đại,
thế giới và tình trạng vĩnh cữu của con người.
Tượng của Winston Churchill
trong Parliament Square.
1953 – SIR
WINSTON CHURCHILL
(Anh, 1874 – 1965)
Chấn dung tác giả.
Sự thành công của Churchill
trong cả lãnh vực chính trị lẫn văn chương khiến người ta muốn nói đến ông như
một Caesar, người cũng được ban cho ngòi bút của Cicero. Trong lịch sử từ trước
đến nay chưa một nhân vật đứng đầu nhà nước nào gần gũi với chúng ta vì một sự
kết hợp xuất sắc như thế. Trong tác phẩm quan trọng nói về tổ phụ của mình,
Churchill viết: ”Ngôn từ thì dễ và nhiều, trong khi hành động vĩ đại thì khó và
hiếm”. Vâng, đúng vậy, nhưng những ngôn từ hay, sống động và thuyết phục cũng
khó và hiếm. Và Churchill đã chứng tỏ rằng những ngôn từ cũng mang tính cách
của những hành động vĩ đại.
Có lẽ chính khía cạnh sống
động và đầy màu sắc trong văn phong của Churchill đã gây ấn tượng trước tiên
cho người đọc. Là một họa sĩ ngôn từ, ông không chỉ có độ cảm hứng mà có cả độ
nhạy bén về thị giác. Sau này, ông vẽ tranh như một sở thích riêng. Trong tác
phẩm Tư tưởng và Những cuộc phiêu lưu [Thoughts and Adventures] (1932)
ông đàm luận một cách lôi cuốn về niềm vui hội họa mang đến cho ông. Ông yêu những
màu sắc rực rỡ và tội nghiệp cho những màu nâu nghèo nàn. Tuy nhiên, Churchill
đã có những tác phẩm hội họa bằng ngôn từ hay hơn nhiều. Ông phác họa những
cảnh chiến trường bằng một nghệ thuật pha màu không ai sánh được. Ngay cả những
cuộc chiến xa xưa nhất từ trong những tập hồ sơ phủ đầy bụi cũng được Churchill
miêu tả sống động một cách đáng nể. Trong các tác phẩm lịch sử của ông, các yếu
tố cá nhân và sự kiện đan quyện lẫn nhau. Ông hiểu rõ những gì mình viết. Ông
có kinh nghiệm sâu sắc trong việc đánh giá sức thuyết phục của các sự kiện.
Chính ông là người đã trải qua khói lửa, những hiểm nguy và những áp lực cùng
cực. Điều này đã tạo cho lời văn của ông có sức mạnh làm rung động lòng người.
Churchill cảm thấy tiếc vì
đã không thể theo học ở đại học Oxford. Ông phải dành thời gian rảnh của mình
để tự học. Tuy nhiên, hoàn toàn không có khoảng cách học vấn nào đáng kể trong
cách hành văn thuần thục của ông. Chẳng hạn cuốn Những người cùng thời vĩ
đại [Great Contemporaries] (1937), một trong những tác phẩm hấp dẫn nhất của
ông cho chúng ta thấy điều đó. Có nhiều ý kiến cho rằng văn phong của ông chịu
ảnh hưởng của những nhà văn Gibbon, Burk và Macaulay, nhưng xét về phương diện
này thì đó mới thật sự là của chính ông. Ở văn của ông, người đọc cảm nhận sâu
sắc những cảm xúc tinh tế, sự phong phú của kiến thức, phong cách phóng khoáng
và vẻ thâm thúy một cách hài hước – tất cả góp phần hình thành một phòng tranh
chân dung sống động!
Bản thân Churchill là một
nhà văn chú trọng văn phong, mặc dù mang phong cách một hiệp sĩ đầy nhuệ khí,
ông cũng không theo khuynh hướng hoa hòe hoa sói trong nghệ thuật. Ông diễn đạt
sự việc đúng bản chất của nó, không quen lối nói lòng vòng. Niềm đam mê của ông
là chủ nghĩa hiện thực. Sức thuyết phục của ông được dung hòa bởi tư tưởng
phóng khoáng và óc hài hước. Ông hiểu rằng một câu chuyện hay là chính bản thân
nó nói lên điều đó. Ông coi thường những gì cầu kỳ không cần thiết và hiếm khi
ông sử dụng phép ẩn dụ, nhưng văn ông thì rất biểu cảm.
Tượng của Winston Churchill
trong Parliament Square.
Ngoài một Churchill là nhà
văn còn có một Churchill là nhà hùng biện – thể hiện qua sự linh động và tính
châm chích trong cách diễn đạt của ông. Chúng ta thường biểu lộ tính cách của
mình một cách vô tư qua những lời ngợi khen dành cho người khác. Chẳng hạn như
Churchill khi nói về người bạn của mình, huân tước Birkenhead: “Khi ông ta hâm
nóng đề tài của mình, nó toát lên sức nóng của niềm tin và tính cách, bản năng
và sự khôi hài, từ đó tạo nên sức thuyết phục thật sự”. Nhận xét này có lẽ càng
mang tính xác thực hơn khi được dành để nói về chính Churchill.
1954 –
ERNEST HEMINGWAY
(Mỹ, 1899 – 1961)
Chân dung tác giả.
Trong thời hiện đại của
chúng ta, các nhà văn Mỹ ngày càng tạo nên dấu ấn riêng sâu đậm trên bình diện
chung của nền văn chương thế giới. Một trong những người tiên phong đó là nhà
văn hiện đang là tâm điểm của sự chú ý. Hầu như không có gì là phóng đại khi
nói rằng Ernest Hemingway, hơn bất cứ đồng nghiệp người Mỹ nào của ông, gây cho
chúng ta cảm giác rằng chúng ta phải đương đầu với một quốc gia còn non trẻ
đang tìm kiếm và đã thấy hình thức diễn đạt chính xác của họ trong văn học. Một
nhịp văn đầy ấn tượng và những đường cong sắc nét đã tạo nên đặc trưng của
riêng Hemingway, mà ở nhiều phương diện không giống một nhà văn tầm tầm nào.
Với ông, sinh lực cuộc sống phát triễn theo cách riêng của nó, tách biệt khỏi
chủ nghĩa bi quan và sự vỡ mộng trong cuộc sống – những khuynh hướng rất phổ
biến trong thời đại chúng ta. Hemingway hình thành phong cách riêng của ông từ
thời kỳ theo học trường đào tạo phóng viên. Khi làm việc ở tòa soạn báo Kansas
City với tư cách là phóng viên tập sự, ông đã học được phương châm đầu tiên
trong lý thuyết dành cho nhà báo: “Hãy viết câu văn ngắn. Hãy viết đoạn văn
ngắn”. Quá trình luyện tập kỹ thuật viết của Hemingway, rõ ràng đã tạo cho ông
sức mạnh phi thường về tính kỹ luật tự giác trong nghệ thuật.
Ernest và Mary Hemingway ở Kenya, 1953-54
Khi đề cập đến những yếu tố
căn bản trong các tác phẩm của ông, chúng ta không nên quên rằng tài kể chuyện
của ông luôn luôn đạt đến đỉnh cao nhất, khi nó được lồng vào những truyện ngắn
đầy súc tích, được tỉa gọt một cách sáng suốt, một thể loại văn học mà, bằng sự
kết hợp độc đáo giữa tính giản dị và chính xác, đã đóng đinh chủ đề của nó vào
nhận thức của chúng ta, và mỗi nhát búa đều nói lên một điều gì đó. Tuyệt tác
theo dạng thức này, vượt lên trên bất cứ tác phẩm nào khác của ông, là Ông
già và Biển cả [The Old Man and the Sea] (1952), một câu chuyện khó quên về
cuộc chiến đấu tay đôi giữa ông lão đánh cá người Cuba và con cá kiếm ngoài
khơi Đại Tây dương. Trong khuôn khổ một câu chuyện, viễn cảnh đáng thương tâm
về số phận con người được mở ra. Câu chuyện ngợi ca tinh thần chiến đấu, không
khoan nhượng ngay cả khi cái được về vật chất chỉ là con số không, một lời tôn
vinh chiến thắng tinh thần trong chiến bại. Bi kịch đó diễn ra trước mắt chúng
ta, từng giờ một, chấp nhận những chi tiết thiết thực của cuộc sống để làm giàu
và gánh vác ý nghĩa trọng yếu của nó như trong tác phẩm ông đã viết: “Con người
có thể bị hủy diệt nhưng không thể thất bại”.
Tượng E. Hemingway ở Cuba
của nhà điêu khắc José Villa Soberón.
Có lẽ đúng là các tác phẩm
đầu tay của Hemingway phô bày những khía cạnh tàn nhẫn, hoài nghi và lạnh lùng,
điều này được xem là khó đáp ứng yêu cầu chuẩn mực của Giải Nobel. Tuy nhiên,
bên cạnh đó ông cũng thể hiện chất bi tráng, một yếu tố cơ bản trong nhận thức
về cuộc đời của ông, sự yêu thích nguy hiểm và phiêu lưu đầy nam tính với lòng
ngưỡng mộ tất yếu dành cho bất kỳ ai chiến đấu vì chính nghĩa trong một thế
giới hiện thực bị bạo lực và cái chết che mờ. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, đây
là mặt tích cực về việc tôn thờ nam tính của ông, nếu không, thay vào đó có thể
là xu hướng yếu đuối, thích biểu lộ tình cảm – một trở ngại để chủ thể đạt được
mục tiêu cuối cùng của mình. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng lòng can đảm là
chủ đề trung tâm của Hemingway – nó mang phong cách của một người chịu nhiều
thử thách và đã tôi luyện chính mình để có thể thích nghi với những khắc nghiệt
dễ chán nản của cuộc sống, mà nếu đối phó với chúng bằng một thái độ tránh né
sẽ bỏ lỡ những thời khắc tuyệt vời và hào sảng.
1955 –
HALLDÓR LAXNESS
(Iceland,
1902 – 1998)
Chân dung tác giả - Tranh của Einar Hakonarson, 1984.
Iceland là chiếc nôi của
nghệ thuật kể chuyện ở Bắc Âu. Thể loại saga từ trước đến nay luôn luôn giữ một vị trí
xứng đáng nhất trong nền văn học ở xứ sở này. Đối với người Iceland, saga
là nguồn an ủi và sức mạnh giúp họ vượt qua hàng bao thế kỷ tối tăm, sống trong
cảnh nghèo đói và gian khổ. Hôm nay, đất nước Iceland được biết đến như một
quốc gia xuất sắc về văn chương, bên cạnh hai lãnh vực dân số và tài
nguyên.
Trong thời đại chúng ta,
điều cần thiết là phải có một năng lực vô tận để khôi phục nghệ thuật kể chuyện
có truyền thống lâu đời như vậy. Trong cuốn sách mà Halldór Laxness viết về nhà
thơ nông dân Olafur Ljusvokongur, ông đặc biệt quan tâm đến những vấn đề và sứ
mệnh của thi ca, thể hiện qua lời phát biểu của một nhân vật: “Bài thơ hay là
bài thơ làm rung động lòng người. Đó là tiêu chuẩn duy nhất”. Tuy nhiên, để đi
đến trái tim con người, chỉ có khả năng văn chương, dù lớn lao đến đâu, cũng
không đủ, kể cả khả năng mô tả và khai thác các sự kiện. Nếu văn chương không
phải là “ánh sáng của thế giới”, thì nó phải là một bức tranh chân thật về cuộc
sống con người. Mục tiêu đó như một sợi chỉ xuyên suốt qua tất cả những gì mà
Laxness đã viết. Và với khả năng cảm nhận cực kỳ tinh tế những điều cụ thể của
cuộc sống con người, cùng với tài kể chuyện thiên phú, ông đã đạt đến vị trí là
nhà văn vĩ đại nhất của đồng bào ông trong thời đại ngày nay.
Halldór Laxness đã không đạt
đến sự cân bằng nghệ thuật mãi cho đến cuối những năm 1920, khi ông quay về
Iceland và nhận ra sứ mệnh của mình là nhà thơ kể chuyện của nhân dân Iceland.
Ông là một họa sĩ vẽ cảnh
vật Iceland xuất chúng. Tuy nhiên, ông không xem đó là sứ mệnh chính yếu trong
sự nghiệp của mình. Nghệ thuật phải được nuôi dưỡng bằng sự cảm thông và tình
yêu nhân loại, nếu không nghệ thuật sẽ vô giá trị. Bởi thế mà thơ văn của Laxness
luôn thiết tha thể hiện mối quan tâm của xã hội. Những vấn đề xã hội và chính
trị đương thời ngự trị trong các tác phẩm của ông, lớn đến mức có nguy cơ lấn
áp khía cạnh nghệ thuật. Bù lại, tính cách hài hước giúp ông nhìn nhận ngay cả
những người đáng ghét nhất với một thái độ bao dung, và nó cũng cho phép ông đi
sâu hơn vào tâm hồn con người.
Halldór Laxness giữ vai trò
đầu đàn trong việc đưa khuynh hướng phát triễn văn học trở về với nền tảng phổ
quát và truyền thống. Đây là thành công lớn nhất của ông. Văn phong của ông
sinh động và độc đáo, thanh thoát và tự nhiên, gây ấn tượng mạnh cho người đọc
nhằm đạt được mục đích của ông một cách linh hoạt và sâu sắc.
Một điều nữa cần nhấn mạnh
nhằm đánh giá đúng vai trò của Laxness. Có một thời những nhà văn Iceland đã
chọn một thứ ngôn ngữ khác của vùng Scandiavia để sáng tác, không phải chỉ vì
lý do kinh tế, mà vì có lúc họ đã mất hết hy vọng dùng ngôn ngữ Iceland như một
công cụ để sáng tác. Halldór Laxness, trong lãnh vực văn xuôi, đã biến ngôn ngữ
Iceland thành một phương tiện diễn đạt nghệ thuật cho nội dung hiện đại, và
bằng tấm gương của chính mình, ông đã tạo cho các nhà văn Iceland lòng can đảm
sử dụng tiếng mẹ đẻ. Nói chung, về phương diện này đã tạo cho ông một ý nghĩa
lớn lao nhất, mang lại cho ông một vị trí chắc chắn và được kính nể ngay tại
quê hương mình.
Chúng ta thường nhắc đến
thời kỳ hồng, thời kỳ xanh của Picasso. Các nhà văn học sử cũng quan tâm đến
những gam màu khác nhau ngự trị trong các tác phẩm của Jiménez. Thời kỳ đầu là
vàng và xanh, tiếp theo là trắng. Sự trần trụi của màu trắng đã biểu thị đặc
điểm của thời kỳ rực rỡ và dứt khoát, đánh dấu một phong cách thơ khác của Juan
Ramón. Ở thời kỳ này, chúng ta chứng kiến một giai đoạn dài sung sức của một
nhà thơ đang tỏa sáng. Bên cạnh đó, là những bức tranh buồn man mác và xa hơn
là những đề tài mang tính giai thoại. Những bài thơ chỉ lý giải về thơ ca và
tình yêu, về phong cảnh và biển gắn liền với thơ ca và tình yêu. Một chủ nghĩa
khổ hạnh về hình thức hướng đến sự hoàn thiện, loại bỏ mọi trang sức bên ngoài
của thơ, sẽ là con đường dẫn đến sự giản dị – một hình thức nghệ thuật tuyệt
đỉnh – loại thơ mà nhà thơ gọi là trần trụi.
1956 – JUAN
RAMÓN JIMÉNEZ
(Tây Ban Nha 1881 – 1958)
Chân dung nhà thơ do Joaquin Sorolla vẽ.
Giải Nobel văn học năm nay
được trao cho một người dành trọn đời hiến mình cho thi ca và cái đẹp. Ông là
Juan R. Jiménez, một người thợ làm vườn cao tuổi đã dành nửa thế kỷ cho sự
nghiệp sáng tạo một loại hoa hồng mới, một loại hồng trắng huyền diệu rồi đây
sẽ được mang tên ông.
Thơ của ông không phải là
thứ rượu mạnh làm say lòng người và tác phẩm của ông không phải là ngôi thánh đường
Hồi giáo nguy nga biến thành một giáo đường Thiên Chúa giáo. Thơ ông khiến
người đọc nghĩ đến một khu vườn như đã nói, được bao bọc bởi những bức tường
cao quét vôi trắng, qua đó hiện lên một phong cảnh xinh tươi đầy ấn tượng. Ông
như một người đi ngang qua đuồng, dừng lại giây lát và bước vào với chiếc máy
quay phim mà không sợ bị cảm giác đánh lừa. Không có gì khác thường hay ngoạn
mục ở đây cả, chỉ là những thứ bình thường: những cành cây ăn trái đong đưa khi
gió thoảng qua, mặt ao phản chiếu ánh mặt trời ban ngày và ánh trăng ban đêm,
chim muông ca hót. Không có ngọn tháp nhỏ nào được thay hình đổi dạng thành một
tháp ngà trong khu vườn màu mỡ, đâm hoa kết trái từ nền văn hóa Ả rập này cả.
Thế nhưng, vị khách ấy đã nán lại và đã thấy được rằng cảnh thụ động bên trong
bờ tường chỉ là cảm nhận ban đầu, rằng sự cô lập này chỉ là hình thức và nhất
thời của những gì có vẻ như là thực tại. Ông không hề bỏ phí thời gian để quan
sát đóa hồng có một vẻ đẹp lộng lẫy, mà muốn cảm nhận được vẻ đẹp này, đòi hỏi phải
có một trực giác nhạy bén và khác thường. Có những vẻ đẹp làm cho cảm giác
người xem thích thú nhiều hơn. Trước du khách, người làm vườn thầm lặng bất ngờ xuất hiện như một đạo diễn nghiêm
khắc của tâm hồn. Ở lối vào khu vườn của nhà thơ Juan R. Jiménez, du khách phải
có cách cảm nhận như khi bước chân vào ngôi thánh đường Hồi giáo: tháo giày, rửa
tay và súc miệng ở vòi nuớc rửa tội.
sống trong các năm
1929 - 1936.
Jiménez không phải là nhà
sáng tạo thích phô trương để tự giới thiệu mình trên sân khấu tràn ngập ánh
đèn. Thơ ca của ông, dè dặt nhưng thân thiết, xuất phát từ nơi sâu kín của tâm
hồn, nói về mặt trăng và nỗi buồn man mác bằng những vọng âm của Schumann và
Chopin.
Quá trình phát triển “phong
cách thứ hai” của Juan R. Jiménez đạt đến đỉnh cao trong tác phẩm Nhật ký
của một nhà thơ mới kết hôn [Diario de un poeta recion casado] (1917). Dần
dần thơ ông càng lúc càng cô đọng, trần trụi và trong suốt. Chúng chính là
những phương châm và cách ngôn của những tác phẩm thơ thần bí của ông.
Tượng Juan Ramón Jimenez ở Moguer.
Tượng Juan Ramón Jimenez ở Moguer.
Một nhà báo Thụy Điển khi
được biết giải Nobel văn học năm nay trao cho Juan Ramón Jiménez đã phát biểu:
“Ông là một nhà thơ bẩm sinh với phẩm chất giản dị và thuần khiết như tia nắng
mặt trời, cống hiến hết mình cho sự thuần thiết và giản dị, không ý thức về
thiên khiếu của mình. Chúng ta không biết một nhà thơ như vậy chào đời lúc nào.
Chúng ta chỉ biết rằng một ngày nào đó chúng ta phát hiện ra họ, nhìn thấy và
nghe thấy họ cũng giống như trông thấy một đóa hoa thảo mộc. Chúng ta gọi đó là
điều kỳ diệu”.
Văn học Pháp không còn là mối liên hệ về mặt địa lý
với phạm vi lãnh thổ của nước Pháp ở châu Âu nữa. Xét nhiều khía cạnh nó làm ta
nhớ đến một loại cây cảnh quý phái và không thể thay thế, mà khi được vun trồng
xa xứ vẫn giữ được đặc điểm riêng, mặc dù truyền thống và sự biến đổi đa dạng
luân phiên nhau gây ảnh hưởng. Albert Camus, là một minh chứng cho tiến trình
này.
Điều đáng đề cập là các tác phẩm trong đó, bằng việc sử dụng một phong cách nghệ thuật cổ điển hoàn toàn thuần khiết cùng với sự tập trung cao độ, ông ta đã thể hiện những vấn đề này theo cách để bản thân các nhân vật và sự kiện làm cho ý tưởng của ông trở nên sống động trước mắt chúng ta, mà không cần lời diễn giải. Đó là những gì làm cho tác phẩm Kẻ xa lạ [L’étranger] (1942) trở nên nổi tiếng. Nhân vật chính là nhân viên ở một cơ quan chính quyền giết một người Ả-rập sau một chuỗi các sự kiện ngớ ngẩn; rồi sau đó, dửng dưng với số phận, anh ta nghe chính mình bị tuyên án tử hình. Tuy nhiên, vào giây phút cuối, anh ta tỉnh trí lại và thoát khỏi tình trạng thụ động gần như là mê muội. Trong tác phẩm Dịch hạch [La Peste] (1947), cuốn tiểu thuyết mang tính tượng trưng có tầm vóc lớn hơn, những nhân vật chính là bác sĩ Raux và trợ lý của ông ta, những người chiến đấu dũng cảm chống lại dịch bệnh tấn công vào các tỉnh thành phía bắc châu Phi. Bằng lời văn trầm tĩnh và hoàn toàn khách quan, câu chuyện hiện thực đầy tính thuyết phục nầy phản ánh những diễn biến cuộc sống trong suốt cuộc chiến đấu, và Camus ca ngợi một sự vùng lên mà chính tai họa đang hoành hành, đã khơi dậy từ trong trái tim của một con người rất mực cam chịu và không còn niềm tin.
1957 –
ALBERT CAMUS
(Pháp, 1913 – 1960)
Chân dung nhà văn
Với một nguồn gốc gần như vô sản, Camus nhận thấy cần
phải đương đầu với cuộc sống bằng chính khả năng của mình; là một sinh viên lâm
vào cảnh nghèo khó, ông đã làm đủ loại công việc để tự trang trải chi phí. Đó
là một quá trình học hành thật gian khổ nhưng, với những điều được học rất đa
dạng, lại là một quá trình chắc chắn không vô ích đối với người sẽ trở thành
một nhà văn hiện thực như ông. Những tác phẩm đầu tiên của ông được nhà xuất
bản địa phương ở Algeria ấn hành, nhưng vào năm 25 tuổi ông đã đến nước Pháp
với tư cách là một nhà báo, và chẳng bao lâu ông trở nên nổi tiếng ở chính quốc
Pháp như là một tác giả hàng đầu. Sự kiện này đã sớm lắng xuống bởi bầu không
khí nóng bỏng và khắc nghiệt của những năm chiến tranh.
Ngay
cả trong những tác phẩm đầu tiên, Camus đã bộc lộ một quan điểm duy thần nảy
sinh từ những mâu thuẫn sâu sắc trong ông, giữa ý thức về cuộc sống trần tục và
sự nhận thức thú vị về bản chất của cái chết. Điều này cụ thể hơn thuyết định
mệnh điển hình của người vùng Địa Trung hải - khởi thủy của thuyết này là việc
tin chắc rằng sự huy hoàng rực rỡ của thế giới chỉ là một khoảnh khắc phù du
thoáng qua, nhất định sẽ bị che phủ bởi bóng đêm tăm tối. Camus cũng đại diện
cho phong trào triết học được gọi là thuyết sinh tồn, khắc hoạ vị trí của con
người trong vũ trụ bằng cách phủ nhận vai trò của mỗi cá nhân, và cho rằng
trong con người chỉ toàn là điều ngớ ngẩn. Tính từ “ngớ ngẩn” thường có mặt trong các câu văn của Camus,
nhờ vậy người ta có thể gọi đó là một chủ đề xuyên suốt trong tác phẩm của ông,
chủ đề này được trình bày với tất cả các hệ quả về mặt tinh thần và lô-gíc trên
các mức độ tự do, trách nhiệm, và nỗi thống khổ có nguồn gốc từ tính từ này.
Đối với Camus, điều thiết yếu không phải là xem cuộc đời có đáng sống không mà
là ta phải sống như thế nào, san sẻ với những khổ đau mà cuộc sống đã mang lại.
Tượng kỷ niệm của Camus được xây
trong thị trấn Villebleviv, Pháp - nơi ông mất
vì tai nạn ô-tô ngày 4-1-1960.
Điều đáng đề cập là các tác phẩm trong đó, bằng việc sử dụng một phong cách nghệ thuật cổ điển hoàn toàn thuần khiết cùng với sự tập trung cao độ, ông ta đã thể hiện những vấn đề này theo cách để bản thân các nhân vật và sự kiện làm cho ý tưởng của ông trở nên sống động trước mắt chúng ta, mà không cần lời diễn giải. Đó là những gì làm cho tác phẩm Kẻ xa lạ [L’étranger] (1942) trở nên nổi tiếng. Nhân vật chính là nhân viên ở một cơ quan chính quyền giết một người Ả-rập sau một chuỗi các sự kiện ngớ ngẩn; rồi sau đó, dửng dưng với số phận, anh ta nghe chính mình bị tuyên án tử hình. Tuy nhiên, vào giây phút cuối, anh ta tỉnh trí lại và thoát khỏi tình trạng thụ động gần như là mê muội. Trong tác phẩm Dịch hạch [La Peste] (1947), cuốn tiểu thuyết mang tính tượng trưng có tầm vóc lớn hơn, những nhân vật chính là bác sĩ Raux và trợ lý của ông ta, những người chiến đấu dũng cảm chống lại dịch bệnh tấn công vào các tỉnh thành phía bắc châu Phi. Bằng lời văn trầm tĩnh và hoàn toàn khách quan, câu chuyện hiện thực đầy tính thuyết phục nầy phản ánh những diễn biến cuộc sống trong suốt cuộc chiến đấu, và Camus ca ngợi một sự vùng lên mà chính tai họa đang hoành hành, đã khơi dậy từ trong trái tim của một con người rất mực cam chịu và không còn niềm tin.
Camus còn mang đến cho chúng ta một chuyện kể độc
thoại rất ấn tượng, Sa đọa [La Chute] (1956), một tác phẩm chứng tỏ sự
tinh thông về nghệ thuật kể chuyện. Một luật gia Pháp tự vấn lương tâm trong
một quán rượu dành cho thủy thủ ở thành phố Amsterdam, và vẽ ra bức chân dung của
chính mình, một hình ảnh trung thực mà qua đó, những đồng nghiệp của ông có thể
nhìn nhận về chính họ một cách tương tự. Trong những trang sách nầy người ta có
thể thấy Kẻ-đạo-đức-giả bắt tay với Kẻ-ghét-loài-người nhân danh cho ngành khoa
học nghiên cứu trái tim con người mà nước Pháp thời trước rất vượt trội. Sự
châm biếm chua cay, được sử dụng bởi một tác giả xông xáo luôn bị ám ảnh bởi sự
thật, đã trở thành một vũ khí chống lại thế giới đạo đức giả.
Mộ của Camus ở Lourmarin - Pháp.
Bản thân ông Camus đã vượt hẳn ra khỏi thuyết hư vô.
Sự suy ngẫm nghiêm túc và khắt khe của ông về bổn phận khôi phục không vướng
chút hằn thù những gì đã bị tàn phá, và việc làm cho công lý có thể tồn tại
trong một thế giới bất công, đã phần nào làm cho ông trở thành một nhà nhân văn
học, một người đã không quên đi sự tôn sùng nét cân đối và vẻ đẹp của người Hy
Lạp, khi có lần ông khám phá ra những điều này trong ánh nắng mùa hè chói chang
trên bờ biển Địa Trung hải ở Tipasa.
Sinh động và đầy sáng tạo, Camus đang là trung tâm
thu hút sự chú ý trong làng văn học thế giới, ngay cả bên ngoài phạm vi nước
Pháp. Được truyền cảm hứng từ một cam kết đích thực về mặt tinh thần, ông đã
dành hết sức lực của mình cho những vấn đề nền tảng của cuộc sống, và chắc chắn
rằng khát vọng này sẽ dẫn đến mục tiêu lý tưởng mà vì thế giải thưởng Nobel đã
được lập ra. Đằng sau sự khẳng định không ngừng của ông về sự ngớ ngẩn của thân
phận con người, hoàn toàn không phải là sự phủ định khô khan. Cách nhìn sự vật
này được bổ sung vào trong con người ông bởi một mệnh lệnh đầy quyền năng, cũng
là một lời kêu gọi ý chí quyết tâm nổi dậy chống lại sự ngớ ngẩn, và chính vì
điều đó, tạo nên một giá trị.
Vào ngày 25 tháng 10 năm 1958, hai ngày sau khi có
thông báo chính thức từ Viện Hàn Lâm Thụy Điển cho biết Boris Pasternak đã được
chọn là người đoạt giải thưởng Nobel Văn chương, nhà văn Nga đã gởi bức điện
như sau đến Viện Hàn Lâm Thụy Điển: “Hết sức cảm ơn, xúc động, hãnh diện,
kinh ngạc, bối rối”. Bức điện này được tiếp theo bằng một bức điện khác viết
ngày 29 tháng 10 với nội dung: ”Xét ý nghĩa của giải thưởng trong một xã hội
mà tôi là một thành viên, tôi phải từ chối giải thưởng không công bằng này,
giải thưởng chỉ dành riêng cho tôi. Xin vui lòng đừng lấy làm bất mãn vì sự từ
chối tự nguyện của tôi”.
1958 – BORIS PARTERNAK
(Nga, 1890 – 1960)
Chân dung nhà văn do Leonid Pasternak vẽ, 1910
Giải thưởng Nobel Văn chương năm nay được Viện Hàn
Lâm Thụy Điển trao tặng cho một nhà văn Cộng Hoà Liên Bang Nga - Boris Pasternak,
vì thành tựu đáng kể của ông cả trong lĩnh vực thơ ca đương thời lẫn trong lĩnh
vực truyền thống vĩ đại của Nga là truyện kể.
Như đã biết, Pasternak đã bày tỏ rằng ông không mong
muốn nhận sự ưu đãi đặc biệt này. Việc từ chối này dĩ nhiên chẳng hề làm thay
đổi giá trị của giải thưởng. Dù sao, cũng còn một chuyện phải làm đối với Viện
Hàn Lâm là rất lấy làm tiếc tuyên bố rằng lễ trao giải không thể thực hiện
được.
Bìa tiểu thuyết Doctor Zivago,
bản in lần đầu năm 1957
bản in lần đầu năm 1957
1960 – SAINT - JOHN PERSE
(Pháp, 1887 – 1975)
Chân dung nhà thơ, 1960.
Saint–John Perse, tên của nhà thơ đã nổi tiếng trên
toàn thế giới nhờ chính ông, một con người kín đáo, trong đời thường được gọi
là Alexis Leger và, theo tên này, ông đã giành được uy tín to lớn ở một lĩnh
vực khác trong cuộc đời hoạt động xã hội của mình. Như thế cuộc đời của ông
được chia làm hai giai đoạn, một giai đoạn đã chấm dứt, còn giai đoạn kia đang
tiếp tục: Alexis Leger, nhà ngoại giao đã trở thành Saint – John Perse, nhà
thơ.
Được xem là một nhân vật quan trọng trong lĩnh vực
văn học, nhưng trước tiên ông là nhà ngoại giao, bắt đầu sự nghiệp vào năm 1914
và ngày càng giữ nhiều trọng trách quan trọng. Với tư cách là tổng thư ký của
Bộ Ngoại giao Pháp trong nhiều năm, nằm trong hàng ngũ thành viên Hội đồng Quốc
gia, ông đã đảm đương những nhiệm vụ trọng yếu trong suốt những sự kiện chính
trị mở đầu cho cuộc chiến tranh thế giới lần II.
Sau sự thất bại của nước Pháp năm 1940, ông bị đình
chỉ công tác một cách đột ngột và lâm vào cảnh sống lưu vong, bị chế độ Vichy
xem như là một kẻ thù nguy hiểm, và bị tước đi cả quyền làm một công dân Pháp.
Ông đã tìm thấy chỗ ẩn náu tại Washington,
nơi ông làm việc với tư cách là người cố vấn văn chương cho Thư viện Quốc
hội. Nhà nước Pháp đã sớm phục hồi đầy đủ quyền lợi cho ông, nhưng ông -
một người đang sống cảnh tha hương - đã kiên quyết khước từ việc trở lại với
ngành ngoại giao. Tuy nhiên, trong những năm gần đây ông đã nhiều lần trở lại
nước Pháp vì lý do cá nhân.
Đến đây một sự nghiệp đã rộng mở ra những viễn cảnh
bao la, và hứa hẹn với những thành công, trong đó một tầm nhìn phóng khoáng có
được qua nhiều điều kiện kết hợp với một sắc thái tinh thần, mang đặc tính năng
động cá biệt. Sự uyên bác mang tính quốc tế này, dấu hiệu đảm bảo cho phẩm chất
của một lữ khách vĩ đại, cũng tạo nên thêm một trong những đề tài thường lập đi
lập lại trong các tác phẩm của nhà thơ. Ông đã đạt được thành công đầu tiên nhờ
tập thơ có tên là Tán dương thời thơ ấu [Pour fêter une enfance] (1910).
Khung cảnh hoành tráng trong tác phẩm này gợi lại những kỷ niệm ban đầu vàng
son của thời niên thiếu về một thiên đường đẹp lạ kỳ ở Guadeloupe, trong đó có
muông thú và cây cỏ mang màu sắc thần thoại. Từ Trung Hoa ông đã mang về sử thi
Anabase xuất bản năm 1924, tập này kể lại một cuộc viễn chinh hiếu chiến
đầy bí ẩn, tiến vào các hoang mạc ở châu Á thông qua một thể thơ mang nhiều hàm
ý và cứng như men...
Sự thật là, những tác phẩm của ông đều cho chúng ta
thấy rõ sự khác thường, phức tạp trong phong thái lẫn suy nghĩ, nhưng người chủ
sáng tạo ra chúng thì không lập dị chút nào - nếu ta cho rằng qua sự lập dị đó,
ông gò mình vào ý chí tự do để thoả lòng và chỉ quan tâm đến chính mình mà
thôi. Trái lại, phẩm chất nổi bật của ông là niềm ao ước được thể hiện con người, nắm bắt tất cả
sự đa dạng phong phú của họ, tất cả tính liên tục của họ. Mong ước được mô tả
con người - với vai trò là người sáng tạo bất diệt - tranh đấu từ thế kỷ này
sang thế kỷ khác, chống lại sự bất phuc tùng cũng kiên trì không kém của các
sức mạnh thiên nhiên. Ông đồng nhất chính mình với mọi chủng tộc, những người
cùng sống trên hành tinh đầy dông tố của chúng ta. “Nòi giống chúng ta đã cổ
xưa rồi”, ông đã nói trong một bài thơ, “vẻ ngoài của chúng ta thì không tên… Cái
chết đang rình rập ở ô cửa, nhưng lộ trình của chúng ta không phải ở đó”.
Người ta không thể nghĩ gì khác ngoài việc ngưỡng mộ
tính chính trực trong quan điểm của thơ ông, là một sự kiên quyết kiêu hãnh mà
với, nó ông đã kiên trì theo đuổi một hình thức duy nhất để diễn đạt, cho phép
ông thực hiện những ý định của mình, một hình thức độc tôn nhưng luôn thích
hợp. Sự phong phú vô tận của một văn phong đầy hình ảnh trong những khúc hoan
ca của ông, đòi hỏi phải tư duy và có thể làm cho người đọc mệt mỏi khi nhà thơ
đòi hỏi họ phải có những nỗ lực tập trung tinh thần cao độ. Ông rút ra các ẩn
dụ từ tất cả những ngành học, từ mọi thời đại, từ mọi chuyện thần thoại, từ mọi
miền; những tập thơ của ông gợi nhớ đến những vỏ sò của đại dương mà từ đó hình
như phát ra một khúc nhạc từ vũ trụ. Trí tưởng tượng phong phú là thế mạnh của
ông. Cảnh tha hương, sự chia cách là những nguồn liên tưởng, lời thì thầm câm
lặng của chúng đã đem đến cho thơ của ông những âm điệu giao hòa; và qua đề tài
kép về sức mạnh và sự bơ vơ không nơi nương tựa của con người, người ta có thể
nhận thấy một sức lôi cuốn mạnh mẽ khác thường, một sự lôi cuốn có lẽ đã được
diễn đạt rõ ràng hơn trước trong tác phẩm sau cùng của ông.
Chân dung tác giả, 1962
1961 – IVO ANDRIC
(Nam Tư, 1892 – 1975)
Chân dung tác giả
Khi
còn là một sinh viên trẻ tuổi người Xéc-bi, Ivo Andric đã từng tham gia phong
trào giải phóng dân tộc, chịu đựng sự khủng bố, và bị vào tù năm 1914 khi chiến
tranh bùng nổ. Tuy nhiên ông đã học nhiều trường đại học khác nhau và cuối cùng
đã giành được tấm bằng tốt nghiệp tại đại học Graz. Trong nhiều năm ông đã phục vụ trong
ngành ngoại giao; vào thời điểm bùng nổ chiến tranh thế giới II ông đang là đại
sứ Nam Tư ở Berlin. Chỉ vài giờ sau khi ông trở lại
Belgrade, thành phố này đã bị máy bay Đức đánh bom. Bị buộc phải trốn tránh
trong suốt thời gian quân Đức chiếm đóng, tuy nhiên ông vẫn tìm cách thoát khỏi
sự nguy hiểm và viết ba cuốn tiểu thuyết đáng chú ý. Những tiểu thuyết này
thường được gọi là tác phẩm bộ ba Bosnia, mặc dù chúng không có điểm gì chung,
ngoại trừ hoàn cảnh ra đời lịch sử của chúng được biểu tượng hóa bằng hình trăng
lưỡi liềm và dấu thập. Sự ra đời của tác phẩm này, trong tiếng súng ầm ầm inh
tai và trong sự tăm tối của thảm họa đất nước, một thảm họa mà mức độ của nó
dường như đã vượt ra ngoài dự tính, là một thành tựu văn học gây ấn tượng đặc
biệt. Việc xuất bản tác phẩm bộ ba mãi đến năm 1945 mới thực hiện được.
Trước
khi viết những ký sự mang tính sử thi chín muồi dưới dạng tiểu thuyết này, đặc
biệt là kiệt tác Chiếc cầu trên sông Drina [Na Drini cuprija] (1945),
trong suốt một thời gian dài nhà thơ trữ tình Andric đã dùng ngôi thứ nhất để
tìm cách diễn tả chủ nghĩa bi quan cùng cực trong tâm hồn non trẻ của ông. Điều
rất quan trọng là việc ông đã tìm được nguồn an ủi to lớn nhất từ triết gia
Kierkegaard trong những năm cô độc trong tù. Sau này, trong quá trình khổ hạnh
của sự tự khép mình vào kỷ luật nghiêm ngặt, ông đã phát hiện ra con đường có
thể đưa ông trở lại với cái mà ông gọi là “tiềm thức vĩnh cửu và tài sản thiêng
liêng”, một phát hiện báo hiệu cho sự mở đầu của hình thái văn chương sử thi
khách quan trong sự nghiệp của ông, một hình thái mà từ đây về sau, ông miệt
mài nghiên cứu, làm cho ông trở thành người diễn giải những sự việc mà thế hệ
cha ông đã trải qua ấy, giúp cho một dân tộc hiểu rõ điều đó như thế nào.
Tượng đài Ivo Andrić ở Belgrade, Serbia
Trong một truyện ngắn mang tính tường thuật của ông,
một bác sĩ trẻ người đang kể lại những điều anh ta đã trải qua ở Bosnia vào
những năm 20 đã nói:”Nếu bạn nằm thao thức trọn một đêm ở Sarajevo, bạn sẽ biết
cách phân biệt những âm thanh của đêm Sarajevo. Với tiếng chuông mạnh mẽ và
vang dội, đồng hồ của thánh đường Thiên Chúa giáo mỗi giờ gõ hai tiếng. Một
phút dài trôi qua; rồi bạn nghe những âm thanh nhỏ hơn nhưng chói tai của nhà
thờ thuộc giáo hội Do Thái chính thống, nó cũng vang lên hai tiếng gõ. Sau đó,
hơi chói tai hơn và xa hơn nữa, có âm thanh của đồng hồ nhà thờ Hồi giáo, gõ
mười một tiếng, mười một giờ đồng hồ theo tôn giáo của người Thổ Nhĩ Kỳ, nó
được tính toán theo một sự phân chia thời gian kỳ lạ trong cái cõi thiên đường
xa tít ấy. Người Do Thái không dùng chuông để báo hiệu giờ của họ, và đối với
họ chỉ có thượng đế mới biết được mấy giờ, chỉ có thượng đế mới chỉ ra được con
số trên lịch của người Sephardim và người Ashkenazim. Như vậy, ngay cả trong
đêm khuya, khi mọi người đều ngủ, thế giới vẫn bị phân chia; nó bị phân chia mãi
theo cách đếm thời gian đã mất trong một đêm đang dần trôi qua.”
Có lẽ cái không khí ban đêm gợi nhớ này cũng là một
trong những cách giải quyết các vấn đề chính chi phối tác phẩm của Andric. Chắc
hẳn việc nghiên cứu lịch sử và triết học đã đưa ông đến câu hỏi điều gì đã dẫn
đến việc hình thành nên một dân tộc, một quốc gia giữa những tai họa, những cay
đắng của sự phản kháng và những cuộc xung đột. Quan điểm của ông tập trung cốt
yếu vào khía cạnh đó. Xem xét những cuộc đối kháng này với sự cân nhắc cẩn thận
và sự sáng suốt vốn có, ông đã cố gắng nhìn tất cả sự việc dưới ánh sáng của lẽ
phải và bằng một vốn kiến thức uyên bác.
1962 – JOHN STEINBECK
(Mỹ, 1902 – 1968)
Chân dung tác giả, 1962
Mặc dù John Steinbeck đã viết một vài tác phẩm trước
năm 1935, nhưng mãi đến năm này ông mới đạt được thành công đầu tiên trước công
chúng với truyện dài Căn hộ của Tortilla [Tortilla Flat]. Ông đã
đưa đến cho người đọc những câu chuyện thần thoại thú vị và hài hước về một
nhóm người paisanos, những cá nhân phi xã hội, mà trong các cuộc ăn uống
say sưa như điên họ đều như những bức tranh biếm họa về các Hiệp-sĩ-bàn-tròn
của Vua Authur. Có người nói rằng quyển sách này đã đến như là một liều thuốc
giải kịp thời đối với cảnh ảm đạm của tình trạng chán nản đang phổ biến lúc bấy
giờ ở Mỹ. Tiếng cười bây giờ lại hướng về phía Steinbeck.
Nhưng ông không hề có ý định trở thành người an ủi và
làm trò mua vui vô hại. Những chủ đề ông chọn đều nghiêm túc và mang tính chất
lên án, ví dụ như những cuộc đình công quyết liệt trong các đồn điền trồng bông
vải và cây ăn trái ở California mà ông đã mô tả trong cuốn tiểu thuyết Trận
chiến đáng ngờ [In Dubious Battle] (1936). Tài năng văn chương của
ông càng ngày càng nở rộ trong những năm này. Kiệt tác nhỏ Của Chuột và
Người [Of Mice and Men] (1937) - một câu chuyện về anh chàng Lennie khổng
lồ, đần độn, đánh mất sự dịu dàng, tự mình tước bỏ sự sống các sinh vật lọt vào
tay anh ta. Kế tiếp là những truyện ngắn có một không hai đã được ông tập hợp
lại trong tập truyện Thung lũng xa [The Long Valley] (1938). Con
đường giờ đây đã được mở ra cho tác phẩm vĩ đại gắn liền một cách có ý nghĩa
với tên tuổi của Steinbeck, một thiên sử thi Chùm nho uất hận [The
Grapes of Wrath] viết năm 1939. Đây là một câu chuyện về cuộc di cư bất đắc dĩ
của một nhóm người từ Oklahoma đến California bởi nạn thất
nghiệp và sự lạm quyền. Phân đoạn bi kịch này trong lịch sử xã hội Mỹ đã tạo
cảm hứng cho Steinbeck có được sự mô tả sâu sắc về những điều đã trải qua của
một người nông dân cụ thể và gia đình anh ta trong suốt cuộc hành trình đau khổ
và vô tận đến nơi ở mới.
Nếu như đôi khi các nhà phê bình vì lý do nào đó lưu
ý một vài dấu hiệu về tài năng đang bị giảm sút, về sự trùng lập có thể dẫn đến
làm giảm sức sống của văn học, thì Steinbeck thật sự đã chứng tỏ sự lo sợ của
họ là không có căn cứ với quyển tiểu thuyết Bất mãn mùa đông [The
Winter of Our Discontent] (1961). Ở tác phẩm này ông đã đạt đến chuẩn mực
như ông đã làm được với Chùm nho uất hận. Một lần nữa ông đã giữ vững vị
trí của mình trong tư cách là một người
tự do nói lên sự thật với sự công tâm không thiên vị về những gì bản chất là
của nước Mỹ, cho dù nó tốt hay xấu. Trong tác phẩm này hiện diện một cách rõ
ràng trong lương tâm nhạy cảm của ông, và luôn phản chiếu giống như một lăng
kính, là hàng loạt những câu hỏi liên quan đến vấn đề phồn vinh của dân tộc.
Điều này được viết ra mà không có chút gì gọi là học thuyết, chỉ dùng những vật
cụ thể, hoặc ngay cả những vật tầm thường, những sự kiện xảy ra hàng ngày, ấy
thế mà vẫn mang tính thuyết phục khi được diễn tả bằng tất cả cảm hứng mãnh
liệt và đầy tính hiện thực của Steinbeck. Mặc dù ông luôn nhấn mạnh tính hiện
thực, vẫn có những âm điệu hài hòa của sự suy đoán mơ mộng và vu vơ xung quanh
đề tài vĩnh cửu về sự sống và cái chết.
Mẫu bìa tiểu thuyết Chùm nho uất hận,
in lần đầu năm 1939.
Trong số các bậc thầy của nền văn học hiện đại Mỹ,
những người đã từng được trao giải nầy - từ Sinclair Lewis cho đến Ernest
Hemingwey, Steinbeck là người có một vị thế rất rõ ràng, độc lập về mặt quan
điểm và về những thành tựu đã đạt được. Trong ông có một khuynh hướng hài hước
không thể nào lay chuyển được, mà ở mức độ nào đó, đã bù lại cho các mô-típ
thường có tính chất tàn nhẫn và thô ráp của ông. Sự thông cảm của ông luôn
hướng về những người bị áp bức, những người không thể thích nghi với cuộc sống
bên ngoài và những người cùng khổ; ông thích tạo sự tương phản giữa niềm vui
đơn giản của cuộc sống với lòng tham tiền bạo tàn và đầy cay độc. Nhưng chúng
ta còn tìm thấy một khí chất Mỹ trong bản thân ông cũng như trong cảm xúc lớn
lao của ông đối với thiên nhiên, đối với đất đai canh tác, đất bị bỏ hoang, núi
non, bờ biển, trong toàn bộ nguồn cảm hứng không bao giờ cạn đối với Steinbeck
về thế giới loài người và cả thế giới bên kia.
Lý do của Viện Hàn Lâm Thụy Điển về việc trao giải
cho Steinbeck như sau: ”Vì lối viết văn mang tính hiện thực cũng như tính hư
cấu của ông, được làm nổi bật bởi một sự hài hước đầy cảm thông và một sự am
hiểu xã hội sâu sắc.”
Chân dung nhà thơ, năm 1963
1963 – GIORGOS SEFERIS
(Hy Lạp, 1900 – 1971)
Chân dung nhà thơ, năm 1963
Giorgos Seferis
sinh năm 1900 tại Smyrna - Hy Lạp, nhưng đã rời nơi đây khi còn nhỏ để theo gia
đình đến Athens. Sau khi những người Hy Lạp bị đuổi khỏi vùng Tiểu Á, và thị
trấn quê hương của Seferis bị chìm trong khói lửa, tình trạng không cửa không
nhà - đã từng là số phận của những kẻ bị xua đuổi và đàn áp - bằng cách này hay
cách khác đã đóng vai trò quyết định trong suốt những năm ông trưởng thành.
Seferis đã từng học ở Paris,
sau đó bước vào ngành ngoại giao. Khi đất nước Hy Lạp bị chiếm đóng vào năm
1941, ông lâm vào cảnh tha hương cùng với chính phủ Hy Lạp Tự Do, và phải di
chuyển từ nước này sang nước khác trong suốt chiến tranh thế giới II. Sau sáu
năm làm đại sứ ở London, ông về hưu năm 1962 và trở lại Athens để hoàn toàn
cống hiến cuộc đời cho sự nghiệp văn chương.
Sự nghiệp thi ca của Seferis không lớn, nhưng chính
bởi sự độc đáo trong văn phong và suy nghĩ, bởi nét đẹp trong ngôn ngữ mà nó
trở thành một biểu tượng bền vững cho tất cả những gì bất tử qua lời khẳng định
của người Hy Lạp về cuộc sống. Seferis là nhà thơ Hy Lạp tiêu biểu, gìn giữ và
phát huy những di sản văn hóa kinh điển, là nhân vật hàng đầu của đất nước. Ở
nước ngoài, ông cũng được tôn vinh ở bất cứ nơi nào có các bản dịch thơ ông.
Đọc thơ của Seferis, chúng ta buộc phải nhớ lại sự
kiện mà đôi khi bị bỏ quên: về mặt địa lý, Hy Lạp không chỉ là một bán đảo mà
còn là thế giới của nước và biển được trải dài bởi vô số hòn đảo, một vương
quốc đại dương cổ xưa, một nơi trú ẩn đầy bão tố và hiểm họa đối với các thủy
thủ. Xứ sở Hy Lạp này là nền tảng bất di bất dịch cho thơ của ông, ở trong đó
xứ sở này hiện lên như một cảnh tượng huy hoàng vừa khắc nghiệt vừa êm ả.
Seferis đã làm được điều này bằng thứ ngôn ngữ tinh tế hiếm có cả về phương
diện vần điệu lẫn cách sử dụng phương pháp ẩn dụ. Người ta đã đúng khi cho rằng
ông, hơn bất kỳ người nào khác, đã diễn tả được nỗi khốn khổ của những viên đá,
những mảnh cẩm thạch vỡ vô tri, và của những bức tượng im lặng đang mỉm cười.
Trong các bài thơ liên tưởng của ông, các nhân vật thần thoại Hy Lạp cổ xưa
hiện diện cùng những sự kiện mới đây về chiến trường Địa Trung hải đẫm máu. Thơ
của ông đôi khi rất khó diễn giải, đặc biệt là vì ông không thích cho người
khác biết đến tâm trạng bên trong của mình, ông thích giấu nó đằng sau một mặt
nạ vô danh. Ông thường thể hiện sự đau khổ và niềm cay đắng của mình thông qua
trung gian một nhân vật kể truyện trung tâm, kiểu như tác phẩm Odysseus với các
nhân vật mượn từ những thủy thủ già ông gặp trong một chuyến đi lạc ở Smyrna
vào thời trai trẻ của nhà thơ. Nhưng bên trong các lời nói vô thưởng vô phạt
của ông, nó đã bi kịch hoá rất nhiều về số mệnh lịch sử của Hy Lap, về các vụ
đắm tàu và cứu hộ, về những thảm họa và sự dũng cảm. Nói một cách nghiêm túc,
Seferis đã nhận được những hỗ trợ mang ý nghĩa sống còn từ nhà thơ T.S.Eliot,
nhưng bên trong đó, lối diễn đạt không có gì nghi ngờ là của chính ông. Nó
thường mang theo tiếng dội đứt quãng của một đoạn nhạc từ một điệp khúc Hy Lạp
cổ xưa.
Plaque xanh trên đại lộ Sloan, London
để kỷ niệm nơi Giorgos Seferis
từng sống ở đây.
Có lần Seferis đã tự bạch: ”Tôi là một người đàn ông
đơn điệu và bướng bỉnh, một người mà khoảng 20 năm nay không ngớt lặp đi lặp lại
về những điều giống hệt nhau”. Có lẽ câu nói này cũng có phần đúng sự thật,
nhưng mọi người cũng phải nhớ rằng thông điệp mà ông cảm thấy bắt buộc phải
chuyển tải không thể tách rời khỏi cuộc sống lao động trí óc của thế hệ ông,
khi thông điệp đó đã được đối chất với nền văn minh Hy Lạp cổ đại, một di sản
đặt ra cho kẻ kế thừa kiệt sức vì một thử thách lớn lao.
Nhưng mặt khác Seferis đã mang lại nguồn sinh khí cho
bức tranh nền nhẫn nhục âu sầu này bằng sự sôi nổi mang tính hùng biện, được
truyền cảm hứng từ những hòn đảo đầy núi non của quê hương ông, với những ngôi
nhà quét vôi trắng nhô lên từ những nền đất đắp cao nằm trên một vùng biển
trong xanh, một sự hòa hợp về màu sắc mà chúng ta lại được thấy lần nữa trên lá
cờ Hy Lạp.
Chất lượng cuộc sống con người không chỉ tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài mà còn dựa trên niềm hạnh phúc của mỗi cá nhân. Ở thời đại tiêu chuẩn hóa và những hệ thống xã hội phức tạp của chúng ta, sự nhận thức về ý nghĩa của cuộc sống đối với mỗi cá nhân có lẽ chưa bị mất đi nhưng chắc chắn đã bị phai mờ; và việc duy trì những lý tưởng mà Nobel đã theo đuổi là một vấn đề thật cấp bách đối với chúng ta hôm nay cũng như trong thời đại của ông ấy.”
1964 – JEAN-PAUL SARTRE
(Pháp, 1905 – 1980)
Phác họa Jean-Paul Sartre
của Reginald V. Gray
trên tuần báo The New York Times, 1965.
Giải Nobel Văn chương năm nay đã trao cho nhà văn người Pháp Jean-Paul
Sartre vì những tác phẩm của ông rất
phong phú về tư tưởng, vừa tràn ngập tinh thần tự do vừa truy tìm sự thật.
Chúng đã ảnh hưởng sâu rộng đến thời đại
chúng ta. Nhưng người trúng giải đã cho biết ông không mong muốn được nhận
giải, vì thế Viện Hàn lâm Thụy Điển không tổ chức lễ trao giải.
LÝ DO TỪ CHỐI
Trong lời công bố trước công chúng, được in trên tờ
Le Figaro ngày 23 - 10 - 1964, Jean-Paul Sartre đã bày tỏ sự hối tiếc về việc
từ chối nhận giải thưởng của ông, đã gây xôn xao dư luận và mong muốn mọi người
biết rằng ông không hề biết về việc không thể hủy bỏ quyết định trao giải của
Viện Hàn lâm Thụy Điển, ông đã viết thư yêu cầu để ngăn cản việc Viện Hàn Lâm
Thụy Điển lựa chọn ông. Cũng trong bức thư này, ông đã nêu rõ việc từ chối của
mình không có ý nghĩa là xem thường Viện Hàn lâm Thụy Điển mà chỉ vì những lý
do khách quan của cá nhân ông.
Về lý do cá nhân, Sartre cho biết rằng do quan niệm
của ông về một nhà văn chân chính, ông luôn từ chối những vinh dự chính thức và
vì thế sự kiện mà ông đang gặp hiện nay cũng không phải là chưa có. Tương tự ông
đã từng từ chối nhận Bắc đẩu Bội tinh và từng không muốn trở thành viện sĩ của
Pháp, và ông cũng sẽ từ chối Giải thưởng Lenin nếu như giải đó được trao cho
ông. Ông tuyên bố rằng việc nhà văn chấp nhận những vinh dự như thế sẽ gắn liền
với việc ông ta bị lệ thuộc vào tổ chức trao giải thưởng, và trên hết là một
nhà văn thì không nên cho phép mình bước vào
một tổ chức danh tiếng nào.
Trong số những lý do khách quan, Sartre đã kể đến
niềm tin của mình, rằng việc trao đổi giữa Phương Đông và Phương Tây phải xảy
ra giữa con ngưới và giữa những nền văn hóa với nhau mà không có sự can thiệp
của các tổ chức. Hơn nữa, theo ông thì việc phong tặng các giải thưởng vừa qua,
đã không thực hiện một cách công bằng
giữa các nhà văn từ các hệ tư tưởng khác nhau và các quốc gia khác nhau. Ông
cảm thấy rằng việc ông chấp nhận có thể bị diễn giải một cách không đúng và
theo cách mà ông không mong muốn.
Sartre và de Beauvoir trước
tượng đài của Balzac.
Tại buổi tiệc chiêu đãi những nhân vật được Viện Hàn
lâm Thụy Điển tặng giải Nobel, ông S. Friberg, Viện trưởng Viện Caroline, đã
đưa ra lời bình luận như sau:”Ông Sartre đã cho rằng ông ta không thể nhận Giải
thưởng Văn chương năm nay. Luôn luôn có tranh cãi xung quanh giải này, cái giải
mà mỗi người đều cho rằng mình có khả năng xét đoán hoặc là họ không hiểu và cứ
như vậy mà bình phẩm. Nhưng tôi tin rằng ông Nobel sẽ hiểu rất rõ về sự chọn
lựa năm nay. Cải thiện thế giới là một giấc mơ của mọi thế hệ, điều này đặc
biệt áp dụng cho các nhà văn và nhà khoa học thực thụ. Đây là giấc mơ của
Nobel. Đây là thước đo ý nghĩa của các nhà khoa học. Và nó cũng là nguồn gốc và
sức mạnh cho cảm hứng của Sartre. Là một tác giả và một nhà triết học, Sartre
đã là một nhân vật trung tâm cho nền văn học sau chiến tranh và cho những tranh
luận mang tính trí tuệ – họ khâm phục, tranh cãi và phê bình. Tác phẩm mang
tính đột phá của ông, bằng sự hoàn hảo của nó, đã có ấn tượng như là một thông
điệp; nó đã được chấp nhận bằng sự cố gắng hết sức nghiêm túc để nâng độc giả
và nâng thế giới nói chung lên một tầm cao hơn. Triết lý mà ngòi bút của ông ta
mang đến, đã được giới trẻ hoan nghênh như là một sự tự do. Thuyết hiện
sinh của Sartre có thể được hiểu theo
nghĩa là mức độ hạnh phúc mà mỗi cá nhân có thể hy vọng đạt được, bị chi phối
bởi sự tự nguyện chấp nhận vị trí phù hợp với đặc tính của mình, và từ đó sẵn lòng
chấp nhận các hệ quả. Điều này là một lời giải thích chân phương hơn cả một
triết lý đã được một người cùng thời với Nobel - ông Ralph Waldo Emerso - diễn
đạt một cách tuyệt vời: ”Cuối cùng không có gì thiêng liêng ngoài sự suy nghĩ
trung thực của chính bạn.”
Mộ của Sartre và Simone de Beauvoir
ở Montparnasse, Paris, 16 - 6 - 2009.
ở Montparnasse, Paris, 16 - 6 - 2009.
Chất lượng cuộc sống con người không chỉ tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài mà còn dựa trên niềm hạnh phúc của mỗi cá nhân. Ở thời đại tiêu chuẩn hóa và những hệ thống xã hội phức tạp của chúng ta, sự nhận thức về ý nghĩa của cuộc sống đối với mỗi cá nhân có lẽ chưa bị mất đi nhưng chắc chắn đã bị phai mờ; và việc duy trì những lý tưởng mà Nobel đã theo đuổi là một vấn đề thật cấp bách đối với chúng ta hôm nay cũng như trong thời đại của ông ấy.”
1965 – MIKHAIL SHOLOKHOV
(Nga, 1905 – 1984)
Chân dung tác giả, 1936.
Sholokhov đã trải qua thời niên thiếu ở vùng quê
Cossacks sông Don. Những mối ràng buộc mạnh mẽ luôn hướng ông về vùng đất này,
bắt nguồn từ sự đồng cảm của ông đối với tính cách tốt đẹp của người dân và sự
hoang dã của phong cảnh nơi đây. Ông đã chứng kiến quê hương mình trải qua
những cao trào cách mạng khác nhau và cả cuộc nội chiến Nga. Sau khi thử làm
những công việc chân tay ở Maxcơva một thời gian, ông sớm bắt đầu tập trung vào
việc viết lách và cho ra đời một loạt phác thảo miêu tả những cuộc chiến đấu
dọc theo sông Don, một thể loại sau này đã làm ông nổi tiếng. Bằng chứng nổi
bật về sự sớm trưởng thành của thế hệ được sinh ra trong chiến tranh là
Sholokhov, chỉ mới 21 tuổi, khi ông bắt đầu viết những phần đầu tiên của thiên
anh hùng ca vĩ đại: Sông Đông êm đềm. Tựa đề tiếng Nga giản dị nhưng
chứa đựng một hàm ý châm biếm không thể phủ nhận qua cảnh bạo lực khủng khiếp
các diễn biến trong kiệt tác của Sholokhov.
Sholokhov đã mất 14 năm để hoàn thành tác phẩm, một
tác phẩm có độ chính xác cao về mọi mặt, bao trùm tất cả các thời kỳ: Chiến
tranh Thế giới I, thời kỳ Cách mạng và chiến tranh nhân dân, đề tài chính là
cuộc nổi dậy bi thương của người Cossacks. Trong việc xem xét các khía cạnh có
thể gây tranh cãi về đề tài của ông, có thể chắc chắn không hề nghi ngờ rằng
khi bắt đầu cho việc viết cuốn tiểu thuyết này, Sholokhov đã bước một bước đi
đầy táo bạo, một bước đi mà ở thời điểm đó trong sự nghiệp của ông đồng nghĩa
với việc tạo nên một sự mâu thuẫn với chính lương tâm mình.
Với chủ nghĩa hiện thực cao đẹp, tác phẩm Sông
Đông êm đềm miêu tả sinh động tính cách độc đáo của người Cossack, sự kết
hợp truyền thống giữa kỵ binh và nông dân, cùng với những bản năng có vẻ đối
chọi lẫn nhau, nhưng ở mặt khác cho phép chúng kết hợp với nhau để hình thành
nên một khối gắn bó vững chắc. Ở đây không có sự ca ngợi. Tính thô lỗ và hoang
dã trong khí chất Cossack được mô tả rất phóng khoáng; không có gì giấu đi hoặc
được thêm vào, nhưng đồng thời ai cũng nhận thấy được sự tôn trọng ngấm ngầm về
tất cả những gì thuộc về con người. Mặc dù là một người Cộng sản chân chính,
Sholokhov hoàn toàn không để hệ tư tưởng ảnh hưởng đến tác phẩm của mình, và
thay vào đó, chúng ta thấy những cuộc chiến đẫm máu được ông mô tả bằng lối
hành văn đầy nhiệt huyết.
Trải dài phía sau toàn bộ hệ thống nhân vật, mà được
chúng ta biết đến hoặc là qua mối quan hệ cá nhân của họ hoặc là qua vai trò
chiến binh của họ, là một phong cảnh hùng vĩ của xứ sở Ukraine, những thảo
nguyên mênh mông chuyển mình theo các mùa, làng mạc với hương đồng cỏ nội và
những chú ngựa đang gặm cỏ, thảm cỏ gợn mình trong gió, những bờ sông với tiếng
thì thầm không bao giờ dứt của nó. Sholokhov miêu tả không bao giờ chán những
thảo nguyên nước Nga.
Tượng đài của Sholokhov ở Rostov.
Có thể nói rằng Sholokhov sử dụng một kỹ thuật mô tả
hiện thực đã từng được sử dụng có kết quả, không khai phá một cái gì mới, một
kỹ thuật có thể được xem như ngây ngô bởi tính đơn giản của nó nếu đặt bên cạnh
những phong cách hiện đại được đưa ra gần đây trong nghệ thuật viết tiểu
thuyết. Nhưng chủ đề của ông lại không thể trình bày bằng bất cứ cách nào khác,
mạch văn đầy sức sống, đều đặn và mang tính anh hùng ca làm cho thiên tiểu
thuyết Sông Đông êm đềm trở thành
một roman fleuve đích thực theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Và dĩ nhiên, bản thân tác phẩm Sông Đông êm đềm
hoàn toàn xứng đáng với phần thưởng được trao, một danh hiệu mà thật ra đã đến
khá trễ, nhưng may mắn thay lại không quá muộn, để thêm vào danh sách những
người đoạt giải Nobel một cái tên của một trong những nhà văn hàng đầu của thời
đại chúng ta.
Bìa tiểu thuyết Ngài Tổng thống
1966 – SHMUEL YOSEF AGNON VÀ NELLY
SACHS
Giải Nobel Văn chương năm nay trao hai tác giả nổi
tiếng người Do Thái – Shmuel Yosef Agnon và Nelly Sachs – mỗi người đều đại
diện cho thông điệp của đất nước Israel gởi cho thời đại chúng ta. Quê hương
của Agnon ở Jerusalem,
còn bà Sachs là người nhập cư vào Thụy Điển từ năm 1940, và bây giờ là công dân
Thụy Điển. Mục đích của việc kết hợp hai người được trao giải thưởng này là để
thực hiện sự công bằng đối với những thành tựu riêng của mỗi người, và việc
chia sẻ giải thưởng có lý lẽ đặc biệt riêng là để tuyên dương hai tác giả, mà
dù đã viết bằng hai ngôn ngữ khác nhau nhưng lại có sự thống nhất về mặt tinh
thần, và bổ sung cho nhau trong một nỗ lực cao cả nhằm giới thiệu di sản văn
hóa của người Do Thái, thông qua ngòi bút của mình. Nguồn cảm hứng chung của cả
hai đều là sức mạnh của cuộc sống.
I.- SHMUEL YOSEF AGNON (Israel, 1888 – 1970)
Chân dung nhà văn
Danh tiếng của Shmuel Agnon với tư cách là một nhà
văn lỗi lạc của nền văn học Hebrew hiện đại, đã dần phá vỡ hàng rào ngôn ngữ mà
trong trường hợp này, thật sự là một vật cản. Ông bắt đầu sự nghiệp văn chương
bằng tiếng Ydit (tiếng Đức cổ của người Do Thái ở Trung và Đông Âu), nhưng sớm
chuyển sang tiếng Hebrew (tiếng Do Thái cổ), mà theo các nhà chuyên môn đã được
ông vận dụng một cách thành thạo tuyệt vời, theo một phong cách văn xuôi hoàn
hảo và gây ấn tượng lạ kỳ. Khi hai mươi tuổi ông rời quê hương vùng Đông
Galicia, ở đó, như một người thuộc dòng dõi gia đình lâu đời và khả kính, ông
đã được giáo dục trong truyền thống hiếu học. Ông cảm thấy buồn cho Palestine,
nơi mà giờ đây, với tư cách là một tác giả kinh điển có tuổi, ông có thể nhìn
lại cuộc đấu tranh dai dẳng để tái lập đất nước, và là nơi mà cái gọi là Chủ
nghĩa Phục quốc Do Thái về văn hóa luôn ám ảnh trong ông, một trong những chiến
thắng mang tính sáng tạo đẹp nhất của nó.
Thư phòng của Shmuel Agnon
Phẩm chất riêng của Agnon, với tư cách là một nhà văn
thể hiện rõ nét trong một tập truyện rất thú vị được viết tại thị trấn Buczacz
quê hương ông. Nơi đây một thời là trung tâm hưng thịnh về lòng mộ đạo của
người Do thái và những kiến thức về giáo lý Do Thái, bây giờ nằm trong đổ nát.
Hiện thực và truyền thuyết luôn song hành trong nghệ thuật kể chuyện của ông. Bức
màn của cô dâu [Hakhnasat Kalah] (1922) với tính khôi hài tài tình và mộc
mạc của nó là một trong những truyện dài tiêu biểu nhất của ông, một tác phẩm
Do thái tương xứng với Don Quixote và Till Eulenspiegel. Nhưng có
lẽ thành tựu lớn nhất của ông là tiểu thuyết Vị khách về đêm [Oreach
Nata Lalun] (1939), câu chuyện kể về một chuyến đến thăm vùng Buczacz,
một thành phố bị chiến tranh tàn phá trong thời niên thiếu của ông, và về sự cố
gắng uổng công của người kể chuyện nhằm tập hợp giáo đoàn để phục vụ trong giáo
đường Do Thái. Với cốt truyện về một biên niên sử địa phương, chúng ta thấy
được một bức chân dung tuyệt vời về những số phận và những nhân vật, về kinh
nghiệm và sự suy ngẫm. Chiếc chìa khoá vào nhà nguyện bị thất lạc, mà người lữ
khách tìm thấy trong túi xách ông ta chỉ sau khi trở về Jerusalem, theo Agnon,
là một sự ám chỉ mang tính tượng trưng rằng trật tự xưa có thể chẳng bao giờ
được xây dựng lại trong cộng đồng người Do Thái, trừ khi dưới sự bảo hộ của Chủ
nghĩa phục quốc Do Thái.
Nhà văn nhận giải Nobel Văn chương.
Agnon là một nhà văn hiện thực, nhưng vẫn luôn có sự
trộn lẫn tính chất hư cấu, điều này đem đến một bầu không khí quý báu đầy chất
thi vị thần tiên lạ kỳ cho ngay cả những cảnh buồn bả nhất và bình thường nhất,
làm chúng ta nhớ đến mô-típ của họa sĩ Chagall xuất phát từ thế giới của kinh
Cựu Ước. Ông được xem như một nhà văn hết sức độc đáo, được trời phú cho những
năng khiếu đăc biệt về tính khôi hài và dí dỏm, cùng với lối suy nghĩ sáng suốt
kết hợp với nhận thức chân thực trong mọi khía cạnh, ông là một thể hiện hoàn
hảo về tính cách Do Thái. Ông được trao giải vì “nghệ thuật kể chuyện độc đáo,
hết sức thâm thúy với những đề tài từ cuộc sống của người dân Do Thái”.
II.- NELLY SACHS (Thụy Điển, 1891 – 1970)
Chân dung nhà văn, 1966
Nelly Sachs, cũng giống như nhiều nhà văn Do Thái gốc
Đức khác, cũng đã chịu số phận của cảnh tha hương. Với sự can thiệp của Thụy
Điển, bà đã được cứu thoát khỏi khủng bố và đe dọa. Bị trục xuất, bà đã được
chuyển đến đất nước này. Từ đó bà sống và làm việc yên ổn với tư cách là một
người tị nạn chính trị trên đất Thụy Điển. Bà đã được ca ngợi ở Đức như là một
nhà văn có sức thuyết phục với tính chân thật hấp dẫn không thể cưỡng lại được.
Với cảm xúc mãnh liệt luôn sôi sục, bà bày tỏ sự xúc động của mình về tấn thảm
kịch của người Do Thái, tấn thảm kịch này đã được bà diễn đạt qua những bài ca
trữ tình ai oán về vẻ đẹp đau thương và những huyền thoại bi thảm. Ngôn ngữ
tượng trưng của bà kết hợp đậm nét cách diễn đạt hiện đại đầy cảm hứng, với
việc mô phỏng theo thể loại thi ca kinh thánh cổ xưa. Bà gắn chặt mình hoàn
toàn với niềm tin và thuyết thần bí về nghi lễ của dân tôc. Bà đã sáng tạo một
thế giới đầy hình tượng mà không xa rời sự thật khủng khiếp về các trại diệt
chủng và các nhà xưởng xử lý tử thi, nhưng đồng thời, vượt cả lên trên lòng căm
thù những kẻ khủng bố, chỉ là bộc lộ niềm đau xót chân thành về việc làm giảm
phẩm giá con người. Những sáng tác của bà đã xuất bản rất được yêu thích giờ
đây được tập hợp lại với tựa đề Cuộc hành trình đến bến bờ xa lắc
[Fahrtins Staublsex] (1961). Tác phẩm bao gồm sáu truyện liên hoàn được viết
trong suốt 20 năm không ngừng tập trung sáng tạo. Bà cũng sáng tác một loạt
kịch thơ in chung thành tập Dấu chân
trên cát [Zeichen im Sand] xuất bản năm1961. Chủ đề của tập này được rút ra
từ câu chuyện về kho tàng đen của thần thoại Hassidic, nhưng ở đây nó mang một
ý nghĩa mới sinh động và đầy sức sống mãnh liệt.
Con tem chân dung Nelly Sachs
phát hành ở Đức.
Một vở kịch thần bí đáng được chú ý là Eli
(1950), nói về một cậu bé 8 tuổi, đã bị đánh cho đến chết bởi một tên lính Đức
ở Hà Lan, chỉ vì cậu ta lấy cái còi của hắn để kêu gọi sự giúp đỡ của Đấng Tối
cao khi cha mẹ của cậu bị bắt đi. Micheal, người thợ giày thông thái đã tìm
cách lần theo thủ phạm đến làng bên cạnh. Tên lính đã bị lòng hối hận dày vò,
và trong một cuộc chạm trán trong rừng, hắn đã ngã quỵ xuống không đợi đến khi
Micheal đưa tay đấm. Đoạn kết của câu chuyện đã cho thấy một sự công bằng mang
tính siêu nhiên mà không cần đến sự trả thù của con người.
Sáng tác của Nelly Sachs là sự thể hiện mang tính
nghệ thuật làm xúc động lòng người nhất nói về tinh thần phản kháng của người
Do Thái đối với sự đau khổ, và vì thế có thể nói là nó đã thực sự hoàn thành
mục đích nhân đạo, hàm chứa trong ý nguyện của Alfred Nobel.
Miguel Angel Asturias thấm
nhuần tư tưởng tình cảm đối với thiên nhiên và thế giới huyền bí mang đặc tính
người Guatemala,
từ khi ông còn bé. Ông đã say mê hiến dâng đời mình cho di sản quê hương này và
cho tinh thần tự do chủ nghĩa trong toàn bộ tác phẩm văn chương của ông. Sau
khi tốt nghiệp luật và nghiên cứu văn học dân gian, ông sống ở Pháp suốt 12
năm, có thời gian đại diện đất nước của ông làm công việc ngoại giao.
Tác phẩm đầu tiên của ông là
bộ sưu tập những truyền thuyết Guatemala, quá khứ của nền văn hóa Maya, những
biểu tượng và những hình ảnh quí giá đã từng là nguồn cảm hứng vô tận của ông.
Nhưng ông chưa thực sự là nhà văn cho đến năm 1946 khi xuất bản quyển tiểu
thuyết Ngài Tổng thống [El Senor Presidente]. Tác phẩm mang tính trào
phúng theo kiểu bi kịch và lộng lẫy này đã phê phán nguyên mẫu kẻ độc tài châu
Mỹ La-tinh đã xuất hiện nhiều nơi vào đầu thế kỷ 20, và từ đó tái bản nhiều
lần, nói về sự tồn tại của nhà độc tài được nuôi dưỡng bằng bộ máy chuyên chế,
mà đối với một người bình thường, đã tạo ra một địa ngục triền miên trên trái
đất. Với bút lực mãnh liệt, Asturias đã gợi lên nỗi kinh hoàng và nghi kỵ mà nó
đầu độc bầu không khí xã hội của thời đại, tạo cho tác phẩm của ông một thách
thức và một biểu hiện mỹ học vô giá.
Ba năm sau, quyển truyện kể Người
của Bắp [Hombres de Maez] ra đời. Nó được xem như một câu chuyện cổ tích giàu
cảm xúc, giàu tưởng tượng nhưng vẫn giữ được thực tế cuộc sống. Chủ đề dựa trên
thần thoại vùng nhiệt đới, nơi con người phải đấu tranh đồng thời chống lại vẻ
đẹp kỳ bí của thiên nhiên, nhưng không thân thiện và chống lại những lệch lạc
xã hội, sự đàn áp và chuyên chế không thể chịu đựng nổi. Một tích lũy những cơn
ác mộng và những ảo tưởng về vật tổ như vậy có thể vượt qua những cảm giác của
chúng ta, nhưng chúng ta không bị mê hoặc bởi một tác phẩm đầy chất thơ quá kỳ
quái và kinh hoàng.
Năm 1950 bộ ba tiểu thuyết
cuả Asturias bắt đầu xuất hiện : Gió mạnh [Viente Fuerte] (1950), Giáo
hoàng mới lên ngôi [El Papa verde] (1954) và Mắt những người đã khuất
[Los ojos de los enterrados] (1960) – một đề tài mới xuất hiện trong tác phẩm
sử thi của ông. Chủ đề của bộ tiểu thuyết này là đấu tranh chống lại sự thống
trị của những tập đoàn tư bản Mỹ, điển hình là Liên hiệp Công ty Trái cây và
những ảnh hưởng kinh tế lẫn chính trị của nó lên trên lịch sử đương đại của
nước “Cộng hòa Banana”. Ở đây, một lần nữa, chúng ta thấy lòng sục sôi quá
khích và không thực tế xuất phát từ tình yêu quê hương tha thiết đối với tình trạng của đất nước ông.
Asturias hoàn toàn thoát
khỏi kỹ thuật kể chuyện lỗi thời. Từ rất sớm, ông chịu ảnh hưởng của những
khuynh hướng mới xuất hiện trong nền văn học châu Âu. Văn phong bốc lửa của ông
có mối quan hệ thân thiết với chủ nghĩa siêu thực của Pháp. Tuy nhiên, chúng ta
nên lưu ý rằng ông luôn luôn lấy cảm xúc
từ cuộc sống thực tế.
Ngày nay, châu Mỹ La-tinh có
thể hãnh diện với nhóm nhà văn xuất sắc, một dàn đồng ca đa âm trong đó những
đóng góp của mỗi cá nhân có thể dễ dàng nhận ra. Tuy nhiên, tác phẩm của
Asturius là rộng lớn, rõ nét và nổi bật đủ để gợi lên sức hấp dẫn bên ngoài môi
trường văn học của riêng ông, vượt xa đến những khu vực bị hạn chế về mặt địa
lý.
Tranh chân dung màu nước của Reginald Gray.
1968 –
YASUNARI KAWABATA
(Nhật, 1899 – 1972)
Chân dung nhà văn, 1932
Khi còn là sinh viên ở đại
học Hoàng gia Tokyo, Yasunari Kawabata đã quyết định trở thành một nhà văn
chuyên nghiệp, và ông là một điển hình cho lòng đam mê không mệt mỏi, luôn luôn
đi theo tiếng gọi của văn chương. Hai mươi bảy tuổi, ông in truyện ngắn đầu
tay, gây được sự chú ý của dư luận. Truyện kể về một sinh viên, suốt mùa thu
hiu quạnh đi lang thang trên bán đảo Izu, gặp một vũ nữ nghèo, hèn hạ và đem
lòng yêu nàng. Nàng mở rộng trái tim trong trắng, cho chàng biết được cảm giác
sâu xa và đích thực của tình yêu. Giống như một điệp khúc buồn trong bài dân
ca, chủ đề này được lập lại với nhiều biến tấu khác nhau trong những tác phẩm
sau này của ông.
Kawabata đã thừa nhận mình
chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện thực Tây phương hiện đại, nhưng cùng lúc, với
lòng trung thành cao cả hơn, ông vẫn không từ bỏ nền văn học cổ Nhật Bản, vì
vậy ông tiêu biểu cho một khuynh hướng rõ ràng là yêu mến và bảo vệ chính xác
văn phong truyền thống. Trong nghệ thuật kể chuyện của Kawabata, người ta vẫn
còn có thể tìm thấy sắc thái cảm xúc của thơ ca, mà nguồn gốc của nó là từ bức
tranh rộng lớn về đời sống và tập quán của Nhật bản cách đây trên một ngàn năm,
trong tác phẩm đồ sộ Truyện Genji của Murasaki.
Bia đá ghi dấu nơi sinh của Kawabata
Đặc biệt, Kawabata được ca
ngợi là nhà tâm lý tinh tế về phụ nữ. Ông đã chứng tỏ tài năng này trong hai
truyện vừa Xứ Tuyết và Ngàn Cánh hạc. Tác phẩm của ông gợi cho
chúng ta nhớ đến hội họa Nhật Bản. Ông là người sùng bái vẻ đẹp mong manh và
ngôn ngữ hình ảnh mang nét u sầu, tồn tại trong đời sống thiên nhiên và trong
số phận con người. Nếu hành động bên ngoài thoáng qua như những búi cỏ trôi
trên mặt nước, thì điều đó chính xác là nghệ thuật thơ haiku của người
Nhật mà nó phản ánh trong thể loại văn xuôi của Kawabata.
Tác phẩm nổi tiếng khác của
Kawabata là Cố đô (1962). Truyện nói về cô bé Chiêko, một đứa trẻ bị bỏ
rơi vì cha mẹ nghèo xơ xác, và được nhà buôn Takichiro mang về nhà làm con
nuôi. Cô bé được giáo dục theo phép tắc lỗi thời của người Nhật. Cô là người
nhạy cảm, trung thành, nhưng trong lòng luôn luôn gậm nhấm câu hỏi về nguồn gốc
của mình. Người Nhật tin rằng một đứa trẻ bị vứt bỏ ngoài đường sẽ bị đau khổ
vì lời nguyền rủa suốt đời, và trong trường hợp sinh đôi, theo quan điểm kỳ lạ
của người Nhật, sẽ cam chịu vết nhơ nhục nhã. Một hôm, cô gặp một cô gái trẻ
đẹp đang làm việc trong cánh rừng tuyết tùng gần thành phố và nhận ra là chị em
sinh đôi của mình. Họ kết hợp nhau một cách thân thiết để vượt quá rào cản giai
cấp của xã hội – Naêko thì chăm chỉ, nghiêm khắc còn Chiêko thì cẩn trọng, yếu
đuối, nhưng nét giống nhau như tạc của họ khiến người ta phải bối rối chẳng bao
lâu gây ra những phức tạp và lộn xộn. Toàn bộ câu chuyện là so sánh quá trình
diễn ra lễ hội tôn giáo hàng năm ở Kyoto từ mùa xuân hoa anh đào nở đến mùa
đông lấp lánh tuyết.
Sau chiến tranh, làn sóng Mỹ
hóa dữ dội tràn ngập nước Nhật. Trong những sáng tác của mình, Kawabata muốn
nói lên lời nhắc nhở nhẹ nhàng, cần cố gắng đễ cứu vãn những gì thuộc về nét
đẹp cổ xưa và tính chất riêng tư của nước Nhật trong giai đoạn mới. Ông diễn tả
những lễ nghi tôn giáo ở Kyoto hết sức tỉ mỉ và cẩn trọng giống như ông chọn
một mẫu vải để may khăn thắt lưng cho chiếc áo kimono truyền thống của phụ nữ.
Bảo tàng Kawabata
Kawabata là người Nhật đầu
tiên được nhận giải Nobel Văn chương vì ông đã truyền đạt một nhận thức văn hoá
đạo đức - mỹ học bằng nghệ thuật độc nhất vô nhị, vì vậy, bằng cách này, ông
góp phần vào việc xây dựng chiếc cầu nối tinh thần giữa Đông và Tây.
1969 –
SAMUEL BECKETT
(Ireland, 1906 – 1989)
Chân dung kịch tác gia
Samuel Beckett bước vào thế
giới văn chương khoảng giữa thế kỷ 20 ở Paris, thủ đô nuớc Pháp, mặc dù ông là
người Ai-nhĩ-lan sinh gần Dublin. Trong khoảng thời gian ba năm, với năm tác
phẩm xuất bản, bất ngờ ông trở thành trung tâm chú ý của mọi người. Truyện dài Molloy
và phần hậu của nó là Malone đã chết [Malone Meurt] ra mắt cùng năm
1951, vở kịch hai màn Ngồi đợi Godot [En Attendant Godot] (1952), năm
tiếp theo là truyện dài Không thể đặt tên [L’Innommable] – cùng một chủ
đề với Molly và Malone, và Watt.
Biếm họa Samuel Beckett của Javad Alizadeh
Về nhiều phương diện, truyện
dài Watt đã đánh dấu sự thay đổi cách diễn đạt của ông trong tác phẩm
đáng chú ý này. Nó được viết từ năm 1942 - 44 tại miền Nam nước Pháp - do ông
trốn khỏi Đức quốc xã, sống một thời gian dài ở Paris – được xem là tác phẩm
sau cùng của ông trong nhiều năm viết bằng tiếng Anh. Ông đặt tên mình bằng
tiếng Pháp và không quay lại tiếng mẹ đẻ trong khoảng 15 năm. Thế giới xung
quanh cũng đã thay đổi khi Beckett viết lại tác phẩm Watt. Tất cả những
tác phẩm khác được viết dưới tên ông nằm trong khoảng thời gian 1945 – 49. Nền
tảng của những tác phẩm này là Thế chiến thứ II, qua đó chúng ta thấy nghề văn
của ông đã đạt đến độ chín muồi và một chủ đề tư tưởng rõ rệt. Nhưng những tác
phẩm này không nói về chiến tranh, về cuộc sống ở mặt trận hay về phong trào
kháng chiến Pháp, mà Beckett là một thành viên tích cực, nhưng nói về điều gì
sẽ xảy sau đó, khi hoà bình lập lại và bức màn cực kỳ xấu xa sẽ lộ ra một quang
cảnh khiếp đảm kéo dài mà con người có thể đi đến sự phân hủy tàn bạo – dù số
phận định đoạt hay tự mình cuốn theo – và với sự phân hủy nhiều như vậy liệu
con người có thể tồn tại. Trong ý nghĩa này, sự phân hủy của nhân loại là đề
tài được lập đi lập lại trong những tác phẩm của Beckett và trong phạm vi này,
triết lý của ông, nổi bật một cách dễ hiểu bởi những yếu tố lố bịch và trò hề
bi thảm, có thể được mô tả như một chủ nghĩa tiêu cực mà nó không thể từ bỏ sự
sa đọa đưa đến tận vực thẳm. Đến tận vực thẳm là điều không thể tránh khỏi, bởi
vì chỉ có ở đó tư tưởng bi quan và thi ca mới có thể làm nên điều kỳ diệu.
Có lẽ nhận thức sự phân hủy
nhân loại mà chúng ta đã chứng kiến, đối với một phạm vi lớn hơn bất cứ thế hệ
nào đi trước, là không thể chấp nhận được nếu những giá trị của con người bị
chối bỏ. Nhưng kinh nghiệm trở nên đau đớn nhiều hơn tất cả khi thừa nhận phẩm
giá con người sâu hơn. Đây là nguồn suối tinh lọc tinh thần, mặc dù có sự áp
đặt của cuộc sống, trong chủ nghĩa bi quan của Beckett. Nó chứa một tình yêu
nhân loại phát triển theo nhận thức khi nó thăm dò sâu hơn vào chiều sâu của sự
ghê tởm, sự tuyệt vọng dẫn đến giới hạn đau khổ tột bậc để khám phá ra rằng
lòng trắc ẩn không có giới hạn. Từ quan điểm đó, trong những lãnh vực hủy diệt,
nổi lên tác phẩm của Samuel Beckett giống như một bài thánh ca của nhân
loại, lời ca yếu ớt của nó giải phóng
những người bị áp bức và an ủi họ trong hoàn cảnh hoạn nạn. Điều này dường như
được diễn đạt rõ ràng nhất trong hai kiệt tác của ông: Ngồi đợi Godot và
Những ngày hạnh phúc – cả hai đều triễn khai đoạn trích trong Kinh
Thánh. Ngồi đợi Godot với câu:”Anh cho rằng hắn sẽ đến, hay chúng ta đợi
người khác?” và Những ngày hạnh phúc lấy từ câu: “Một tiếng khóc nơi
hoang dã…”.
Chân dung nhà thơ.
Đặc biệt những tác phẩm này đã cho thấy khả năng sáng tạo liên tục của White, một sự sôi nổi và thôi thúc kiếm tìm ngày càng sâu hơn, một sự công kích dữ dội vào vấn đề của cuộc sống đã không ngừng thu hút ông, và là một cuộc vật lộn với ngôn ngữ để chắt lọc hết tất cả sức mạnh và sắc thái của nó, nhằm đi đến ranh giới của cái không thể đạt được. Tác phẩm của White có những nhược điểm do thể loại văn chương táo bạo và mạnh mẽ, đã thực sự vượt qua các giới hạn thông thường khác nhau. Ông là người đầu tiên tạo cho Úc châu một tiếng nói đích thực vang xa khắp thế giới, vừa mang tính nghệ thuật, vừa được xem là những ý tưởng mang tính văn học đương đại cùng lúc với những thành tựu của ông đã đóng góp cho văn học phát triển.
Trên thực tế, để xác định
một nhà văn và tác phẩm của ông ta dựa trên nguồn gốc xã hội và hoàn cảnh chính
trị là cách làm theo lề lối cũ. Và cái đã gọi là cách làm theo lề lối cũ thì
đặc biệt ít khi đúng vào trọng tâm của vấn đề. “Thành tựu văn chương của Eyvind
Johnson là một trong những thành tựu đặc trưng và có ý nghĩa nhất trong một
thời kỳ cực thịnh của toàn châu Âu”. Cách đây 30 năm Lucien Maury đã viết như
thế. Tuy nhiên, chàng trai xuất thân từ một trường tiểu học tại ngôi làng hẻo
lánh kia, dù đã trở thành một người châu Âu từng trải và tự tin, vẫn không bao
giờ quên nguồn gốc của mình. Những tự truyện của ông viết về vùng đất này đã
trở thành một tư liệu có giá trị lâu dài, mà không bị bó buộc và hạn chế bởi
môi trường nơi ông đã bước đi những bước đầu tiên. Tầm nhìn mang tính toàn cầu
đã làm những tác phẩm sau này của Eyvind Johnson thêm đặc sắc, và nó rất phù
hợp với một tầm nhìn cũng bao quát tương tự và đúng lúc về những số mệnh và
những thời đại của loài người. Sự đổi mới trong thể loại tiểu thuyết lịch sử mà
ông đã tự mình thực hiện, và có thể đã minh họa rõ rệt nhất trong những tác
phẩm nổi tiếng như Days of His Grace
và Steps Towards Silence, không chỉ dựa trên những nghiên cứu bao quát mà còn dựa
trên khả năng nhìn nhận vấn đề sáng suốt, diễn tả ngắn gọn, đã trình bày cho
chúng ta thấy rằng mọi việc xảy đến với chúng ta đều đã từng xảy ra, và những
điều đã từng một lần xảy ra trên thế giới thì vẫn còn đang tiếp tục xảy ra, và
có thể nhận biết được dưới các biểu hiện thay đổi, và đồng thời bất biến qua
các thời đại. Đây có lẽ là sự khôn ngoan duy nhất mà chúng ta có thể học được
từ quá khứ qua những cố gắng nhằm nghiên cứu về thời đại hiện nay và tiên đoán
về một kỷ nguyên chưa đến.
1970 –
ALEXANDER SOLZHENITSYN
(Nga, 1918 - 2008)
Chân dung nhà văn, 1998
Alexander Solzhenitsyn thuộc
thế hệ đầu tiên các nhà văn Xô-viết, trưởng thành cùng với thời kỳ có hình thức
chính quyền mới. Ông không thể tách khỏi không khí và thời đại mà ông sinh ra.
Chính Solzhenitsyn đã từng nói rằng ông không có dự tính sống ở nơi nào khác
ngoại trừ quê hương mình. Nhưng những tác phẩm của ông thì sống khắp nơi trên
thế giới, có lẽ lúc này, nhiều hơn cả trước kia, và có lẽ trong tương lai,
nhiều hơn cả bây giờ. Sức sống của chúng đặc biệt bắt nguồn từ cảm xúc đã ăn
sâu trong con người ông đối với tổ quốc ông và số phận của nó. Solzhenitsyn
mang trong người truyền thống văn học Nga có một không hai. Ông được thừa hưởng
di sản văn học của những bậc tiền bối khổng lồ, những người đã nhận được từ sự
đau khổ của nước Nga một sức mạnh thật thuyết phục, và tình yêu không gì có thể
phá hủy được đã ngấm sâu trong tác phẩm của họ.
Thời gian và khoảng cách có
thể là – và phải là – cần thiết cho cách đánh giá trung thực về cảm giác nhận
thức sâu sắc và nồng thắm. Trường hợp của Solzhenitsyn thì không phải như vậy.
Trong cuốn truyện dài của ông, Một ngày trong đời Ivan Denisovich, xuất
hiện lần đầu vào năm 1962, người ta nhận ra ngay lập tức trong chính xứ sở của
ông, và khắp thế giới, rằng một nhà văn mới tài ba tham gia vào thế giới văn
chương. Tờ Pravda (Sự thật) đã viết: “Thể văn kể chuyện của Solzhenitsyn
đôi khi gợi cho ta nhớ đến sức mạnh nghệ thuật của Léon Tolstoi. Thêm một tác
giả đầy tài năng đến với nền văn học của chúng ta!”. Cũng khó có thể làm hơn
được những lời tuyên dương của tờ Pravda về nghệ thuật kể chuyện của
Solzhenitsyn: “Tại sao trái tim chúng ta lại gắn liền với nỗi đau khi chúng ta
đọc câu chuyện đầy ấn tượng này cùng lúc khi chúng ta cảm thấy tâm hồn mình bay
vút lên cao? Câu trả lời nằm trong tính nhân bản sâu xa của câu chuyện, trong
đặc tính của loài người ngay cả trong giờ phút thoái hóa.”
Bìa sách Quần đảo Gulag,
bản dịch tiếng Anh, in ở Pháp
Những từ ngữ của Alexander
Solzhenitsyn là những lời kêu gọi và những thông điệp gởi đến chúng ta. Chúng
cho chúng ta biết về những vấn đề mà chúng ta cần biết hơn bao giờ hết, về phẩm
giá không thể hủy hoại được của một cá nhân. Ở bất cứ nơi nào phẩm giá ấy bị
bạo hành, bằng bất cứ lý do hay biện pháp gì, thông điệp của ông không chỉ là
lời buộc tội mà còn là một lời quả quyết: những kẻ gieo nhân nào thì ắt sẽ gặp
quả đó. Sự thật về vấn đề này rất dễ thấy ở bất cứ nơi nào thông điệp được
truyền đi.
Ngay cả hình thức bên ngoài
mà Solzhenitsyn tìm kiếm cho tác phẩm của mình cũng mang bằng chứng về thông
điệp của ông. Hình thức này được đặt tên là truyện dài đa âm tố hay dàn theo
chiều ngang. Nó có thể được xem như một câu chuyện không có nhân vật chính.
Solzhenitsyn đã giải thích trường phái đa âm tố (polyphonism) mà ông muốn nói
là: mỗi người trở thành nhân vật chính bất cứ khi nào hành động liên quan đến anh ta. Đây không chỉ là một kỹ
thuật mà là một tín điều. Nghệ thuật kể chuyện tập trung vào yếu tố con người
tồn tại duy nhất, cá nhân con người, có vị trí bình đẳng như nhau, một số phận
giữa hàng triệu số phận và hàng triệu số phận trong một số phận. Đây là toàn bộ
chủ nghĩa nhân đạo trong một quả hạch mà cái nhân là tình yêu nhân loại. Nobel
năm nay được tặng cho người tuyên bố chủ nghĩa nhân đạo như vậy.
1971 –
PABLO NERUDA
(Chile, 1904 – 1973)
Pablo Neruda, nhà thơ Chile,
là đối tượng của nhiều cuộc tranh luận trong một thời gian dài trước khi ông
được trao tặng giải Nobel Văn chương. Những cuộc tranh luận này là một dấu hiệu
tốt cho thấy không thể nào bỏ qua những đóng góp của ông, và những quan điểm
khác nhau bao gồm nội dung nghệ thuật chứa đựng trong tác phẩm của ông. Có hai
cách đánh giá trái ngược làm cho ông nổi tiếng, và cả hai đều do những nhà văn
cùng sử dụng chung một ngôn ngữ với ông. Khi Neruda chưa đầy ba mươi tuổi, đến
Barcelona với tư cách lãnh sự Chile, ông đã được nhà thơ Tây Ban Nha Garcia
Lorca chào đón bằng giọng văn trữ tình viết theo lối gần như kinh điển: “Một
nhà thơ gần với cái chết hơn là triết học, gần với nỗi đau hơn là khả năng hiểu
biết, gần với máu hơn mực; một nhà thơ có những tiếng nói thần bí mà may thay
anh ta không thể nào giải thích được, một con người chân chính biết rằng cây
sậy hay con chim én còn bất tử hơn cả cái má thô ráp của một bức tượng”. Những
người không đồng tình với lời chào đón quá nhiệt tình này thì dựa vào câu đánh
giá ngắn gọn: “Một nhà thơ đại tồi” - của nhà thơ Juan R. Jiménez (Nobel 1956),
trẻ hơn Lorca năm tuổi.
Nếu bám chặt vào lời công
kích trên thì chúng ta nên nhìn lại khối lượng tác phẩm của Neruda. Thật vậy,
người ta tự hỏi không biết có ai tương đương với ông trong lịch sử thi ca hay không.
Năm mười ba tuổi ông đã in những bài thơ đầu tiên, đến hai mươi tuổi ông đã trở
thành một nhà thơ tên tuổi. Tuyển tập thơ của ông mang tên Obras Completas,
tái bản liên tục, gồm 459 trang vào năm 1951, đến năm 1962 con số trang là
1.925 và năm 1968 nó lên đến 3.237 trang gồm hai tập. Trong số những tác phẩm
đáng chú ý khác của ông còn có: Cien sonetos de amor (1959) gồm những
bài thơ tặng vợ ông là bà Matilde Urrutia, Memorial de Isla Negra – một
tuyển tập thơ gồm năm tập xuất bản nhân kỷ niệm lục tuần của ông... Đối mặt với
một dòng thơ tuôn trào như thế, ta có thể nói được gì với vài lời phê bình vắn
tắt? Có một điều gì đó ngớ ngẩn khi cóp nhặt những bài thơ lẻ hay ngay cả những
tuyển tập thơ ra khỏi khối lượng thơ đồ sộ của ông, điều này chẳng khác nào
dùng một cái thìa nhỏ để đong đếm 50.000 tấn hàng. Người ta không thể sao chép
lại cái cốt lỏi của Pablo Neruda. Chính ông cũng không thể làm được điều này.
Neruda đang thu âm thơ của ông
ở thư viện Quốc hội Mỹ, 1966.
Thật là kỳ lạ vì mọi thứ
trong khối lượng sáng tác khổng lồ này đều nâng lên tầm cao như nhau. Những ai
muốn tìm ra điểm yếu của ông thì còn lâu mới tìm thấy được. Những ai muốn nhìn
thấy điểm mạnh của ông thì chẳng cần tìm đâu xa. Thi hứng của Neruda càng lớn
dần theo năm tháng. Nó giống như một trong những con sông của lục địa riêng
ông, dòng sông chảy với đôi bờ xa tắp, càng mênh mông và càng dũng mãnh hơn
trên đường ra biển.
Khác với những nhà thơ theo
chủ nghĩa siêu thực châu Âu, Neruda không ngừng làm mới chủ đề, thay đổi quan
điểm, thay đổi cảm xúc và chín muồi văn phong. Ông nói lên tiếng nói của mình
trong một câu thơ: “Về sau tôi không còn là một đứa trẻ / vì tôi nhận ra rằng
nhân dân tôi / đã bị tướt đoạt cuộc sống / và không có được một nấm mồ”. Trong
giây phút đó, Neruda đã bước đi bước đầu tiên và quyết định ra khỏi ốc đảo để tìm
đến sự đồng cảm. Nhưng ông không dừng lại đó, cái mà ông tìm kiếm là tình bạn
đấu tranh chống lại mọi áp bức đang tồn tại trên khắp thế giới, vì thế, ông là
nhà thơ của số phận con người bị áp bức.
Boll tự xem mình như một người kể chuyện hiện thực.
Tính xác thực mà ông cần không nhiều là tính xác thực của tiểu thuyết cổ điển
thế kỷ 19, tính xác thực đó, sau khi nghiên cứu tỉ mỉ từng chi tiết, đã được mô
phỏng một cách trung thực
Ngôi nhà của Patrice White ở
20 Martin Road, Centennial Park, Sidney.
1972 –
HEINRICH BOLL
(Đức, 1917 – 1985)
Chân dung tác giả, 1981
Henrich Boll là một trong
vài nhà văn Đức hiện đại được các nhà phê bình nghiên cứu một cách cẩn thận từ
nhiều khía cạnh. Thật khó mà nói rằng những ý kiến khác nhau không nhiều về vị
trí của ông trong nền văn học Đức, đặc biệt, về những nét đặc thù có giá trị
bền vững trong văn phong của ông và về cách dẫn dắt mạch văn phát triển. Lý do
đối với vấn đề này có lẽ nằm trong phương pháp của Boll. Mỗi lần một hay hai
tác phẩm mới hoàn thành, ông lại thay đổi cách giải quyết và thay đổi quan điểm
của mình. Dòng chảy liên tục trong các tác phẩm của ông là hết sức bất ngờ.
Động cơ thúc đẩy Viện Hàn
lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel Văn chương cho Heinrich Boll là vì “văn
phong của ông góp phần phục hồi nền văn học Đức”. Điều này cũng không liên quan
đến kiểu cách tân văn học, bằng cách từ bỏ những hình thức cổ điển để tìm kiếm
phương tiện diễn đạt chưa được thử nghiệm. Đôi khi Boll cũng thoát khỏi những
ranh giới đã được xác lập của thể văn kể chuyện hiện thực. Ông đã chứng tỏ mình
ít có khả năng và ít quan tâm đến việc thử nghiệm hình thức hơn nhiều nhà văn
đã nổi tiếng trong nền văn học Đức hiện đại và trên thế giới.
Tượng chân dung Henrich Boll
1973 – PATRICK WHITE
(Úc, 1912 – 1990)
Chân dung tác giả, 1973.
Theo thông báo của Viện Hàn lâm Thụy Điển, nhà văn Úc
Patrick White được tặng giải Nobel Văn chương vì: “những tác phẩm mang tính sử
thi và nghệ thuật kể chuyện tâm lý đã giới thiệu một lục địa mới cho nền văn
học thế giới”. Tên tuổi của ông được biết đến trước đó qua bảy truyện dài đã
xuất bản, đặc biệt là tác phẩm Chuyện của Dì [The Aunt’s Story], một
chân dung hết sức cảm động về cuộc đời của một người phụ nữ Úc độc thân, phải
chịu đựng cô đơn. Nhưng tác phẩm thật sự là nên tên tuổi của ông là Cây
Người [The Tree of Man], miêu tả tâm lý sâu sắc và mang tính sử thi khái
quát một phần của sự phát triển xã hội Úc dưới hình thức cuộc sống chung lâu
dài của hai con người, và đấu tranh chống
lại những khó khăn của ngoại giới lẫn nội tâm.
Một khía cạnh khác nữa của nước Úc được thể hiện qua
tác phẩm Voss, trong đó, tại một vùng đất nằm sâu trong nội địa, một nhà
thám hiểm đầy nhiệt huyết đối mặt với định mệnh ngặt nghèo. Tác phẩm này là một
nghiên cứu sâu về tính cách con người sống trong môi trường thiên nhiên hoang
dã đầy sức lôi cuốn của nước Úc. Nhà văn còn thể hiện một hình thái nghệ thuật
khác trong cuốn Những người xà ích trên chiếc xe ngựa [Riders in the
Chariot], đặc biệt nhấn mạnh khuynh hướng thể hiện bao quát và biểu trưng của
mình: một sự hy sinh đầy kịch tính và căng thẳng, nhưng nằm trong một bối cảnh
thường nhật, giữa thực tế xã hội Úc đương thời. Từ những quan điểm trái ngược
nhau, The Solid Mandala đưa ra một bức chân dung hai mặt của hai anh em,
trong đó người anh sống theo lý trí một cách khô khan, đặt đối diện với người
em sống theo cảm tính phong phú mà trong mắt mọi người lại gần như là một gã
khờ khạo.
Bìa tác phẩm Voss
do họa sĩ Úc Sidney Nol vẽ.
Hai tác phẩm khác của White
nằm trong số những kiệt tác đồ sộ của ông tính theo độ dài lẫn mức độ căng
thẳng là Đồ tể trong phòng thí nghiệm [The Vivisector] và Mắt bão
[The Eye of the Storm]. Đồ tể trong phòng thí nghiệm là một tiểu sử hư
cấu về một họa sĩ, trong đó toàn bộ một đời người đã được tái hiện, theo cách
không ngừng xem xét kỹ lưỡng những lý do và động cơ hành động: đó là cuộc chiến
đấu không mệt mỏi của một họa sĩ với mục đích thể hiện đến mức tối đa khả năng
của mình, trong khi hy sinh cả bản thân và đồng loại. Mắt bão thì đặt
một bà lão sắp chết làm trung tâm của câu chuyện kể xoay quanh những sự việc
xảy ra xung quanh bà, cả trong quá khứ lẫn hiện tại, cho đến khi chúng ta có
cái nhìn toàn cảnh về cuộc sống, trong đó mỗi người đều có mối quan hệ đầy kịch
tính mang tính quyết định với bà lão.
20 Martin Road, Centennial Park, Sidney.
Đặc biệt những tác phẩm này đã cho thấy khả năng sáng tạo liên tục của White, một sự sôi nổi và thôi thúc kiếm tìm ngày càng sâu hơn, một sự công kích dữ dội vào vấn đề của cuộc sống đã không ngừng thu hút ông, và là một cuộc vật lộn với ngôn ngữ để chắt lọc hết tất cả sức mạnh và sắc thái của nó, nhằm đi đến ranh giới của cái không thể đạt được. Tác phẩm của White có những nhược điểm do thể loại văn chương táo bạo và mạnh mẽ, đã thực sự vượt qua các giới hạn thông thường khác nhau. Ông là người đầu tiên tạo cho Úc châu một tiếng nói đích thực vang xa khắp thế giới, vừa mang tính nghệ thuật, vừa được xem là những ý tưởng mang tính văn học đương đại cùng lúc với những thành tựu của ông đã đóng góp cho văn học phát triển.
1974 – EYVIND JOHNSON (Thụy Điển, 1900 – 1976)
HARRY MARTINSON (Thụy Điển, 1904 – 1978)
Chân dung EYVIND JOHNSON.
Eyvind Johnson được giáo
dục trong một ngôi trường làng nhỏ bé ở bắc Bắc cực cho đến năm mười ba tuổi.
Tương lai đang chờ đợi mở ra trước mặt Harry Matinson khi cậu bé mới 6 tuổi. Là
người được gọi là “đứa con của giáo xứ”, cậu đã được bán đấu giá cho người trả
giá thấp nhất - nghĩa là cho người nhận trách nhiệm chăm nom cậu bé bị bỏ rơi
này với mức chi phí thấp nhất trích từ ngân quỹ của giáo dân trong vùng. Với
một khởi đầu cuộc sống như thế, việc cả hai nhà văn đều có một vị trí trên bục
lễ phát giải là một bằng chứng rõ rệt cho thấy sự biến đổi của xã hội, một sự
biến đổi vẫn đang từng bước tiếp tục xảy ra trên khắp thế giới. Đối với chúng
ta điều này đã xảy đến sớm hơn bình thường; đó có lẽ là điều may mắn to lớn
nhất của đất nước Thụy Điển, và có lẽ cũng là thành tựu đáng kể nhất của sự
biến đổi xã hội trong suốt 100 năm qua.
Eyvind Johnson và Harry
Martinson không phải là những người đơn độc, cũng không phải là những người đầu
tiên. Cả hai đại diện cho nhiều nhà văn vô sản hoặc các nhà thơ thuộc giai cấp
công nhân, trên một mặt trận rộng khắp, đã đột phá vào lĩnh vực văn chương của
chúng ta không phải để tàn phá hay tước đoạt mà để làm cho nó phong phú thêm
bởi những tài sản của họ. Họ đến giống như một dòng suối tuôn trào của những
kinh nghiệm và sức sáng tạo, những yếu tố mà chúng ta hầu như không thể nói hết
được giá trị của chúng. Với sự đánh giá như thế, họ cũng đã đại diện cho bước
đột phá tương tự xảy ra trong toàn bộ đời sống văn hóa của chúng ta sau này.
Một lớp người mới đã chinh phục được đỉnh Thi Sơn (Parnassus).
Hay nói cách khác, chính đỉnh Thi Sơn đã chinh phục được một giai cấp mới - nếu
như chúng ta hiểu người đi chinh phục là người nhận được nhiều nhất từ kết quả
đạt được.
Tuy nhiên, nếu như chúng
ta đang lưu ý đến một giai đoạn đặc biệt và một môi trường phát triển trí tuệ
cá biệt mà những dấu ấn của nó không thể xoá bỏ nhờ vào ngòi bút của Eyvind
Johnson và tác phẩm của ông, thì chính vào lúc đó, Lucien Maury phát hiện ra
điều đó ở nhà văn Bắc Âu này. Châu Âu lại có thêm một trong những nhà trí thức
quan trọng của mình. Một nhà phân tích thời đại người Pháp đã mô tả kỷ nguyên
này là giai đoạn rất hưng thịnh. Điều gì đã làm cho nó trở nên hưng thịnh như
thế? Không phải là những hoàn cảnh thuận lợi mà là sự chiến đấu bất khuất chống
lại tình trạng phổ biến lúc bấy giờ. Bình minh vẫn chưa bắt đầu ló dạng; chủ
nghĩa phát -xít vẫn thắt chặt vòng dây ở châu Âu. Chính trong tình trạng khó
khăn đó mà Eyvind Johnson đã lên tiếng. Thái độ của ông sôi nổi đến mức mà sự
tha thiết xuất phát từ lòng nhiệt tình ấy trong lời văn của ông cho đến bây giờ
vẫn chưa hề tan biến. Ông vẫn còn duy trì niềm tin của mình về viễn cảnh của châu
Âu, nhưng đương nhiên là sự giải phóng của vùng Scandinavia
mới là điều quí giá nhất đối với ông lúc bấy giờ.
Chân dung HARRY MARTINSON
Eyvind Johnson và nhất là
Harry Martinson, đều có rất nhiều điểm chung với nhà văn xưa nhất, và có lẽ
cũng vĩ đại nhất trong số tất cả những nhà văn vô sản, một tác giả nhạy cảm,
thông thái và làm say mê lòng người với những câu truyện ngụ ngôn tài tình.
Giống như Aesop, ông thêu dệt những tình tiết, thu hút bạn bằng giọng văn lôi
cuốn luôn chứa đựng thêm những điều khác ngoài ý nghĩa của ngôn từ. Nhưng những
điểm khác biệt giữa hai người đoạt giải văn chương năm nay lại thú vị hơn những
điểm tương đồng. Bên cạnh Eyvind Johnson, người mà tác phẩm chủ yếu dựa trên cơ
sở quyền công dân ông được kiên quyết bảo vệ trong một xã hột tự do, Harry
Martinson có vẻ hầu như là một người hoàn toàn phi xã hội, một chàng du mục
không thể sửa đổi được trong lĩnh vực văn chương của chúng ta. Chưa có ai thành
công trong việc giữ chân ông. Bolle - một lữ khách can đảm trong tác phẩm Con
đường [The Road], xét về nhiều mặt, chính là người phát ngôn của tác giả,
và thế giới bên ngoài là nhà của ông. Ông chỉ trở nên không nhà không cửa khi ở
trong bốn bức tường. Ông là người mang trong lòng tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa
như là mang một ước mơ, một nguyên tắc đem đến cho ông sự may mắn. Ông là kẻ
lang thang hoàn toàn làm theo ý muốn của chính mình, bằng lòng với những bản
năng tốt đẹp trong cuộc sống và một cách tự phát, chống lại những gì đang cố
kiềm giữ chúng - đó là những gì bị khống chế bởi sự tính toán và được tạo nên
một cách bắt buộc. Ông cũng đã có nơi trú ngụ của mình; nơi đó rất xa và ở bên
ngoài thế giới này, và ông luôn trên đường hướng đến đó. Từ quan điểm khởi đầu
này, mặc dù theo một hướng ra khác, chúng ta cũng có thể tưởng tượng được hình
ảnh bi tráng của Aniara, một con tàu không gian đang tránh xa khỏi sự hiện hữu
thù địch ngày càng gia tăng, trên một trái đất băng giá nhưng bản thân nó không
còn phương hướng, nó đã phải cắt đứt với bờ bến quê hương mình để đi tới một
nơi vô định.
Nhân vật Bolle nhận xét:
“Điều mà hầu hết mọi người muốn trở thành sự thật không phải là điều tôi muốn”.
Qua câu nói này, anh ta cũng đã nói lên khá nhiều điều trong tác phẩm của Harry
Martinson. Trong đó, ta luôn thấy chủ nghĩa hiện thực ở một giới hạn có thể gọi
là những yếu tố căn bản: nó dựa trên sự hiểu biết cặn kẽ về mối quan hệ giữa
bốn nguyên tố gồm: đất, nước, không khí và lửa. Harry Martinson cho rằng mối
quan hệ giữa đất và không khí giống như là một gã lang thang trên đường, còn
lửa và nước là một người đốt lò của con tàu chạy bằng hơi nước trên biển. Cứ
như thế, với ông cái thế giới của trí tưởng tượng lại quan trọng hơn và thực
hơn những gì trong thực tại. Ở nơi mà chủ nghĩa hiện thực đang lê bước một cách
cẩn thận thì trí tưởng tượng của ông lướt đi như một nghệ sĩ trượt băng đang
bay lượn với đôi cánh chim én. Tuy nhiên, đó không phải là trốn tránh sự thật,
mà còn có ý nghĩa ngược lại. “Chúng ta phải biết sự khác biệt căn bản giữa cái có thật và sự thật”, ông nói, “chúng ta có những cái có thật ở khắp mọi nơi. Chúng cuốn xoáy trong mắt bạn như những hạt
cát”. Nhưng chính sự thật mới là cái
chúng ta có liên quan, và đó lại là một chuyện khác. Đó là một trạng thái ở
trong tự nhiên và trong con người biết tiếp thu. Đó là thiện ý với sự thanh
thản trong tâm hồn và tỉnh táo trong suy nghĩ - để mọi người noi theo và để
sống.
Mộ của Harry Martinson ở Sollentuna, Stockholm
Đối với Harry Martinson,
sự kiện và điều hư cấu là một, và không có bất kỳ sự tỉ mỉ nào mang tính cách
ngôn, một nhân sinh quan trọn vẹn được tổng hợp từ những lời nói hàm súc này.
Hai từ cuối, được nhấn mạnh nhất, tạo nên một động từ đơn giản chỉ sự hiện hữu
bé nhỏ: để sống. Nhưng sự tồn tại này chỉ đúng đối với loài người nếu nó
mang đến cho họ niềm vui, và vì vậy mới cần đến thiện ý và cảnh giác. Như vậy,
cuối cùng, sự thật mà con đường của nhà văn lãng tử này dẫn ông đến là một sự
biết ơn ngây thơ như một đứa bé đối với cuộc sống hào phóng đã không ngừng ban
tặng cho ông những thử thách, những điều bí ẩn và niềm vui trong một chừng mực
hợp lý.
Chân dung nhà thơ.
Saul Bellow phát biểu tại Hội chợ Sách quốc tế Miami
1975 – EUGENIO MONTALE
(Italy, 1896 – 1981)
Chân dung nhà thơ.
Ngay từ tập thơ đầu tay, Nan
mực [Ossi di seppia] xuất bản 1925, chàng trai Eugenio Montale khi
đó 29 tuổi đã khẳng định vị trí của mình trong lĩnh vực thơ ca Ý. Khi tác phẩm
của ông dần dần được nước ngoài biết đến, ông cũng được đánh giá cao và ngày
càng được mọi người đồng tình công nhận là một trong những nhà thơ quan trọng
nhất của phương Tây đương đại. Việc mất nhiều thời gian để trở nên nổi tiếng
như vậy cũng là điều hoàn toàn tự nhiên, nhưng trường hợp của Montale có lẽ có
một cách giải thích riêng. Cá tính trầm lặng cố hữu của ông cũng có thể là một
trong những lý do khiến phải mất một thời gian khá dài để giới yêu văn học biết
đến ông. Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, có một nguyên nhân quan trọng hơn là
vì, nói chung, ông đã cho mọi người rất ít cơ hội để đánh giá mình. Với mỗi một
tập thơ, ông lại mở rộng và củng cố được vị trí của mình, nhưng chuỗi các tập
thơ mới kế tiếp nhau lại không dài và chúng cũng cách nhau lâu hơn. Ngoài một
số sáng tác đã được đăng trước khi xuất bản thành tập, và một số được bổ sung
thêm trong các ấn bản sau này, Montale có tất cả bốn tập thơ được xuất bản kể
từ lần cho ra mắt tập thơ đầu tiên: Những cơ hội [Le Occasioni] (1939),
Cơn bão và những chuyện khác [La Bufera e altro] (1948), Satura
(1962), và Nhật ký năm ’71 và ’72 [Diario del ’71 e del ’72]. Với số
lượng tác phẩm khiêm tốn này, tiếp tục thu hút sự quan tâm của giới trẻ cả
trong nước lẫn trên toàn thế giới nói chung, là đủ để chứng tỏ giá trị thật sự
và ảnh hưởng lâu dài của chúng.
Điều này càng đáng chú ý
hơn khi mà thơ của Montale không phải dễ cảm nhận đối với độc giả. Sinh ra ở
Genua, ông luôn dành tình cảm chân thành của mình cho vùng đất quê hương phía
Bắc nước Ý. Nơi đây đã tạo nên một vốn sống cho hầu hết các sáng tác của ông.
Đó không phải là một thiên đường tắm nắng của vùng Riviera đang mời gọi trải ra trước mắt chúng
ta, mà là một bờ biển khúc khuỷu, dường như nó được vẽ theo những đường góc
cạnh của bờ biển Ligurian với sự tấn công dữ dội của biển cả vào những thành
trì bằng đá dốc thẳng đứng.
Việc hình ảnh bất khả xâm
phạm của những bờ biển đầy đá được dựng lên, và mô phỏng trong tác phẩm của
Montale, có ý nghĩa như là một giáo trình văn học. Ông hướng tới sự liên kết
với cái gọi là trường phái luyện đan trong nền thơ ca đất nước ông, từ đó ông
không chấp nhận những giọng thơ thương tâm và sự phô trương hoa mỹ mà hầu hết
mọi người cả trong lẫn ngoài nước Ý đều thích nghe. Hình ảnh bất khả xâm phạm
trong thơ ông, không chỉ là vấn đề hình thức văn chương mà còn là một thái độ
tinh thần, một sự cần thiết trong tâm hồn, một nhân sinh quan. Ông không thể
hiện sự phản đối thông qua những phương pháp nghệ thuật nhất định, mà qua quan
điểm của chính ông - trong phạm vi này, cũng là quan điểm của mọi người trong
thời buổi hiện đại. Nhìn từ bên ngoài, thực ra là ông tìm kiếm sự riêng tư chứ
không phải là đang đối phó, và sự tách biệt khỏi môi trường xung quanh ông là
một biểu hiện của tính bi quan sâu sắc, chứ thực sự không phải nói lên sự phủ
nhận. Thật vậy, thơ của Montale đã được thể hiện như thế. Nhưng muốn nắm bắt
được ý nghĩa của thái độ phủ nhận, chúng ta chỉ cần nhớ lại những điều mà Montale
đã chối bỏ. Ông chưa bao giờ muốn đi cùng với thới đại của mình. Trong chiến
tranh thế giới I, với tư cách một sĩ quan, ông đã tham gia cuộc chiến chống lại
quân Áo; không giống như nhiều cây bút đồng nghiệp tại mặt trận, ông không làm
thơ về chiến tranh, ông chẳng thấy gì mang tính giáo dục và tốt đẹp trong
chuyện chết chóc. Được giải ngũ, ông trở về quê hương, về lại với một nước Ý
tan rã. Lúc tập thơ đầu tiên của ông ra đời thì Mussolini đã lên cầm quyền.
Montale không để ông bị lôi cuốn bởi những hiệu lệnh kích động, từ chối tham
gia các đảng phái, bị mất việc làm và thiếu phương tiện sinh sống, hiểu rõ
những nỗ lực trong lĩnh vực văn chương của chính mình sẽ bị cản trở và hủy
hoại, và ông đã phải kiếm sống bằng nghề dịch thuật. Trong sự cô độc của mình,
ông đã kiên trì và không nản lòng thực hiện đến cùng tác phẩm của mình, một
“thuật luyện đan”, nếu như điều đó có thật. Biết được điều này, chúng ta tự nhủ
rằng nếu chúng ta không có khả năng chối bỏ, chúng ta sẽ mất tất cả. Có một sự
phủ định không phải dựa trên việc căm ghét con người mà dựa trên cảm xúc không
thể xóa nhòa đối với giá trị cuộc sống và chân giá trị của con người. Đó chính
là điều đã mang đến sức mạnh bẩm sinh cho thơ của Eugenio Montale.
1976 – SAUL BELLOW
(Mỹ, 1915 - 2005)
Saul Bellow phát biểu tại Hội chợ Sách quốc tế Miami
năm 1990
Khi Saul Bellow xuất bản
cuốn sách đầu tiên của mình, đó là lúc đã có sự thay đổi về mặt xu thế và thế
hệ trong nghệ thuật văn kể truyện của nước Mỹ. Cái gọi là văn phong chai cứng,
với giọng văn rắn rỏi và lời văn dồn dập, giờ đây đã dịu xuống thành một kiểu
văn phong bình thường gây tác động một cách tự nhiên. Một số ít những từ cứng
nhắc, khô khan của phong cách cũ không những ít được nhắc đến mà hầu như không
còn nhận thấy và không còn được sử dụng nữa. Tác phẩm đầu tiên của Bellow, Người
lơ lửng [Dangling Man] (1944), là một trong những dấu hiệu báo trước một
điều gì khác có thể với tới được.
Trong trường hợp của
Bellow, việc thoát ra khỏi phong cách chuẩn mực trước đây đã xảy ra theo hai
giai đoạn. Đầu tiên, ông quay trở lại hướng suy nghĩ kinh điển đã có sẵn theo
kiểu Maupassant, Herry James, và Flaubert. Những người thầy mà ông noi theo để
tự thể hiện mình một cách thận trọng, cũng như những người thầy ông đã quay
lưng lại. Nhưng điểm nhấn của tác phẩm lại nằm ở chỗ khác. Cái mang đến sự thú
vị cho một câu chuyện không phải là diễn biến đầy kịch tính, đôi lúc mang tính
bạo lực, mà là cái sinh khí được tỏa ra từ trong bản thân tâm hồn của nhân vật
chính. Với tầm nhìn như thế, những nhân vật nam và nữ chính trong tiểu thuyết
có thể được xem xét đánh giá, hiểu rõ bản chất và bộc lộ được cá tính mà không
cần phải tô điểm thêm. Nhân vật phản diện của thời nay đã xuất hiện và Bellow
trở thành một trong những người chú tâm đến anh ta.
Theo đó, Người lơ lửng,
người không có chỗ đứng trong xã hội, đã trở thành một mật mã riêng đầy ý nghĩa
trong văn phong của Bellow, và cứ được sử dụng như thế ở một mức độ không nhỏ.
Ông tiếp tục đeo đuổi con đường mình đã vạch ra với cuốn tiểu thuyết kế tiếp, Nạn
nhân [The Victim] (1947) và những năm sau đó là Nắm lấy ngày [Seize
the Day] (1956) với sự nhuần nhuyễn chín muồi. Với sự tinh thông mẫu mực về chủ
đề và văn phong, cuốn tiểu thuyết sau cùng này đã được phong tặng là một trong
những tác phẩm kinh điển trong thời đại chúng ta.
Nhưng với tác phẩm thứ ba
trong tổ hợp các tác phẩm có cấu trúc chặt chẽ theo phong cách riêng này, dường
như cuối cùng Bellow đã quay ngược lại để hoàn thành một số điều mà chính ông
từng bỏ qua. Trong giai đoạn thứ hai, giai đoạn quyết định, ông đã rời khỏi
trường phái sáng tác này, ở đó hình thức nghiêm ngặt và cấu trúc khép kín không
đóng vai trò cho nguồn tư tưởng đang cần được khai phá, phương pháp nghệ thuật
châm biếm đang loé sáng, trò hài kịch vui nhộn và niềm say mê mãnh liệt mà ông
biết mình luôn có, và ông cần phải thử vận dụng xem nó mạnh đến mức nào. Kết
quả là một điều hoàn toàn mới; sự pha trộn của chính Bellow giữa thể loại tiểu
thuyết phiêu lưu phong phú và sự phân tích tinh vi về nền văn hóa của chúng ta,
về những chuyến phiêu lưu thú vị, về những tình tiết quyết liệt và bi thảm
trong chuỗi các sự kiện nhanh chóng kế tiếp nhau, được đặt xen kẽ với những lời
đối thoại cùng người đọc mang tính triết lý và rất thú vị, tất cả đã được khai
thác bởi người dẫn chuyện với một giọng điệu hóm hỉnh và sự hiểu biết tường tận
về những điều phức tạp bên trong và bên ngoài tâm hồn, những điều dẫn dắt hoặc
ngăn ngừa chúng ta hành động và có thể gọi là tính mâu thuẫn của thế hệ chúng
ta.
Bellow (trái) với nhà văn người Bỉ - Keith Botsfort, 1992.
Tác phẩm đầu tiên của giai
đoạn mới này là Những cuộc phiêu lưu của Augie March [The
Adventures of Augie March] (1953). Ngay tên tác phẩm đã thể hiện được thể loại
chuyện phiêu lưu, và trong cuốn tiểu thuyết này có lẽ chúng ta thấy rõ nhất mối
quan hệ đó. Nhưng ở đây, Bellow đã tìm được phong cách riêng, và giọng văn đó
lặp lại trong chuỗi những tiểu thuyết tạo nên phần lớn công trình sáng tác của
ông: Henderson Vua Mưa [Henderson the Rain King] (1959), Herzog
(1964), Hành tinh của Ô. Sammler [Mr. Sammler’s Planet] (1970), và Quà
tặng của Humboldt [Humboldt’s Gift] (1975). Cấu trúc của các tác phẩm này
khá lỏng lẻo, nhưng chính vì vậy đã tạo đầy đủ cơ hội cho tác giả mô tả những
xã hội khác nhau, chúng có được khí lực và tính chính xác hiếm thấy. Một dàn
nhân vật mang đủ các loại tính cách và được định hình rõ ràng trên nền tảng
những khung cảnh được quan sát và mô tả kỹ càng, dù ở trong những khu tráng lệ
của Manhattan đối diện với mặt sau của các khu nhà ổ chuột và bán ổ chuột,
trong những sào huyệt khó xâm nhập ở Chicago của các nhà kinh doanh vô liêm sỉ
cấu kết với các băng nhóm tội phạm lỏi nghề, hoặc những khu rừng theo nghĩa đen
ở những vùng sâu thẳm của châu Phi, nơi mà cuốn Henderson Vua Mưa, ghi
lại cuộc thám hiểm mang tính tưởng tượng cao nhất của tác giả. Tựu trung, chúng
là những câu chuyện về sự vận động, và cũng như cuốn đầu tiên, về một người
không có chỗ đứng trong xã hội. Nhưng, cần phải nói thêm, đó là một người mãi
kiếm tìm một chỗ đứng trong khi lang thang trong thế giới chao đảo của chúng
ta, một người không bao giờ có thể từ bỏ niềm tin rằng giá trị cuộc sống phụ
thuộc vào phẩm giá, chứ không phải sự thành công của nó, và sự thật cuối cùng
phải chiến thắng, đơn giản vì nó đòi hỏi mọi thứ ngoại trừ chiến thắng. Đó là
cách suy nghĩ mà qua đó các nhân vật phản diện của Saul Bellow có chỗ đứng
riêng và giành được vị trí lâu dài trong lòng người đọc.
Khi Vicente Aleixandre
công bố tập thơ đầu tiên của mình năm 1928, Ambito, ông đã cộng tác chặt
chẽ với tư cách cá nhân cùng với các nhà thơ đầy tài năng Tây Ban Nha, những
người đã mang đến cho kỷ nguyên này cái tên gọi “Thời kỳ hoàng kim thứ hai”
trong lĩnh vực văn chương của nước này. Quan niệm về bản chất thơ ca và trong
phương thức diễn đạt của mình, nhóm nhà thơ sôi nổi này đã có một vài điểm
tương đồng với chủ nghĩa siêu thực đã ra đời tại Pháp và lan truyền những biểu
hiện của nó từ đó. Các nhóm văn chương người Iberi dĩ nhiên thích khẳng định sự
độc lập của mình hơn, và tạo nên một giới tuyến trong lĩnh vực văn chương với
người Pyrene. Họ đồng chủng nhưng không đồng điệu, và ở phía Nam biên giới
này, sự khác nhau càng được thể hiện rõ bởi việc gọi bằng những cái tên khác
với những tác động tương ứng trong văn phong - như là chủ nghĩa cực đoan,
thuyết sáng tạo. Cũng có những điều giống nhau được thừa nhận và những thuật
ngữ Goloa được chấp nhận, nhưng sự thu nạp lại được diễn đạt theo cách thách
thức: chủ nghĩa siêu thực Tây Ban Nha đã mang đến cho chủ nghĩa siêu thực Pháp
cái nó thiếu – đó là một nhà thơ. Nhà thơ được nói đến chính là Vicente
Aleixandre.
1977 – VICENT ALEIXANDRE
(Tây Ban Nha, 1898 – 1984)
Chân dung Vicente Aleixandre, 1977.
Thực sự là có đầy đủ lý do
cho việc tranh chấp biên giới trong lĩnh vực văn chương. Có thể giải thích rằng
tư tưởng của người Tây Ban Nha không chỉ là theo một hướng khác, mà còn có
nguồn gốc khác. Khi mà thế hệ của các nhà văn Tây Ban Nha cực kỳ triển vọng này
tụ họp với nhau, để tạo ấn tượng cho cú đột phá của họ tại một buổi lễ thu hút
sự chú ý của công luận do chính họ tổ chức nhân kỷ niệm 300 năm ngày mất của
thi hào Góngora, thì không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà họ làm thế. Họ
cùng sử dụng chung những hình tượng được tô vẽ quá mức, và phương pháp nói bóng
gió quanh co của những nhà văn siêu thực Pháp, nhưng ở một cấp độ ngang nhau,
với việc sử dụng phong cách nghệ thuật Barôc, đặc biệt là trong các biến thể
Tây Ban Nha của nó. Hơn nữa, một mặt là thiên hướng xem xét sự việc quá tỉ mỉ và
thích sử dụng phép tương phản rõ rệt, mặt khác là thiên hướng theo những mô-típ
đời thường - những điều này đã thể hiện rất rõ đặc điểm của phương pháp sáng
tác hiện đại Tây Ban Nha, dựa trên sự lưu truyền của nó từ thời kỳ hoàng kim
đầu tiên - đã thực sự không tương hợp với cách viết như máy “l’écriture
automatique”, một tín điều căn bản trong học thuyết mới bắt nguồn từ sông
Seine. Và một vài người Tây Ban Nha đã nói lên sự ngờ vực của họ về hình thái
cảm nhận và truyền đạt này; Aleixandre đã và đang nằm trong số những người đó.
Tập thơ đầu tiên của ông
ra mắt một năm sau lễ kỷ niệm Góngora. Điều này nói lên rằng ông không phải là
một trong những người đi đầu cho phong trào thay đổi quan điểm trong thơ ca Tây
Ban Nha; và cho thấy thời gian vừa qua phong trào đã có sự tiến triển tốt đẹp.
Nhưng ông thực sự là một trong số những người theo quan điểm mới. Ông đã viết
bài cho những tờ báo của họ và là đồng nghiệp của họ. Chính sự đổi mới không
ngừng là đặc điểm của Aleixandre trong lĩnh vực văn chương chứ không phải sự
sớm phát triển của thơ văn ông. Ngay lập tức ông đã giành được chỗ đứng trong
nhóm các nhà thơ, và đó chính là chỗ của ông. Theo thời gian, điều này ngày
càng được khẳng định và vị trí của ông ngày càng trở nên nổi bật. Chúng ta có
thể nhận thấy điều đó qua khả năng sáng tác dồi dào của ông, với những kiệt tác
như Hủy diệt hay Tình yêu [La destrucción o el amor] (1935), Bóng
Thiên Đường [Sombra del paraiso] (1944), Sinh lần cuối [Nacimento
último] (1953), và tác phẩm có lẽ là quan trọng nhất Trong lãnh thổ bao la
[En un vasto domonio] năm 1962.
Không có công thức nào để
tóm tắt được hết sự phát triển không ngừng của lối thơ này, xét cả về mặt thời
gian lẫn trong việc lựa chọn chủ đề. Nhưng nếu chúng ta tìm kiếm một ấn tượng
thường xuyên, một chủ đề xuyên suốt nổi lên trong tác phẩm của Aleixandre trong
những giai đoạn khác nhau, và theo nhiều cách thể hiện khác nhau, thì chúng ta
có thể nói đó là một sức mạnh để được sống. Điều này cũng đúng trong cuộc đời
thường của ông, đúng đối với sự tồn tại của bản thân ông. Vào năm 1925, ba năm
trước khi ông được công chúng biết đến, ông đã mắc bệnh lao thận rất nặng và vô
phương cứu chữa; kể từ đó ông nằm liệt
giường và không thể rời khỏi chỗ bàn làm việc của mình. Nội chiến xảy đến, và
từ nơi đang nằm, ông nghe thấy tiếng bom nổ. Khi chiến tranh qua đi, những
người bạn cùng với đồng nghiệp của ông lâm vào cảnh bị đày ải, họ đã phải để
lại sau lưng một con người bị tàn phế. Nhưng ông cũng đã sống qua được chế độ
độc tài của Franco một cách thầm lặng, mà chưa bao giờ chịu phục tùng, và vì
thế ông đã trở thành một điểm tựa và là một nhân vật chủ chốt giữa những gì còn
được giữ lại trong đời sống tinh thần người dân Tây Ban Nha.
Là một mẫu người được kính
trọng, và là một người dẫn đường, mỏng manh nhưng không dễ vỡ, Aleixandre đã
cho thấy ngay trong tác phẩm của ông một sức mạnh giống như thế để sống, và hơn
thế nữa, để luôn tự đổi mới, luôn tìm tòi những phương cách và mô-típ khác.
Nguồn cảm hứng của ông chưa hề giảm sút mà cũng chưa hề khô cạn - ngược lại, ông
đã đạt tới một phong cách thể hiện giản dị và một sự cởi mở thân thiện đối với
cuộc sống và cả với người đọc, điều mà trước đây ông đã không thể đạt đến hoặc
là đã không cố phấn đấu để đạt đến.
1978 – ISAAC BASHEVIS SINGER
(Mỹ- Ba Lan, 1904 – 1991)
Chân dung nhà văn
Singer sinh ra trong một ngôi làng nhỏ phía Đông Ba
Lan và lớn lên trong một khu dân cư nghèo và đông đúc của người Do Thái, thuộc
vùng Warsaw vào thời điểm trước và trong Thế Chiến thứ I. Cha của Singer là một
giáo sĩ Do Thái rất mộ đạo, theo trường
phái Hasid, một nhà cố vấn tinh thần cho một nhóm đủ hạng người cần sự giúp đỡ
của ông. Ngôn ngữ của họ là tiếng Yđit – ngôn ngữ của một dân tộc nghèo khổ và
của những người sơ khai, có nguồn gốc xa xưa thời trung cổ cùng với sự du nhập
từ nhiều nền văn hóa khác nhau mà dân tộc này đã tiếp xúc, qua nhiều thế kỷ họ
đã bị phân tán rải rác ở nước ngoài. Đó chính là ngôn ngữ của Singer. Và là một
kho chứa đầy những câu chuyện truyền thuyết và những giai thoại, sự khôn ngoan,
những điều mê tín và những ký ức của quá khứ kéo dài hàng trăm năm xuyên suốt
một lịch sử, mà dường như không thiếu
thứ gì không được thử thách qua những nguy hiểm và tai họa. Tín ngưỡng của đạo
Hasid là một dạng tín ngưỡng duy thần phổ biến của người Do Thái. Nó có thể
biến thành sự e dè và lòng trung thành mù quáng và tuyệt đối vào luật lệ qui
định. Nhưng nó cũng có thể mở rộng ra hướng tới sự điên cuồng say sưa quá đáng
và những phấn khích hoặc ảo giác như là vị cứu thế.
Thế giới ấy là thế giới của dân Do Thái Đông Âu. Thế
giới ấy đã sống dậy trong các tác phẩm của Singer, trong những giấc mơ khuấy
động, sáng suốt và không ảo tưởng nhưng cũng tràn ngập tư tưởng phóng khoáng và
lòng trắc ẩn không vương chút ủy mị. Sự tưởng tượng và thực tế luôn thay đổi
hình dạng. Khả năng liên tưởng trong cảm hứng của Singer luôn được chứng nhận
bởi thực tế, và thực tế đã được nâng lên bởi những giấc mơ và trí tưởng tượng,
đưa nó vào thế giới siêu nhiên, ở đó không có gì là không thể và cũng không có
gì là chắc chắn.
Singer bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình ở Warsaw trong những năm
giữa hai cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, các tác phẩm đầu tay của Singer không
phải là những tiểu thuyết lớn mà là những truyện ngắn và truyện vừa. Tiểu
thuyết Satan ở Goray [Satan in Goray] ra mắt vào năm 1935, thời kỳ mà sự
khủng bố của Đức Quốc xã đang đe dọa và ngay trước khi tác giả di cư đến Mỹ, ở
đó ông đã sống và làm việc cho đến khi mất (1991). Tác phẩm đề cập đến một đề
tài mà Singer thường tái hiện bằng nhiều cách khác nhau – một Đấng Cứu thế giả
mạo với những thành công và kỹ xảo làm say mê lòng người, đám đông cuồng loạn
vây xung quanh ông ta, sự sụp đổ của ông ta và sự tan vỡ những ảo vọng trong
cảnh nghèo khó và giữa những ảo vọng mới hình thành, hay trong sự ăn năn và sự
thanh khiết. Câu chuyện trong tác phẩm Satan ở Goray xảy ra vào thế kỷ
XVII sau sự việc tàn phá thảm khốc của người Cossack với những hành động tàn
bạo và tàn sát vô số dân Do Thái và những sắc dân khác. Tác phẩm đã đoán trước
được điều sẽ xảy đến trong thời đại chúng ta. Những người dân này không hoàn
toàn xấu xa mà cũng không hoàn toàn tốt đẹp. Họ bị ám ảnh và bị quấy rối bởi
những điều họ không thể kiểm soát được, bởi sự bắt buộc của hoàn cảnh và bởi
những cảm xúc mạnh mẽ của chính họ – một cái gì đó xa lạ mà cũng rất gần gũi.
Đây là điểm đặc trưng trong quan điểm Singer về nhân
loại – một sự sáng tạo mạnh mẽ và luôn biến đổi về nỗi ám ảnh, một tiềm năng
hủy diệt nhưng cũng cháy bỏng và đầy sáng tạo - về những xúc cảm và sự phong
phú dị thường của các hình thái biến đổi của chúng. Những cảm xúc mạnh có lẽ là
những cái có nhiều hình thái khác nhau nhất – thường là nhục dục nhưng cũng có
khi là những hy vọng và những mơ ước cuồng tín, những điều bịa đặt kinh hoàng, sự
cám dỗ của lòng ham muốn hoặc của quyền lực, những cơn ác mộng đầy nỗi thống
khổ. Ngay cả tình trạng buồn chán cũng có thể trở thành một cảm xúc vô tận, như
với nhân vật chính trong tiểu thuyết phiêu lưu bi hài Thầy Phù thủy [The
Magician of Lublin] (1961), một kẻ lừa bịp và là một kiểu Don Juan Do
Thái, người mà cuối cùng trở thành một nhà tu khổ hạnh hay một vị thánh. Có
cùng một ý nghĩa và một kiểu nhân vật với tác phẩm này là tác phẩm Nô lệ
[The Slave] (1962), đây thực sự là một giai thoại về một tình yêu trọn đời và
chung thủy đã trở nên một sự gượng ép, buộc phải giả dối dù vẫn còn thanh
khiết, nặng mang trong lòng dù vẫn ngọt ngào, thánh thiện nhưng mang mầm mống
của sự hổ thẹn và giả dối. Thánh nhân và kẻ lừa bịp có họ hàng không xa nhau
mấy.
Singer có lẽ đã cho thấy khả năng tuyệt vời nhất của
ông như là một người kể chuyện xuất chúng và là một nhà văn có phong cách riêng
biệt trong các truyện ngắn và trong các truyện vừa dị thường và có nhịp điệu,
những tác phẩm này đã được dịch sang tiếng Anh thành khoảng mười hai tuyển tập.
Nỗi đam mê và sự điên loạn được nhân cách hóa trong những truyện kể kỳ lạ này
thành những yêu quái, những bóng ma và oan hồn, tất cả những gì có sức mạnh ghê
gớm hoặc siêu nhiên trong kho tàng phong phú của tín ngưỡng chung của người Do
Thái hoặc lấy từ sự tưởng tượng của chính ông. Những bóng ma này không chỉ là
những hình tượng văn chương sinh động mà còn là những sức mạnh hiện hữu rất
thực. Thời đại Trung cổ dường như được tái hiện lại trong tác phẩm của Singer,
sự việc hàng ngày xung quanh chúng ta được đan xen với những điều kỳ lạ, thực
hư lẫn lộn, sự kiện đẫm máu trong quá khứ được làm sống lại trong hiện tại. Đây
chính là lãnh vực mà nghệ thuật kể chuyện của Singer ghi được những thành tựu
to lớn nhất và mang đến một kinh nghiệm đáng học hỏi về một thể loại truyện độc
đáo sâu sắc, đau buồn nhưng cũng rất thú vị và mang tính giáo dục. Rất nhiều
nhân vật của ông bước vào ngôi đền Pantheon của văn học với uy thế không thể
tranh cãi, nơi mà những người bạn đồng hành bất tử và những nhân vật thần thoại
đang sống, nơi bi kịch và lố bịch, khôi hài và cảm động, kỳ lạ và tuyệt vời -
những con người của mơ mộng và dày vò, của hèn hạ và cao thượng…
1980 – CZESLAW MILOSZ
(Mỹ và Ba-lan, 1911 -
2004)
Milosz tại Hội chợ Sách quốc tế Miami,
1986
Milosz
lớn lên ở thị trấn Vilna thuộc Ba Lan và đã được học hành tại đó. Ông sớm quan
tâm đến lĩnh vực văn chương và là một trong những nhà văn hàng đầu của thế hệ
các nhà văn trẻ, những người muốn phục hưng nền thơ ca, và vì mối nguy cơ đe
dọa mạng sống của mình đã chủ động tham gia vào phong trào tự do bí mật chống
lại sự áp bức của phát-xít. Là một thành viên trung thành của phong trào xã hội
chủ nghĩa, ông đã lãnh hội được cái tinh túy nhất về mặt tri thức và chính trị
của nước Ba Lan mới, cuối cùng trở thành một viên chức đáng tin cậy và một nhà
văn hóa đại diện cho quê hương ông ở nước ngoài. Tuy nhiên, tình hình chính trị
thay đổi trong suốt cuộc chiến tranh lạnh, nên năm 1951 ông rời Ba Lan, định cư
ở Paris với tư cách là một “nhà văn tự do” - một thuật ngữ không thể tránh khỏi
ngụ ý châm biếm. Năm 1960 ông chuyển đến nước Mỹ với tư cách là một giảng viên
về văn học Ba Lan tại trường Đại Học Berkeley, California. Nguồn gốc của ông ở
Ba Lan và những mối liên kết giữa ông với đời sống tinh thần của đất nước này
tuy vậy chưa hề bị phá vỡ.
Milosz
là một nhà văn trí thức đã được đào tạo về triết học và lịch sử ý thức hệ, và
cũng hiểu biết không kém về tư tưởng Công giáo, phần nào làm ta nhớ lại sự uyên
bác và trí óc sắc bén của người đồng hương và là họ hàng của ông - Leszek
Kolakowski. Văn phong của ông rất uyên bác và mang tính biện chứng - có nhiều ý
kiến và trích dẫn, mô phỏng và châm biếm, nhiều chỗ phá cách và phá vỡ các vai
trò nhân vật, có cấu trúc văn phức tạp. Nhưng ông cũng là một nhà văn chuyên
viết về những khoái cảm xác thịt. Ông nổi tiếng là một nghệ sĩ lớn về ngôn ngữ,
do vậy thơ của ông chỉ được đánh giá cao bởi những người biết đọc tiếng Ba lan.
Người ta không thể mong đợi tìm thấy trong bản dịch sự tái hiện chính xác những
điểm mang tính âm nhạc và nhịp điệu, những điểm mang tính nhục dục trong ngôn
từ. Nhưng sự khoái lạc mang tính xác thịt thuộc về bản chất của thơ ông thì
luôn được thể hiện nguyên vẹn. Hình tượng nhân vật của ông mang yếu tố bất ngờ
mà chỉ bằng sự từng trải mới có thể viết ra được - yếu tố bất ngờ này thường có
được nhờ óc tưởng tượng hoặc từ ký ức. Khả năng hiểu biết rộng - đôi khi gọi là
sự sành đời - của Milosz chứa đựng một sự đối lập rõ ràng giữa tính trong sáng
trong nó và cái được cho là niềm đam mê xác thịt này. Tuy nhiên, nhà văn tha
hương Milosz không phải hoàn toàn tách rời khỏi quê mẹ. Trong sự gần gũi với
hiện thực cụ thể cũng như trong tình bằng hữu và những tình cảm truyền thống
giữa người với người, ông đã tìm được một nơi dừng chân và một biện pháp hòa
hợp như là một vật để chống đỡ lại những thế lực phá hoại thống trị trên thế
giới buộc chúng ta phải làm những điều ngược lại với mong muốn của mình. Đặc
điểm cuộc sống của ông có thể được mô tả giống như mối quan hệ giữa sự xa cách
và sự hiện hữu. Mối quan hệ giữa ông và quê hương mới của mình giống y như vậy,
nơi đây sau 20 năm ông vẫn là một người nước ngoài với ngôn ngữ và cội nguồn xa
lạ - nhưng đồng thời cũng đã được thừa nhận và được sát nhập vào một mối quan hệ bạn bè mới đang tồn tại; ông là
một nhà văn phải có người phiên dịch mới hiểu và là một người luôn được thông
cảm và coi trọng mặc dù là, dĩ nhiên, điều này được thể hiện thông qua một con
đường gián tiếp và với một sự diễn dịch không hoàn toàn chính xác. Ông hiểu rõ
điều đó, thực ra đây mới là điều liên quan đến tất cả chúng ta, bất kể có phải
là nhà văn hay không.
Milosz, 1998.
Sự
đa dạng phong phú và sức lôi cuốn mạnh mẽ là những dấu ấn trong tác phẩm của
Milosz. Đồng thời là sự châm biếm tương phản và cô đọng ngôn từ được điềm tĩnh
chắt lọc từ những điều rất đơn giản và đang tồn tại - tồn tại một cách diệu kỳ
khiến cho văn của ông có nhiều âm thanh và kịch tính, mạnh mẽ và kích thích.
Điều này không chỉ đúng với thơ mà với cả văn xuôi của ông - đó là những tiểu
thuyết, những bài phân tích và các bài luận văn nhiều khía cạnh - đúng theo mọi
nghĩa của từ này - mà có lẽ đã bị quên lãng bởi sự mến mộ đặc biệt đối với các
bài thơ của ông.
Czenlaw
Milosz là một nhà văn khó tính, theo nghĩa hay nhất của từ này - phức tạp và
uyên bác, thách thức và đòi hỏi, đổi thay giữa nhiều trạng thái và mức độ khác
nhau, từ bi thương đến căm giận, từ cái trừu tượng đến cái cực kỳ cụ thể. Ông
là một tác giả có tầm quan trọng rất lớn - bởi khả năng làm say đắm lòng người,
đầy sức lôi cuốn và những rắc rối phức tạp trong thơ…
Mộ của Elias Canetti ở Áo.
1981 – ELIAS CANETTI
(Áo, gốc Bungary - 1905 – 1994)
Chân dung nhà văn
Elias Canetti luôn công
khai biểu lộ tình cảm sâu xa nhất của mình với nền văn hóa cổ điển của Đức. Ông
rất kính trọng Goethe. Những gì ông được hưởng từ Goethe đối với ông là một liều thuốc thần. Năm 1935, khi 30
tuổi, ông xuất bản quyển tiểu thuyết Die Blendung và được hai nhà văn
Đức là Thomas Mann và Herman Borch đánh giá cao, - chưa kể trước đó ông đã in
một vở kịch và một quyển tiểu thuyết. Die Blendung sau này được dịch sang tiếng Anh với tựa đề Auto-da-Fé
(1946) và xuất hiện ở Mỹ mang tên Tháp Babel
(1947).
Die Blendung là một trong chuỗi tiểu thuyết có cùng một chủ đề
“tấn trò đời của người điên” theo dự định ban đầu của tác giả. Tác phẩm mang
yếu tố điên cuồng và kỳ quái khiến người đọc liên tưởng đến những nhà văn Nga
thế kỷ 19 như Gogol và Dostoievsky – những người mà Canetti đã thừa nhận rằng
ông nợ họ món nợ tinh thần. Cảnh chính của những sự kiện khủng khiếp và kệch
cỡm mà tác phẩm vạch trần là một căn hộ ở Vienna. Đó là một khía cạnh quan
trọng mà nhiều nhà phê bình cho rằng Die Blendung là một ẩn dụ độc lập
cơ bản về sự đe dọa được thực hiện bởi “con người đại chúng” tồn tại trong mỗi
chúng ta. Bên cạnh đó là một quan điểm làm cho tác phẩm nổi bật lên như một
nghiên cứu về kiểu người tự cô lập mình trong lãnh vực chuyên môn một cách tự
mãn - ở đây là nhà Hán học Peter Kien bị sách vở bao vây – chỉ vì bất lực không
chống chọi nổi một thế giới đầy những thực tế khắc nghiệt, nhẫn tâm.
Die Blendung mở đường cho một nghiên cứu quan trọng về những mô
hình dòng dõi, thành phần và phản ứng của những hoạt động đại chúng mà Canetti,
sau nhiều năm tìm tòi và nghiên cứu, đã xuất bản tác phẩm Đám đông và Quyền
lực [Masse und Macht] (1960). Đây là một công trình nghiêm túc của một nhà
đa sử học, biết cách khám phá một số lượng lớn những quan điểm về hành vi ứng
xử của con người với tư cách là con người đại chúng. Đặc biệt, Canetti đã
nghiên cứu các dân tộc sơ khai, huyền thoại và những câu chuyện thần tiên của
họ để cố xác định đặc tính những hoạt động mang tính đại chúng. Trong lãnh vực
này, ông không chỉ giới thiệu quần chúng có thực mà còn giới thiệu quần chúng
không có thực: quần chúng của “thần linh”, “thiên thần” và “ma qủi” đều là
những yếu tố quan trọng trong nhiều tôn giáo. Ông khảo sát tỉ mỉ bản chất và ý
nghĩa của những biểu tượng trong các cộng đồng dân tộc. Với khả năng nhạy bén,
ông đã làm sáng tỏ những vấn đề tâm lý của người ra lệnh và người phục tùng.
Theo Canetti, ẩn sau mỗi mệnh lệnh, mỗi việc thực hiện quyền lực, là mối đe dọa
của cái chết. Sự tồn tại chính nó trở thành trung tâm của quyền lực. Cuối cùng,
kẻ thù trọng đại chính là cái chết: đây là một chủ đề nguyên lý, chiếm giữ bằng
một cường độ thảm hại một cách kỳ quặc, trong các tác phẩm văn chương của Elias
Canetti.
Ngoài tác phẩm chuyên sâu
Đám đông và Quyền lực, Canetti còn tập trung viết cách ngôn và đã xuất bản
nhiều tập. Chúng thường bắt nguồn từ những tình huống cụ thể và có thể được xem
như những ẩn dụ dành cho một giống loài nào đó. Nét đặc trưng của những câu
cách ngôn này là nghệ thuật trào phúng sắc bén trong cách quan sát hành vi của
con người, sự kinh tởm chiến tranh và phá hủy, nỗi cay đắng khi nghĩ đến cái
ngắn ngủi của cuộc đời. Nhờ tài năng dí dỏm phong phú và văn phong hàm súc,
Canetti nổi bật lên như một trong những nhà viết cách ngôn lỗi lạc nhất trong
thời đại chúng ta, một con người mà, theo cách diễn đạt của ông để châm biếm
cuộc đời, đôi khi hồi tưởng đến những nhà văn châm biếm vĩ đại đi trước mình như
La Bruyere và Lichtenberg.
Đỉnh cao trong sáng tác
của Canetti là những hồi ký, có hai tác phẩm đồ sộ: Giải phóng ngôn ngữ
[Die gerettete Zunge] (1977) và Ngọn đuốc trong tai [Die Fackel im Ohr]
(1980). Trong những hồi ức về tuổi thơ và tuổi trẻ này, ông đã biểu lộ hết phạm
vi khả năng miêu tả mang tính sử thi mãnh liệt của mình. Phần lớn đời sống văn
hóa và chính trị của Trung Âu vào những năm 1900 – đặc biệt là bộ mặt xã hội ở Vienna – được phản ảnh
trong những hồi ký này. Những hoàn cảnh khác thường, nhiều số phận đặc biệt mà
Canetti đã đối mặt, và con đường giáo dục duy nhất của ông để luôn luôn đạt đến
một kiến thức chung đều hiện ra theo một phong cách điển hình, mang tính trong
sáng vốn có vài điểm tương đồng trong những hồi ký được viết bằng tiếng Đức ở
thế kỷ 20.
1982 - GABRIEL GARCÍA MARQUEZ
(Colombia, 1928 -
)
Chân dung García Marquez
García Marquez, người
Colombia, được thế giới biết đến như một nhà văn khi cho ra đời quyển tiểu
thuyết Trăm năm cô đơn [Cien anos de soledad] (1967). Tác phẩm đã được
dịch ra nhiều thứ tiếng và bán hàng triệu bảng, hiện giờ vẫn còn được tái bản
và sức hấp dẫn của nó không hề suy giảm đối với độc giả. Chỉ một tác phẩm thôi
mà thành công lớn lao đến như vậy, có thể là điều mà tác giả không ngờ đến. Tuy
nhiên, ông dần dần củng cố vị trí của mình như một người kể chuyện hiếm có,
được trời ban cho trí tưởng tượng và kinh nghiệm phong phú, dường như vô tận.
Chẳng hạn quyển tiểu thuyết giàu chất sử thi và phóng khoáng Mùa thu của
Trưởng lão [El otono del
patriarca] (1975) cũng có thể so sánh được với tác phẩm trên. Những tiểu thuyết
vừa như Ngài đại tá chờ thư [El coroner no tiene quiene le escriba]
(1961), Vào lúc rủi ro [La mala hora] (1962) và Ký sự của một cái
chết được báo trước [Crónica de una muerte anunciada] (1981) bổ sung hình
ảnh của một nhà văn biết kết hợp tài năng kể chuyện vô cùng phong phú với sự
tinh thông của một nghệ sĩ ngôn từ có lối hành văn thanh nhã, được tôi luyện
qua học hỏi cùng kinh nghiệm và hiểu biết rộng. Một số lớn truyện ngắn của ông
được in thành nhiều tuyển tập hay trên các tạp chí càng chứng tỏ tài năng cao
siêu của ông về lối kể chuyện. Mỗi tác phẩm của ông đều được các nhà phê bình
và độc giả đón nhận như một sự kiện quan trọng của thế giới, được dịch ra nhiều
thứ tiếng và xuất bản càng nhanh càng tốt với số lượng lớn.
Từ lâu, nền văn học Mỹ –
Latinh đã chứng tỏ sức mạnh trong vài lãnh vực hoạt động văn học khác, tạo được
nhiều tiếng vang trong đời sống văn hóa ngày nay. Nhiều bốc đồng và truyền
thống đối nghịch nhau. Văn hóa dân gian, gồm truyện truyền khẩu, truyện ký từ
văn hóa người Da Đỏ xa xưa, những dòng kể chuyện hoa mỹ từ trào lưu “baroque”
Tây Ban Nha trong nhiều kỷ nguyên khác nhau, những ảnh hưởng từ chủ nghĩa siêu
thực châu Âu và chủ nghĩa hiện đại khác được trộn lẫn vào một mẻ rượu gây men
cho cuộc sống và đậm đà hương vị, mà từ đó Garcia Márquez và những nhà văn
Spanish-American đã tìm thấy chất liệu và nguồn cảm hứng. Những xung đột mãnh
liệt của một bản chất chính trị – xã hội và kinh tế – đã làm tăng thêm nhiệt độ
bầu không khí trí thức. Như hầu hết các nhà văn quan trọng khác ở thế giới Mỹ
La-tinh, Garcia Márquez, về mặt chính trị, đã kiên quyết tự nguyện đứng về phía
nhân dân nghèo đói và yếu đuối chống lại sự áp bức trong nước và sự khai thác
nguồn lợi kinh tế của nước ngoài.
Garcia Márquez ký tặng tiểu thuyết
Trăm năm cô đơn cho độc giả ở Cuba.
Khi đọc những tiểu thuyết
nổi tiếng của Garcia Márquez người ta nhớ đến một William Faulkner. Ông đã tạo
ra một thế giới cho riêng mình về một thành phố tưởng tượng Macondo. Từ cuối
thập niên 1940, những tiểu thuyết và truyện ngắn của ông đã đưa chúng ta đến
nơi chốn kỳ lạ này, ở đó huyền thoại và thực tế hòa quyện vào nhau – khả năng
tưởng tượng của ông luôn phiêu diêu nơi những chân trời không thực, những
truyện kể dân gian truyền thống và những sự kiện, những lời nói bóng gió mang
tính văn học, xác thực, thỉnh thoảng, gợi ra những hình ảnh khó chịu, những mô
tả gần giống tính thực tế của một bài tường thuật. Cũng giống như Faulkner hay
Balzac, những nhân vật chính và nhân vật phụ giống nhau hiện ra bất ngờ trong
nhiều truyện khác nhau, nêu ra trạng thái bằng nhiều cách khác nhau – đôi khi
bằng những tình huống mang đầy kịch tính, đôi khi bằng chất hài hước và những
rắc rối kỳ cục mà chỉ có thể đạt được bằng trí tưởng tượng điên rồ nhất hay
bằng một thực tế trơ tráo. Những điều vô lý của chiến tranh cho phép lòng can đảm
thay đổi hình dạng với sự điên dại, điều ô nhục với tinh thần thượng võ, sự xảo
quyệt với sự ngu xuẩn. Thần chết có lẽ là người điều khiển quan trọng nhất đứng
sau những cảnh tượng trong thế giới khám phá và sáng tạo của Garcia Marquez.
Thường thường những truyện của ông vây quanh một người chết – một ai đó đã
chết, đang chết hay sẽ chết. Những tác phẩm của Marquez đều mô tả đặc điểm ý
nghĩa bi thảm của cuộc đời – một ý nghĩa về tính ưu việt bất biến của số phận
và sự man rợ, những cảnh tàn phá bất nhân của lịch sử. Nhưng nhận thức này về
cái chết và ý nghĩa bi thảm của cuộc đời bị phá vỡ bởi cách kể chuyện hầu như
bất tận, đầy sinh khí, mà diễn biến của nó, tiêu biểu cho sự khủng khiếp tức
thời và sức mạnh sống còn mang tính giáo dục của thực tế và chính cuộc đời.
Tính hài hước và tính lố bịch trong con người Garcia Marquez có thể là độc ác,
nhưng cũng phảng phất một sự hóm hỉnh chấp nhận được.
Với những truyện của ông,
Garcia Marquez đã tạo ra một thế giới của riêng ông, đó là thế giới vi mô.
Trong tính xác thực tuy có sức thuyết phục một cách sinh động, nhưng dữ dội và
gây hoang mang cho người đọc, nó phản ánh một châu lục cùng sự giàu có và nghèo
nàn của con người sống ở đó.
1983 – WILLIAM GOLDING
(Anh, 1911 – 1993)
Chân dung William Golding, 1983.
Tác phẩm đầu tiên của
William Golding Ruồi Chúa [Lord of the Flies] (1954) đã nhanh chóng nổi
tiếng trên thế giới cho đến nay. Nó được hàng chục triệu đọc giả đón đọc. Nói
một cách khác, đây là quyển sách bán chạy nhất; mà thường loại sách này trong
chừng mực nào đó chỉ dành cho những truyện phiêu lưu, đọc để giải trí và sách
thiếu nhi. Trường hợp quyển Nghi lễ
chuyến đi [Rites of passage] (1980) của ông cũng bán chạy như vậy.
Lý do thật đơn giản. Những
tác phẩm này đã gây cho người đọc hồi hộp và thú vị. Người đọc rút ra nhiều
điều thích thú và bổ ích mà không cần phải động não hay nhạy bén. Nhưng chúng
cũng gợi lên sự quan tâm bất thường đối với các nhà phê bình văn học, các nhà
văn, các học giả và nhà phiên dịch văn học chuyên nghiệp, những người tìm kiếm
và thấy được tầng lớp bí ẩn của sự mơ hồ và phức tạp trong tác phẩm của
Golding. Trong những tác phẩm này, ông sử dụng lợi khí của nghệ thuật kể chuyện
và ngôn ngữ, chúng đã kích động để suy nghĩ, phát hiện và sáng tạo của riêng
chúng, để khám phá thế giới mà chúng ta sống và an cư lạc nghiệp ở đó. Về
phương diện này, chúng ta có thể so sánh William Golding với nhà văn Anh
Jonathan Swift, người trở thành nhà văn vì sự uyên bác và dốt nát, hay nhà văn
Mỹ Herman Melville mà tác phẩm của ông ta đầy sự sâu sắc nước đôi và phiêu lưu
kỳ thú. Thực ra, sụ tương đồng này còn đi xa hơn thế nữa. Golding có cái nhìn
sắc sảo và ngòi bút sắc bén khi đụng đến sức mạnh của cái ác và tính hèn hạ
trong con người – hoàn toàn giống như Jonathan Swift. Và giống như Herman
Melville, ông luôn chọn đề tài và cốt truyện về biển cho những sáng tác của
mình, hay về những hoàn cảnh thách thức mà trong đó những con người lạc lỏng bị
xúi giục vượt quá những giới hạn của họ, vì vậy họ để lộ chân tướng của mình.
Những truyện của ông thường là một sự việc đầy kịch tính có cấu trúc rõ ràng,
hầu như một giai thoại, như cái sườn. Sau đó ông khoác lên những sự kiện đầy
kinh ngạc và những nhân vật đầy sắc thái với thay đổi phong phú gây hứng thú
cho người đọc. William Golding có thể nói là một nhà văn chuyên viết truyện
thần thoại. Đó là những mẫu chuyện truyền thuyết mà chúng ta thấy theo cách
viết của ông.
Chiến tranh thế giới thứ
II đã làm thay đổi quan điểm của ông. Ông khám phá ra những gì con người thực
sự có thể làm được cho người khác thì làm. Và đó không phải là vấn đề săn đầu
người ở New Guinea
hay những bộ lạc nguyên sơ ở vùng Amazon. Họ được ủy thác bởi những người có học vấn và văn hóa như bác
sỹ, luật sư – những người với truyền thống lâu dài của một nền văn minh cao
đứng phía sau họ – để thực hiện những hành động tàn bạo với tay nghề sắt lạnh.
Ông viết: “Tôi phải nói rằng ai đã trải qua những năm tháng này mà không hiểu
con người gây ra tội lỗi như một con ong làm mật thì hẳn là người mù hoặc trong
đầu có vấn đề”.
Golding đả kích những ai
nghĩ rằng hệ thống chính trị hay những hệ thống khác gây ra tội lỗi. Tội lỗi
bắt nguồn từ những sâu thẳm của chính con người – tính chất độc ác trong con
người đã tạo ra những hệ thống tội lỗi, hoặc nó làm thay đổi những gì trái với
đạo lý và hủy diệt mà từ khởi đầu là, hoặc có thể là, tốt đẹp.
Quan niệm về thế giới của
William Golding mang chiều hướng Cơ đốc giáo rất mạnh. Dường như ông tin vào
ngày Chúa tái thế. Có lẽ hơn thế, người ta cho rằng ông sáng tác bằng huyền
thoại của một Đấng tái thế. Trong vài truyện của ông, chủ yếu là tiểu thuyết Những
người thừa kế [The Inhertors] (1955), chúng ta tìm thấy một giấc mơ ở trạng
thái nguyên sơ vô nhiễm trong lịch sử loài người, một chủng loại thời tiền sử
hay dòng giống của loài động vật, nghèo nàn trong từ ngữ nhưng giàu hình ảnh và
sự giao tiếp không bằng lời, một sự yên bình tồn tại với những phụ nữ hay phái
nữ giữ vai trò lãnh đạo. Đấng Tái thế xuống trần bằng động lực của một chủng
loài mới. Sự hiểu biết tinh tường, tự khẳng định mình khát khao quyền lực và
chủ nghĩa cá nhân quá tự cao đều là nguồn gốc của tội lỗi và bạo lực cá nhân
cũng như bạo lực xã hội. Nhưng những đức tính và những động cơ này đều là bản
chất bẩm sinh của loài người. Vì vậy, chúng là một phần tính cách của ông và tự
chúng kết lại với nhau khi ông biểu lộ đầy đủ với chính mình và tạo thành những
xã hội và số phận riêng tư của ông.
Tuy nhiên, những tiểu
thuyết và truyện của William Golding không chỉ là những bài học đạo đức buồn
chán và những huyền thọai đen tối về tội ác và về những thế lực xảo tra, phá
hoại. Tác phẩm của ông mang đậm nét châm
chích hài hước, hí lộng và sự chế giễu quyết liệt. Thế giới hoang đường của ông
thật bi thảm và lâm li, nhưng chưa quá đáng và làm cho người ta chán nản, nó có
một đời sống phi thường hơn hoàn cảnh của cuộc sống.
Jaroslav Seifert với con gái Jana, 1931
1984 – JAROSLAV SEIFERT
(Tiệp-khắc, 1901 – 1986)
Jaroslav Seifert với con gái Jana, 1931
Jaroslav Seifert là nhà
thơ Tiệp Khắc xuất thân từ giai cấp vô sản. Ông chào đời trong khu vực của giai
cấp công nhân thuộc ngoại vi thủ đô Prague
và không hề đánh mất mối quan hệ cội rễ của mình. Khi còn là thanh niên ông tin
vào cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và viết những bài thơ tán dương cuộc cách
mạng này. Thơ của ông sáng sủa, hình như đơn giản và chân thật, mang những yếu
tố dân ca, cách diễn đạt quen thuộc và cảnh tượng từ cuộc sống hàng ngày. Ông
từ bỏ văn phong quá đà và chủ nghĩa hình thức của thời kỳ đầu. Cách diễn đạt
của ông mang đận nét nhẹ nhàng, gợi cảm, có vần điệu nhịp nhàng, tài khéo léo
sinh động và tính bông đùa xen lẫn sức truyền cảm, ngay cả tính chất bi ai.
Những nét đặc trưng này trong thơ ông không hề thay đổi. Tuy nhiên, ông không
phải là một nhà thơ ngây ngô. Ông là một nhà thơ luôn luôn có văn phong khoáng
đạt. Ngay khi bước vào con đường thi ca, ông đã có quan hệ chủ nghĩa hiện đại châu
Âu, đặc biệt với thơ Pháp, chủ nghĩa siêu thực và chủ nghĩa đa đa. Ông cũng là
bậc thầy về hình thức thơ truyền thống với những vần điệu phức tạp.
Những bài thơ thời trẻ của
Seifert đều mang ý nghĩa một cuộc giải phóng, hướng đến một tương lai không còn
chiến tranh, áp bức, mang đến niềm vui trong cuộc sống và vẻ đẹp trọn vẹn cho
mọi người, Thơ ca và nghệ thuật mới đạt được điều này. Những đòi hỏi và những
hy vọng của ông thể hiện lòng nhiệt thành của tuổi trẻ. Suốt những năm 20,
những hy vọng đó sắp được mãn nguyện – một nền văn học nghệ thuật tiên phong
phù hợp với công chúng. Nhưng trong suốt những năm 30 và 40 chân trời lại đen
tối. Thực tế của nền kinh tế và chính trị chứng tỏ không thể sống theo những
giấc mơ lạc quan. Thơ của Seifert đòi hỏi phải có những nét riêng mới – mang giọng
điệu trầm tỉnh hơn, gợi nhớ về văn hóa và lịch sử của đất nước ông, nhắc đến sự
bảo vệ số phận của tổ quốc và của những người đã gìn giữ nó, đặc biệt những văn
nghệ sĩ nổi tiếng của quá khứ. Ngay cả những ký ức và những kinh nghiệm hoàn
toàn cá nhân cũng đều liên quan đến nỗi buồn –
cuộc đời phù du, tình cảm con người luôn thay đổi, đoạn đời tạm bợ của
thời thơ ấu và tuổi trẻ rồi cũng qua đi, và những quan hệ tình yêu cũng không
có gì là trường cửu. Nhưng tất cả đều không phải là căn bệnh u sầu hay nỗi
luyến tiếc quá khứ trong tác phẩm của Seifert. Những nhận thức của ông luôn
luôn cụ thể và mới mẻ đồng thời những hình ảnh trong thơ ông không ngừng phát
triển. Ông đã viết nhiều bài thơ tình lãng mạng hay nhất, người đọc càng biết
đến tên tuổi ông nhiều hơn, tạo nền tảng vững chắc cho ông như một nhà thơ quốc
gia và bắt đầu được thế giới công nhận, mặc dù có sự bất lợi về loại ngôn ngữ
tương đối ít được biết đến ngoài đất nước ông.
Mộ của ông ở nghĩa trang
Kralupy nad Vltavou, Tiệp Khắc.
Ngày nay, nhiều người cho
rằng Jaroslav Seifert là hiện thân của nền thi ca Tiệp Khắc. Ông đại diện cho
tinh thần tự do, lòng say mê và sáng tạo, đồng thời được xem như cột trụ của
thế hệ về truyền thống văn học và văn hóa phong phú của đất nước ông. Ông đạt
được điều này một phần vì kiên quyết bảo vệ tự do trong văn nghệ và văn hóa,
nhưng phần chính là vì nét đặc trưng trong thơ ông. Ông ngợi ca một thủ đô Prague đang nở hoa và một
mùa xuân sống trong kỷ niệm, trong những niềm hy vọng hay tinh thần ngoan cường
của nhân dân từ chối khuất phục. Ông ca ngợi tình yêu và đúng là một trong
những nhà thơ tình thực sự vĩ đại trong thời đại chúng ta. Âu yếm, buồn rầu,
nhục dục, hóm hỉnh, khát khao và tất cả những cảm xúc mà tình yêu giữa con
người đem lại và hoàn thiện đề là chủ đề trong thơ ông. Ông ngợi ca người nữ –
những trinh nữ, sinh viên, những người không ai biết đến, cụ già, mẹ ông và
người yêu của ông. Người nữ, đối với ông, hầu như là một nhân vật huyền nhiệm,
một nữ thần tiêu biểu cho tất cả những gì đối nghịch với tính kiêu ngạo và khát
khao quyền lực của người nam. Tuy thế, nàng không bao giờ trở thành một biểu
tượng trừu tượng mà là một con người đang sống và có mặt trong những lời thơ
tươi mát và không theo một qui ước nào của ông. Ông đã gợi lên cho chúng ta một
thế giới khác hơn thế giới của bạo ngược và phá hoại – một thế giới tồn tại cả
ở đây lẫn bây giờ, mặc dù nó được bưng bít trước mắt chúng ta. Và thế giới đó
chỉ hiện hữu trong giấc mơ và nguyện vọng của chúng ta, trong nghệ thuật và
tinh thần bất khuất của chúng ta. Thơ của ông là một dạng gợi mở cho người đọc
– một hành động giải thoát.
1985 – CLAUDE SIMON
(Pháp, 1913 - 2005)
Chân dung Claude Simon
Claude Simon bắt đầu được
chú ý đến một cách nghiêm túc vào cuối thập niên 50 vì có liên quan đến phong
trào “tiểu thuyết mới” ở Pháp. Thuật ngữ này được giới thiệu bởi nhà phê bình
Roland Barthes và được phát động một cách hiệu quả sau đó một vài năm bởi nhà
văn Alain Robber-Grillet. Ý nghĩa nằm sau thuật ngữ này là tập họp một nhóm
người viết văn xuôi của Pháp, chống lại tiểu thuyết truyền thống và phá vỡ
những luật lệ mà một tiểu thuyết nên có một câu chuyện liên tục và hiện thực để
cuối cùng dẫn đến lối viết mạch lạc và dễ hiểu.
Những tác phẩm văn xuôi
của nhóm thể hiện nghệ thuật cắt dán và lắp ghép bằng ngôn ngữ. Chúng xảy ra
trong những chiều không gian của ký ức, hình như không bị gò bó hoặc kết hợp tự
do. Những đoạn văn ở những thời điểm khác nhau được nối kết chặt chẽ trên cơ sở
nội dung của chúng, hoặc những tương ứng về mặt tình cảm, hoặc những kết quả về
mặt mỹ học chứ không dựa trên cách làm sao chúng có thể xuôi theo tiến trình
bình thường của thời gian. Những ảnh hưởng từ nghệ thuật nhìn là bằng chứng rõ
nét. Mỗi hình ảnh là một sự việc. Dòng chảy của những sự việc kế tiếp nhau được
tạo ra bởi sự chú ý của người đọc và khả năng cảm nhận cùng sáng tạo vượt qua
những gì thực sự tồn tại như một dính kết riêng lẻ lúc ấy. Cách miêu tả trừu
tượng này có thể là cái vỏ bọc khá tốt những gì làm kết hợp những người tán
thành “Le nouveau roman” (tiểu thuyết mới). Nhìn chung về mặt hình thức nó phù
hợp với Claude Simon và mảng văn xuôi của ông. Tuy nhiên, những nhà văn thường
được xem là những “nhà tiểu thuyết mới” lại rất khác nhau về mục đích và những
ràng buộc trong tác phẩm ngôn ngữ của họ. Và họ đã làm trái với những gì mà nhóm
cùng chủ trương.
Từ giữa thập niên 40 đến
giữa thập niên 50, Claude Simon bắt đầu viết nhiều tiểu thuyết tự truyện. Tuy
nhiên, phương pháp kể chuyện hầu như mang tính truyền thống, chịu ảnh hưởng của
Faulker. Sự thay đổi nhân vật (được xem như là tác giả) của Simon đến với tác
phẩm Gió [Le Vent] (1957) và Cỏ [L’Herbe] (1958). Chính ông xem
tác phẩm sau như một bước ngoặt trong cách viết của mình. Cả hai truyện đều xảy
ra ở miền Nam
nước Pháp, quê hương của Simon và ông đã sống như người trồng nho.
Simon đã tự vạch ra cho
mình cách viết riêng, đặc biệt sau những kinh nghiệm khi viết cuốn Lịch sử
[Histore] (1967). Tác phẩm này là một trong những đỉnh điểm sáng tác của ông,
bằng chứng rõ ràng nhất có lẽ nó mang tính khác thường về nghệ thuật sử dụng
ngôn ngữ của ông. Đường sá vùng Flandres [La Route des Flandres] (1960) là quyển
tiểu thuyết làm nên tên tuổi của Simon trên văn đàn thế giới. Nội dung là sự
miêu tả phức tạp và phóng khoáng với những chi tiết mang đậm tính tự truyện
cùng những hồi ức và truyền thống gia đình Simon. Những kinh nghiệm của Simon
từ nội chiến Tây Ban Nha được miêu tả tương tự trong Lâu đài [Le Palace]
và cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất, Les Georgique (1981) nói về những
đồng cảm mà ông và những người khác phải trung thành với chính phủ đấu tranh
chống lại bọn phát-xít. Đường sá vùng Flandres và Les Georgique
là những sáng tác được trang hoàng phong phú bằng sự minh giác và cách viện dẫn
ngôn ngữ, gợi lên một mẫu hình cực kỳ phức tạp về hồi ức cá nhân và truyền
thống gia đình, về những kinh nghiệm trong chiến tranh hiện đại và về những
điều tương đương xảy ra từ những thời đại quá khứ, cụ thể là kỷ nguyên
Napoleon.
Nghệ thuật kể của Claude
Simon có vẻ như là đại diện cho một điều gì đó tồn tại trong chúng ta, dù chúng
ta có hay không, dù chúng ta hiểu nó hay không, dù chúng ta tin nó hay không -
một hy vọng gì đó, mặc dù tất cả sự tàn nhẫn và vô lý đối với vấn đề đó hình
như là một biểu thị đặc trưng thân phận của chúng ta, và chúng được tái hiện
trong tác phẩm của ông một cách quá mẫn cảm, sâu sắc và phong phú.
Người đoạt giải Nobel văn
chương năm nay được sinh ra ở Leningrad nhưng sống ở New York. Ông là một trong
những nhà văn trẻ nhất đoạt giải Nobel ở tuổi 47. Một dấu hiệu tỏa sáng với ông
là những tác phẩm của ông được dịch sang hơn mười hai thứ tiếng.
1986 – WOLE SOYINKA
(Nigeria, 1934
- )
Chân dung Wole Soyinka, 1934.
Wole Soyinka là nhà văn
Châu Phi, người Nigeria đầu tiên được tặng thưởng giải Nobel Văn chương ở tuổi
52. Sự nghiệp văn chương của ông bắt nguồn từ môi trường giáo dưỡng đặc biệt.
Những mô hình văn hóa, lễ nghi và huyền thoại của bộ tộc Yoruba, về mặt lịch sử
có liên quan tới vùng Địa Trung Hải, đã ăn sâu trong máu thịt ông. Trải qua nền
giáo dục ở quê nhà và ở châu Âu, ông còn thấm nhuần nền văn hóa phương Tây.
Tuyển tập tiểu luận Huyền thoại, Văn học và thế giới châu Phi
là một tác phẩm phong phú và sáng sủa của ông.
Kiến thức của một giáo sư
văn chương không là gánh nặng cho những tác phẩm văn học của ông. Truyện của
ông sinh động, thường là những câu chuyện đau lòng, nhưng cũng được biểu thị
bằng cách chọn từ tinh tế, gợi cảm. Soyinka được xem như là một trong những nhà
viết kịch thơ bằng tiếng Anh hay nhất.
Trong số những vở kịch của
ông, đặc biệt chúng ta có thể kể đến Vũ điệu của Rừng [A Dance of the Forest] (diễn 1960, in 1963) và Cái chết và Vua Kỵ sĩ
[Death and the King’s Horseman] (diễn 1976, in 1975). Vở kịch đầu là một dạng
của Giấc mơ đêm hè ở châu Phi với những thần thánh và ma qủi. Chúng ta
dễ nhận ra trong vở kịch này có sự liên kết với kịch nghi lễ bản địa và kịch
thời Elizabeth.
Một hình ảnh đặc trưng của Soyinka, thần Ogun, cũng xuất hiện trong vở kịch.
Ông vừa là người sáng tạo vừa là người phá hoại và cũng như Soyinka biết mình
có những đặc điểm hướng những suy nghĩ con người đến các thần Dionysia,
Apollonia và Promethe truyền thống của người châu Âu.
Chủ đề trong Cái chết
và Vua Kỵ sĩ nói về bản chất của một bi kịch lỗi thời – cái chết của vật tế
thần. Mối quan hệ giữa bào thai còn trong bụng mẹ, sự sống và cái chết mà
Soyinka đã lặp lại nhiều lần trong các tác phẩm của ông, được thể hiện ở đây đã
tạo ấn tượng rất mạnh cho người xem. Soyinka đã khẳng định vị trí của ông như
một nhân vật trung tâm của sức mạnh trong kịch.
Chúng ta cũng tìm thấy một
khía cạnh khác của Soyinka trong vở kịch Trò chơi của những gã khổng lồ
[A Play of Giants] (1984). Đó là một trò hề đen bạc, một nhát dao công kích của
tác giả nhằm phục vụ cho lương tri của con người. Mảng văn xuôi mở đầu là một
bản tổng kết chua cay về nỗi thống khổ của châu Phi.
Chúng ta vừa đề cập đến
kịch của Soyinka có yếu tố thơ ca mạnh mẽ. Trong nhiều tập thơ ông cũng chứng
tỏ mình là một nhà thơ xuất sắc. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất là Idanre
và những bài thơ khác [Idanre, and Other Poems] (1967) mà chủ đề chính là
những gì thần Ogun đại diện: sự xung đột, có lẽ là liên kết, giữa phá hủy và
sáng tạo.
Tập thơ Con thoi ở
Crypt [A Shuttle in the Crypt] (1972) cho chúng ta thấy tinh thần chân
chính của một con người là như thế nào. Những bài thơ được viết trong suốt hai
năm ở tù bởi thái độ của tác giả đối với cuộc nội chiến trên quê hương ông. Đó
là những bài thơ nói về sự tồn tại tinh thần, mối quan hệ con người, sự giận dữ
và sự khoan dung. Những kinh nghiệm đã trải qua này cũng được ông thể hiện
trong tác phẩm văn xuôi Người chết: Những ghi chú trong tù [The Man
Died: Prison Notes] (1972). Đây là một tác phẩm văn học hàng đầu.
Về mặt ngôn ngữ, Soyinka
cũng nổi bật một cách xuất sắc. Ông sở hữu một kho từ vựng và thành ngữ phong
phú mà ông đã khai thác triệt để trong những mẫu đối thoại dí dỏm, trong những
câu văn trào lộng, trong những bài thơ trầm lặng và những bài tiểu luận mang
đầy sức sống.
Lối viết của Wole Soyinka
dồi dào sinh lực và tuôn trào. Nó vừa mang tính phức tạp đồng thời cũng hết sức
mạch lạc.
1987 – JOSEPH BRODSKY
(Mỹ, 1940 – 1996)
Chân dung Joseph Brodsky, 1988.
Brodsky chính là nhà thơ
và nhà viết tiểu luận. Ông thuộc truyền thống văn học Nga cổ điển với những bậc
tiền bối như Pushkin và người đã đoạt giải Nobel Văn chương Boris Pasternak.
Đồng thời ông là cũng người canh tân bậc thầy về ngôn ngữ và hình thức diễn đạt
thơ, được truyền cảm hứng bởi Osip Mandelstam và Anna Achmatova trong số những
nhà thơ khác.
Nguồn cảm hứng khác của
Broadsky là thơ Anh từ nhà thơ siêu hình John Donne đến W.H. Auden, mà ông muốn
mình nhỏ bé hơn, và cả Goethe. Thứ ngôn ngữ mà những nhà thơ này cô đúc thành
là tư tưởng sống còn với Brodsky.
Mộ của Brodsky ở San Michel, Ý.
Trên bia mộ có khắc dòng chữ:
"Chết khộng phải là hết".
Đối với Brodsky, thơ ca là
một món quà thiêng liêng. Về khía cạnh tôn giáo. người ta không thấy trong tác
phẩm của ông những gì kết chặt với tín điều nhưng những vấn đề siêu hình và đạo
đức lại có ý nghĩa lớn lao nhất.
Tác phẩm của Brodsky chịu
nhiều ảnh hưởng ngôn ngữ, địa lý, văn học Đông - Tây. Điều đó đã đem đến cho
thơ ông sự phong phú khác thường về các chủ đề và những viễn cảnh đa dạng. Cùng
với sự hiểu biết sâu sắc về nền văn học của kỷ nguyên mới, nó cũng gợi lên cho
ông tầm nhìn lịch sử rộng lớn.
Sau khi Brodsky rời khỏi
Liên Xô 1972, vấn đề thay đổi môi trường và ngôn ngữ kéo theo sự căng thẳng gay
gắt trong ông một cách tự nhiên. Trong tập thơ A Park of Speech (1980)
ông tả mình sẽ từ từ rụng tóc, rụng răng, quên mất những phụ âm, động từ của
tiếng mẹ đẻ và cuối cùng mất tất cả. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục sáng tác thơ
bằng tiếng Nga song song với việc dịch những tác phẩm của mình sang tiếng Anh
và thỉnh thoảng ông viết trực tiếp bằng tiếng Anh mà thành công lớn nhất là
quyển Lịch sử thế kỷ XX [History
of the Twentieth Century] (1986). Đây là một loạt những bài thơ được viết với
giọng nhại lại và giễu cợt được viết bằng thành ngữ tiếng Anh với một trình độ
bậc thầy.
Brodsky cho rằng tất cả
nền văn học thực sự là diển tả công việc của thời gian đối với con người, vì
vậy đây cũng là chủ đề chính trong sáng tác của ông. Công việc của thời gian là
làm cho con người chia cách, biến dạng, già nua và chết đi. Thơ ca giúp chúng
ta, căn bản là cho chúng ta khả năng tốt nhất, chống chọi lại sức ép của cuộc
sống.
Tượng Brodsky ở Khoa ngôn ngữ
Đại học Saint Petersburg.
Trong tuyển tập tiểu luận
xuất sắc Ít hơn Một [Less than One] (1980) Brodsky cảm thấy con đường
của ông đi đến cốt lỏi của vấn đề thơ ca từ nhiều hướng khác nhau. Nhà thơ là
một người sử dụng ngôn từ điêu luyện, làm chủ ngôn ngữ. Thơ ca là hình thái cao
nhất của ngôn ngữ. Brodsky biết nó cũng là hình thái cao nhất của cuộc sống.
Nhà thơ trở thành một nhạc cụ có âm hưởng mang tính chất dò tìm.
Viện Hàn lâm Thụy Điển
biểu dương Joseph Brodsky nhằm vào tinh thần vô cùng phóng khoáng về mặt thời
gian và không gian được biểu thị trong sáng tác của ông, và cả về khía cạnh
thông minh lẫn nhạy cảm trong những tác phẩm phong phú và hết sức sống động
này.
1988 – NAGUIB MAHFOUZ
(Ai-cập, 1911- 2006)
Chân dung Nabuib Mahfauz.
Thông qua quyết định của
Viện hàn lâm Thụy Điển, giải Nobel Văn chương năm nay lần đầu tiên trao cho một
tác giả người Ai Cập, Nabuib Mahfauz, sinh trưởng ở Cairo. Ông cũng là người
đoạt giải Nobel Văn chương đầu tiên viết
bằng tiếng Ả Rập vốn là tiếng mẹ đẻ của ông.
Tính đến nay (1988),
Mahfouz có khoảng 50 năm cầm bút. Ở độ tuổi 77, ông vẫn còn sáng tác không mệt
mỏi.
Mahfouz được đánh giá cao
và được nhiều người biết đến như là một nhà văn của tiểu thuyết và truyện ngắn.
Tác phẩm của ông mang ý nghĩa một sự tiến bộ có tác động mạnh cho tiểu thuyết
như là một thể loại văn học, và cho sự phát triển ngôn ngữ văn học trong cộng
đồng văn hóa nói tiếng Á Rập. Tuy nhiên phạm vi ảnh hưởng các tác phẩm của
Mahfouz còn lớn hơn thế nữa, và chính tác phẩm của ông nói cho chúng ta tất cả.
Tác phẩm đầu tay của
Mahfouz lấy bối cảnh xã hội Ai Cập cổ đại thời Pharaon, nhưng cũng có cái nhìn
bóng gió vào xã hội ngày nay. Một loạt tiểu thuyết viết về Cairo thời hiện tại, trong số đó có quyển Hẻm
Midiaq [Midiaq Alley] (1947). Cái ngỏ hẹp trở thành một khu vực sinh hoạt
của một đám người hỗn tạp gắn bó với nhau, tất cả đều được thể hiện bằng chủ
nghĩa hiện thực mang tính tâm lý.
Mahfouz thực sự làm nên
tên tuổi của mình qua bộ ba tiểu thuyết Giữa – những – Lâu đài, Lâu đài của
Lòng thèm khát, Nhà máy đường [Bayn al Qasrayn, Qasr al Shawq, Sukkariya]
(1956-1957). Trung tâm của tác phẩm đồ sộ này là một gia đình và những thăng
trầm của nó từ cuối những năm 1910 đến giữa những năm 1940. Ông cũng viết hàng
loạt tiểu thuyết mang yếu tố tự bạch. Sự mô tả những cá nhân liên quan một cách
rõ ràng tới các điều kiện chính trị, xã hội và tri thức. Nhìn chung thông qua
tác phẩm của mình Mahfouz tạo ảnh hưởng
đáng kể trên đất nước của ông.
Chủ đề của quyển tiểu
thuyết đặc sắc Những đứa con của Gebelawi [Children of Gebelawi] (1959)
là cuộc tìm kiếm không ngừng của con người về những giá trị tinh thần. Adam và
Eva, Moses, Jesus, Mohammed và những người khác, cũng như nhà khoa học hiện
đại, có vẻ ngụy trang thoáng qua. Riêng nhà khoa học có trách nhiệm cuối cùng
về cái chết của người cha nguyên thủy Gebelawi (Thượng đế). Những hệ thống quy
tắc khác nhau lại đối đầu với tình trạng căng thẳng trong cách mô tả những xung
đột giữa cái thiện và cái ác. Vì tác phẩm đề cập đến những điều cao quí hơn nên
không được in ngay trên quê hương tác giả nhưng được xuất bản ở nhiều nước
khác.
Nhà thuyền trên sông
Nile [A Houseboat on the Nile] (1966) là một ví dụ cho những tiểu thuyết vừa
(nouvella) gây ấn tượng của Mahfouz. Ở đây những cuộc đàm thoại siêu hình diễn
ra giữa ranh giới của hiện thực và ảo tưởng, đồng thời tạo cho bản thân tác
phẩm trở thành lời bình về môi trường tri thức trong nước ông.
Mahfouz còn là một tác giả
truyện ngắn xuất sắc. Trong tập truyện ngắn chọn lọc Thế giới của Chúa
[God’s World] (1973), chúng ta sẽ có thể chiêm nghiệm những thành tựu mà ông
đạt được trong lĩnh vực này. Cách giải quyết mang tính nghệ thuật đối với các
vấn đề sinh tồn có sức thuyết phục và những giải pháp chính thức thường gây ấn
tượng.
Có khuynh hướng chia những
sáng tác của Moahfouz ra nhiều thời kỳ, ví dụ: lịch sử, hiện thực, và siêu hình
- thần bí. Đương nhiên cũng có lí do cho khuynh hướng này. Tuy nhiên cũng cần
nhấn mạnh đến nguồn sáng xuyên suốt cuộc sống loài người. Trong một cuộc phỏng
vấn, Mahfouz đủ phát biểu rằng: “Nếu một ngày nào đó không còn sự thôi thúc cầm
bút trong tôi, thì tôi muốn đó là ngày cuối cùng của đời mình”.