1989 - CAMILO JOSÉ CELA
(Tây-ban-nha, 1916 - 2002)
Chân dung Camilo José Cela
do Ricardo Asensio vẽ (1996).
Camilo José Cela người dẫn đầu phong trào đổi mới văn học Tây Ban Nha
trong suốt thời kỳ hậu chiến. Bối cảnh những kinh nghiệm mà Cela có được là từ
cuộc nội chiến đẩm máu, chia cắt đất nước thành hai miền để rồi thậm chí chia
rẽ mối quan hệ gia đình và bè bạn. Bản thân Cela cũng đã phải nhập ngũ và bị
thương nặng.
Cela là người đại diện cho tinh thần làm việc không ngơi nghỉ. Ở ông là
sự hợp nhất của lòng say mê thử nghiệm cuồng nhiệt với một thái độ khiêu khích,
đồng thời ông còn được xem là một điển hình về tính vui nhộn, kỳ quặc theo
truyền thống Tây Ban Nha – nói một cách khác thường là lạc quan, ngoài ra, đâu
đó còn là lòng trắc ẩn đối với những chịu đựng vô vọng của con người nhưng được
kìm chế mạnh mẽ.
Những nét đặc trưng cơ bản về thái độ của Cela hiện rất rõ trong tác
phẩm đã làm nên tên tuổi của ông: Gia đình Pascual Duarte [La Familia de
Pascual Duarte] (1942). Đây là một cuốn tiểu thuyết có tác động mạnh, nhiều
đoạn khủng khiếp, mặc dầu bị kiểm duyệt và bị cấm, nhưng nó đã tạo được một ảnh
hưởng vô cùng lớn lao. Sau cuốn Don Quixote thì Gia đình Pascual Duarte
có lẽ là tác phẩm được đọc nhiều nhất trong lịch sử văn học Tây Ban Nha.
Trong tác phẩm của ông, người ta hiếm khi gặp bất kỳ nhân vật nào được
thể hiện một cách chi tiết. Thay vào đo, thường giống như Naguib Mahfouz trong Hẻm
Midaq, Cela tập trung vào đám đông,
những nơi huyên náo như trong Tổ ong [The Hive] (1951). Hiệu quả sáng
tác của Cela đạt được nhờ thủ pháp dàn dựng tài tình, tạo ảnh hưởng cho nhiều
tác giả khác.
Năm 1969, tác phẩm gây chấn động dư luận San Camilo 1936 của
ông ra đời nói về tuần lễ trước khi cuộc nội chiến bùng nổ. Yếu tố quyết định
của tác phẩm này là lời văn mạnh bạo vạch trần bức tranh bạo lực và ám ảnh tình
dục trong một phạm vi nhỏ, nhưng dường như phản ánh được những gì đang xảy ra
trên bình diện cả nước.
Trong Khúc cầu hồn của Bóng đêm 5 [Ofcico de Tinieblas 5] (1973)
và Mazurca đối với Hai cái chết [Mazurca para dos muertos] (1983) bằng
những cách khác nhau, cả ngôn ngữ và nội dung đã đạt được tiếng vang đối với
người đọc. Tác phẩm ngay lập tức trở nên gây chấn động và mang dáng dấp không
sáng sủa nhưng lại rất lôi cuốn một cách bí mật. Tác phẩm sau kể một câu chuyện
ma nhưng lại là điệu nhảy vui nhộn, khiêu gợi của Thần Chết trên cơ sở vượt xa
sự mô tả về cuộc sống thường nhật của người Galacian.
Tượng của Camilo José Cela ở Padrón.
Đặc biệt đáng chú ý là Cela còn giữ cương vị nhà xuất bản của tạp chí
văn học Papeles de Son Armadams. Chính trên tạp chí này Cela đã thành lập một
diễn đàn mở trong suốt những năm khó khăn và ông đã tung hoành ngang dọc để tìm
kiếm một đất nước Tây Ban Nha mà ông đã thấy biến mất.
Camilo José Cela được tặng thưởng Nobel Văn chương “vì văn xuôi của ông
phong phú và sâu sắc, cùng với lòng trắc ẩn được kìm chế tạo nên cái nhìn thách
thức về tình trạng dễ tổn thương của con người”.
1990 – OCTAVIO PAZ
(Mexico, 1914 - 1998)
Chân dung Octavio
Paz
Octavio
Paz là nhà văn nhà thơ, nhà viết tiểu luận người Mexico, viết bằng tiếng Tây
Ban Nha có tầm ảnh hưởng khắp thế giới.
Paz
xuất bản tập thơ đầu tiên ở tuổi thiếu niên. Ngày nay, ở tuổi 76 (1990) ông vẫn
còn hoạt động như một nhà văn và nhà phê bình.
Trong
tác phẩm Bản phác thảo của những chiếc bóng [A Draft oj Shadows] (1975)
có một dòng cung cấp cho ta chiếc chìa khóa trong nhiều sáng tác của Paz.
“Chúng ta nói về thế giới là chúng ta thấy nó”. Mặt khác, bài thơ còn bao hàm
cách viết lẫn cách sử dụng từ ngữ với qui mô rất lớn. Trong tư duy đầy cảm hứng
siêu thực của Paz, theo cách này, ông ban cho những từ những nghĩa mới, có thể
thay đổi và phong phú hơn. Sức mạnh của thiên hướng thi ca – luôn luôn được xác
nhận bởi Brodsky, Walcott và một số nhà thơ khác – là tạo ra những từ một hình
thức mà nội dung không thể nào đạt khác được. “Chúng tôi không bao giờ nói /
những lời của thơ/ thơ nói với chúng tôi” (trích Trở về - 1969). Trong bài thơ gởi Roman Jakobson
viết vào năm 1976 ông nói rõ lập trường của mình: “Giữa những gì tôi thấy và những gì tôi nói / giữa những gì tôi nói và
những gì tôi giữ im lặng, / giữa những gì tôi giữ im lặng và những gì tôi mơ ,
/ giữa những gì tôi mơ và những gì tôi quên:/ thi ca”.
Những
bài tiểu luận và thơ của Paz xuất phát từ một nền văn hóa liên hợp khó uốn nắn
nhưng màu mỡ như là: tiền Indian - Columbia, nền văn hóa thời kỳ những người
Tây Ban Nha đi xâm chiếm Trung và Nam Mỹ và Chủ nghĩa hiện đại phương Tây, kể
cả những gì tiếp thu được từ nền văn hóa Da đỏ và những khu vực khác. Tất cả
những nền văn hóa này, thiên hình vạn trạng, được phản ảnh trong tác phẩm của
ông. Khí chất của riêng ông, một người Mexico, và theo ý nghĩa rộng hơn là
người Mỹ - La tinh được đào sâu trong tác phẩm Mê cung của nỗi cô đơn
[The Labyrinth of Solitude] (1950).
Chính
nhà thơ biểu hiện nền văn hóa liên hợp này – nó ở trong máu thịt của ông. Bên
ngoại ông là Tây Ban Nha – ở Andalusia, còn bên nội là sự kết hợp giữa hai dòng
máu Da đỏ - Tây Ban Nha.
Một
trong những đỉnh cao về sự nghiệp thi ca của Paz là trường ca Đá mặt trời
[Sun Stone] (1957). Tập thơ lấy cảm hứng từ quần thể lịch bằng đá hết sức kỳ vĩ
của người Aztec, mà hiện nay vẫn còn như một di sản văn hóa của nhân loại, quần
thể lịch này dựa trên sự kết hợp giữa thần Venus và mặt trời. 584 ngày của chu
kỳ tuần hoàn tương xứng với 584 dòng thơ. Tác phẩm hàm ý này với nhiều tầng lớp
ý nghĩa có vẻ như kết hợp, diễn dịch, tái thiết những vấn đề tồn tại chính yếu
về cái chết, thời gian, tình yêu và hiện thực.
Là
người chủ trương và đã đứng ra xuất bản nhiều tạp chí, với tạp chí gần đây nhất
là Vuelta (Trở về – xuất bản từ năm
1976) Paz là một ngôi sao bắc đẩu về trào lưu quan điểm. Những người khác hoàn
toàn bị bắt buộc để tuyên bố vị trí liên quan của họ với ông.
Trong
quyển Sor Juana: hay cạm bẫy của niềm tin [Sor Juana: or the Traps of
Faith] (1982) ông ứng dụng lịch sử văn học và lịch sử tư tưởng để mô tả Juana
Inés de la Crus, một phụ nữ nổi tiếng ở thế kỷ 17. Kịch tác gia và nhà thơ uyên
bác này, một thị nữ mà sau này trở thanh một tu sĩ, là chủ đề để cho ông phân tích một cách sâu sắc chống lại bối cảnh
văn hóa và xã hội thời bà. Tác phẩm dùng hình thức một chân dung mang chữ ký
của một người theo chủ nghĩa nhân văn vĩ đại.
Paz đã
sáng tác nhiều bài thơ tình tuyệt diệu, đồng thời cũng hết sức gợi cảm. “Phụ nữ / vòi nước trong đêm tối /. Tôi ngăn
cản sự tuôn trào yên ả của cô ấy “.
1991 - NADINE GORDIMER
(Nam Phi, 1923 - )
Chân dung Nadine Gordimer
Nadine Gordimer là nhà văn người Nam Phi, sinh
năm 1923, mẹ người Anh, cha người Lithuanian. Bà chuyên viết tiểu thuyết và truyện ngắn nói về hậu quả của
chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.
Gordimer viết bằng cảm xúc mãnh liệt của mình về
mối quan hệ cá nhân và xã hội cực kỳ phức tạp trong môi trường xã hội của bà.
Đồng thời khi bà cảm thấy có sự dính líu của chính trị – và làm ảnh hưởng đến
vấn đề căn bản này - bà không cho phép nó chi phối vào tác phẩm của mình. Tuy
nhiên, những tác phẩm của bà, có cái nhìn thấu đáo vào tiến trình lịch sử, đã
góp phần định hình tiến trình này.
Khách danh dự [A Guest of Honour]
(1970) là tác phẩm đánh dấu mốc quan trọng trong nửa phần đầu sự nghiệp sáng
tác của bà. Tác phẩm mang phong cách cổ điển, giàu tính sáng tạo và có kết cấu
chặt chẽ. Bằng những cảm xúc dạt dào bà đã thành công trong việc thể hiện những
sự kiện phức tạp mà một quốc gia muốn tồn tại phải đối mặt. Sự trở lại của
những nhà cầm quyền thuộc địa trước kia, kéo theo các mối mâu thuẫn và bị xâu
xé bởi lòng trung thành về nhiều mặt. Dòng chảy của các sự kiện được phản ánh
cùng tuyến với chuyện yêu đương của nhân vật chính. Cái chết ngẩu nhiên và hoàn
toàn hèn yếu của nhân vật này làm nổi bật lên vai trò của mỗi cá nhân trong trò
chơi lớn lao cho tương lai.
Từ giữa những năm 70, Gordimer đã phát triển một
thủ pháp phức tạp hơn trong những tiểu thuyết của mình. Giai đoạn sáng tác này
đã cho ra đời ba tác phẩm chính: Người bảo vệ môi trường [The
Conversationist] (1971), Con gái của Burger [Burger’s Daughter] (1979)
và Người của July [July’s People] (1981). Mỗi tác phẩm trong cách biểu
hiện riêng đều chứng minh được quan điểm cá nhân có thể hiểu được trong một xã
hội vật chất và tinh thần phức tạp như châu Phi, nơi mà ý thức đen tối đang lan
rộng. Gordimer đặt vấn đề biện giải cho những đặc quyền đặc lợi của người da
trắng – ngay cả người da trắng lương thiện – hết sức gay gắt.
Người của July là tác phẩm đáng được đề cập
đến nhất. Những sự kiện ở Soweto tạo bối cảnh cho tác phẩm. Khi đối mặt với
những bạo động vũ trang, nhà Smales - một gia đình da trắng đã phải lánh nạn
nhờ sự giúp đỡ của July - người giúp việc của họ - đến ngôi làng của anh ta và
sống trong túp lều đơn sơ bị bỏ hoang. Thời gian trôi qua, mối quan hệ chủ tớ
bị đảo ngược bởi sự phụ thuộc ngày càng tăng của gia đình Smales vào July. Ngay
cái tựa có vẻ mơ hồ của tác phẩm này cũng nói lên được sự gắn bó - người của
July - là một gia đình da trắng mà anh ta vẫn phục vụ nhưng cũng là thành viên
trong bộ tộc của anh. Việc mô tả những cảnh tồi tệ về văn hóa và tinh thần do
hoàn cảnh tạo ra có giá trị rất lớn. Khả năng giao tiếp giữa chồng vợ không
còn. Anh ta cố gắng diễn tả một cách rõ ràng những tình huống hiện thời bằng
thổ ngữ của mình, “nhưng từ vẫn không đến”. Để chỉ đến vợ mình, anh thường dùng
đại từ “her”, không phải là “maureen”, không phải là “vợ anh”... Những người
cảm thấy dễ hòa nhập cả về mặt xã hội lẫn ngôn ngữ là lũ trẻ. Tác giả có lý do
của mình khi sử dụng mối quan hệ của trẻ để soi sáng mối quan hệ của người lớn
trong tiểu thuyết này.
Tác
phẩm mới nhất của bà Chuyện con tôi [My Son’s Story] được xuất bản năm
1990, chủ đề của nó nói về tình yêu trong một xã hội rối ren, những phức tạp,
những trở ngại luôn cản trở những bước đường thay đổi. Mối quan hệ của những
người yêu đương được miêu tả một cách nhẹ nhàng. Đồng thời thực tế chính trị
kiên định xâm nhập vào đời sống thường xuyên. Thủ pháp kể chuyện hai phần làm
cho cách mô tả nhiều khía cạnh các nhân vật trở nên phong phú hơn, cái yếu tố
gây ngạc nhiên nhất cho người đọc cuối cùng chính là nhân vật chính được thể
hiện bởi người vợ. Tác phẩm vừa chân thật vừa rõ ràng và đồng thời làm say mê
người đọc bởi giá trị nghệ thuật của nó.
Nadine Gordimer (trái) với nhà văn Israel David Grossman
tại Hội chợ Quốc tế Sách Göteborg, 2010.
Bên
cạnh những tác phẩm có tiếng vang, độc giả cũng không thể nào quên được thể
loại truyện ngắn của bà. Vừa cô đọng vừa súc tích, chúng thật sự gây ấn tượng
và đã thể hiện được đỉnh cao tài năng nghệ thuật sáng tạo của Gordimer. Tập Truyện
ngắn chọn lọc (1975) là một minh chứng cho điều đó. Những chủ đề căn bản
vẫn được thể hiện một cách thành công, như tên truyện trong tập Cái ôm của
một người lính [A Soldier’s Embrace] (1980). Những kinh nghiệm đầy nữ tính
cộng với niềm cảm thông và một văn phong xuất sắc đã tạo cho những truyện ngắn
của bà có nét đặc trưng.
Viện
Hàn lâm Thụy Điển đã tuyên dương bà là: “người mà qua những trang viết đầy chất
sử thi tuyệt vời đã mang lại lợi ích lớn lao cho nhân loại – như lời của Alfred
Nobel”.
1992 - DEREK WALCOTT
(Saint Lucia, 1930 - )
Chân dung Derek
Wacott
Derek
Wacott sinh ra ở đảo Saint Lucia, hiện sống ở Trinidad và mang hai dòng máu châu
Phi và châu Âu. Trong những tập thơ nổi tiếng của ông, người ta còn thấy được
hình ảnh của nền văn hóa Tây-Anh-điêng. Ông còn là giáo sư văn chương và nghệ
thuật viết văn ở đại học Boston (Anh)
Walcott
sớm bộc lộ tài năng của mình. Trong tập Những bài thơ chọn lọc 1948 -
1984 cho thấy ông đã viết nhiều bài thơ có giá trị lâu dài từ những năm
cuối thời niên thiếu. Giống như những nhà thơ Joseph Brodsky và Octavio Paz,
ông có niềm tin mãnh liệt vào thi ca và những nhà thơ. Ông đã biến niềm tin này
thành những đề tài của mình.
Có thể
do những phức tạp trong đời sống riêng tư của mình, đã mang lại cho ông một
trong những nguồn cảm hứng tràn trề nhất. Trong tâm hồn ông luôn luôn mang nặng
ba tố chất: vùng Caribe nơi ông cư ngụ, ngôn ngữ Anh và nguồn gốc Phi châu.
Trong bài thơ Tiếng khóc vọng từ châu Phi [A far cry from Africa] ông
từng nói “làm sao lựa chọn / giữa tiếng châu Phi này và tiếng Anh mà tôi yêu?”. Một trong những
tác phẩm chính của ông, trường ca Một cuộc đời khác [Another Life]
(1973), ông đã dành hết tình cảm cho môi trường này.
Trong
tập thơ Thánh Kinh Arkansas [The Arkansas Testament] (1987), ông tiếp
tục sự mở rộng tầm nhìn vốn là nét đặc trưng trong sáng tác của ông. Trong số
những bài thơ này có những bài đề tặng nhà thơ Marina Tsvetaeva và W.H.Auden.
Omoros (1990) là tập thơ mới nhất của ông, một thiên
hùng ca về vùng Caribe hùng vĩ gồm 64 chương - ”Tôi ngợi ca quê hương rộng lớn của chúng ta, vùng biển Caribe”. Tác
phẩm này là một khát vọng không gì sánh được, bởi ông đã đan kết nhiều yếu tố
trong cuộc sống thành một tổng thể phong phú, những yếu tố này bắt nguồn từ
những tiếp xúc sâu rộng của nhà thơ với các lãnh vực văn học, lịch sử và đời sống
thực tế. Người đọc tìm thấy hình ảnh của một Homer, Poes, Mayakovsky và
Melville, những câu thơ bóng gió ám chỉ Brodsky (khoảng cách giữa lòng đôi bàn tay/che chở cho ngọn đèn cầy) và ông
cũng nhắc đến bài hát Yesterday của ban nhạc The Beatles. Những hình ảnh và
những ẩn dụ của Walcott nhiều vô kể, luôn luôn gây ấn tượng cho người đọc – “Và phía trên chúng, như những quân cờ
đô-mi-nô / những vuông cửa lập lòe ánh sáng, những tòa nhà đen chọc trời của
Boston”. Ông đã tạo sự tương phản giữa con chim mòng biển trắng với bầu
trời xanh qua hình ảnh “con chim mòng vẽ
một đường phấn trắng trên chiếc đĩa men xanh”. Thơ của ông gây ấn tượng tức
thời, đồng thời mang vẻ đẹp lộng lẫy và vô cùng hấp dẫn người đọc.
Wactt
trước hết là một nhà thơ nhưng ông còn sáng tác nhiều vở kịch thú vị cho sân
khấu, điển hình là vở Giấc mơ trên Núi Khỉ [Dream on Monkey Mountain]
(1970) rất ấn tượng, khiến người xem phải liên tưởng đến bức tranh tường lộng
lẫy vùng Caribbe. Cũng bầu không khí như mơ ấy có thể được tìm thấy trong vài
vở kịch của ông như Ti-Jean và anh em [Ti-Jean and his brothers] (1958)
và một chừng mực nào đó trong vở Ngày Hội hóa trang vừa qua [The last
Carnival] (1986) - nói về hai thập kỷ quan trọng trong lịch sử gần đây của vùng
Trinidad. Nét đặc trưng đáng kể trong các vở kịch của ông là kỹ năng tạo ra các
giọng nói phức tạp.
Văn
phong của Wacott vừa du dương vừa nhạy cảm. Nó dường như phần lớn được tuôn ra
từ nguồn cảm hứng dạt dào. Trong những tác phẩm của mình. Wacott đã tạo ra một
môi trường văn hóa riêng của mình, nhưng ông đã làm cho người đọc thấy một sự
quen thuộc và chính mình ở trong đó.
Viện
Hàn lâm Thụy Điển đã biểu dương ông là “người có sự nghiệp thi ca vô cùng xáng
lạn, được nâng đỡ bởi một nhãn quan lịch sử, kết quả của sự giao thoa đa văn
hóa”.
1993 – TONI MORRISON
(Mỹ, 1931 - )
Chân dung Toni Morrison, 2008.
“Tác
phẩm của tôi đòi hỏi tôi phải nghĩ mình làm sao tự do như một nhà văn nữ Mỹ gốc
châu Phi trong một thế giới phân biệt chủng tộc, giới tính và tình dục”. Đây là
những lời của nhà văn người Mỹ Toni Morrison đoạt giải Nobel văn chương năm
nay; trong cuốn tiểu luận Đùa trong Đêm: Sự ngây thơ và khả năng sáng tạo
văn học [Playing in the Dark: Whiteness and The literary Imagination]
(1992). Và bà nói thêm: ”Công trình của tôi dấy lên từ niềm khoái cảm chứ không
phải từ nỗi thất vọng”.
Toni Morrison sinh ở Lorain, bang Ohio,
Mỹ. Những tác phẩm của bà gồm tiểu thuyết và tiểu luận. Nghề của bà là giáo sư
khoa học nhân văn ở trường đại học Princeton,
New Jersey.
Bà đã sáng tác sáu tiểu thuyết,
tác phẩm nào cũng gây chú ý cho người đọc và giới phê bình. Chúng được chế tác
một cách cực kỳ tinh tế và bố cục chặt chẽ, nhưng đồng thời cũng giàu biến
tấu.. Người đọc có thể khoái cảm với kỹ thuật kể chuyện của bà, không tác phẩm
nào giống tác phẩm nào và phát triển một cách độc lập, thậm chí cội rễ của
chúng bắt nguồn từ nhà văn Faulkner và những nhà văn Mỹ từ miền Nam xa xôi. Tuy
nhiên, ấn tượng để lại lâu dài là sự đồng cảm, lòng nhân đạo luôn dựa trên sự
hóm hỉnh thâm thúy.
Bài ca Solomon [Song of Solomon] (1978) với
sự miêu tả những huyền thoại và cuộc sống của người Da đen tạo thành lời giới
thiệu xuất sắc cho tác phẩm của Toni Morrison. Cuộc truy tìm của Milkman Dead
về con người thật và gốc gác của anh ta phản ánh chủ đề cốt lõi trong tiểu
thuyết. Tựa đề mang tên Solomon, tổ tiên người miền Nam, chúng ta có thể bắt
gặp trong các bài hát trò chơi trẻ con. Xúc cảm nội tâm mãnh liệt đã khiến anh
ta quay về với cội rễ châu Phi của mình, giống như thần Icarus. Sự sáng suốt
này cuối cùng cũng trở thành sự sáng suốt của Milkman.
Tiểu thuyết Được yêu
[Beloved] (1987) tiếp tục mở rộng các chủ đề và đan xen không gian lẫn thời
gian với nhau trong cùng những chủ đề xuyên suốt. Sự kết hợp lời chú giải hiện
thực và truyền thống văn học dân gian một cách nghịch lý làm tăng cao lòng tin
cậy. Có một sức hấp dẫn to lớn trong cách miêu tả hành động của Sethe giải
phóng con của bà khỏi cuộc sống mà bà dự tính và sẵn sàng hứng chịu hậu quả
hành động đó.
Graffiti của Toni Morrison
trong thành phố Vitoria, Spain.
Trong cuốn tiểu thuyết mới nhất
Jazz sáng tác 1992, Toni Morrison đã
sử dụng một hình tượng na ná như cách chơi nhạc jazz. Những dòng đầu tiên của
tác phẩm là bảng tóm lược và trong lúc đọc, người đọc nhận thấy những thay đổi,
những thêm bớt và cường độ của người kể truyện. Kết quả là một phức hợp phong
phú, truyền đạt hình ảnh một cách gợi cảm về các sự việc, các nhân vật và những
tâm trạng.
Động cơ thúc đẩy Viện Hàn lâm
Thụy Điển tặng thưởng cho Toni Morrison bao hàm ý nghĩa bà là nhà văn hàng đầu.
Bà đào sâu vào chính ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ mà bà muốn thoát khỏi sự ràng buộc
chủng tộc. Và bà gởi chúng ta vẻ đẹp lộng lẫy của thơ ca.
1994 – KENZABURO OE
(Nhật, 1935 -
)
Chân dung Kenzaburo Oe, 2008.
Kenzaburo Oe bằng một sức
mạnh thi ca đã tạo ra một thế giới tưởng tượng, ở đó cuộc sống và huyền thoại
kết tụ lại thành một bức tranh xung đột về sự bế tắc của con người hiện nay.
Ông khẳng định rằng mình
viết cho độc giả Nhật Bản. Điều này ngụ ý rằng
ông cũng có chút ít hy vọng những độc giả có trình độ ở các nước khác
biết đến. Tuy nhiên, những bài nghiên cứu của ông có khuynh hướng nghiêng về
phương Tây và ông đã chịu ảnh hưởng mạnh nền văn hóa phương Tây. Trong số những
nhà văn ông nhắc đến là Dant, Rabelais, Balzac, Poe, Yeats, Eliot, Auden và
nhất là Sartre mà những cuộc tranh luận về chủ nghĩa hiện sinh và con người
phản diện của ông ta đã đóng một vai trò có ý nghĩa đối với ông. Ông cho là
mình sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực lố bịch và sẵn sàng đem tên tuổi của nhà
văn Rabelaise ra làm bằng.
Sự đầu hàng của nước Nhật
sau khi bị thả bom nguyên tử vào năm 1945, lúc đó Nhật hoàng – một vị thiên tử
– đã hạ mình trước nhân dân và nói tiếng nói của con người, là một kinh nghiệm
đáng nhớ đời đối với chàng thanh niên Oe. Nỗi nhục nhã này đã thấm sâu trong
người ông và đã góp phần phong phú cho nhiều tác phẩm của ông. Chính ông đã mô
tả những trang viết của mình như một phương tiện xua đuổi tà ma.
Trong thế giới tưởng tượng
mà ông tạo nên, ông đã thành công trong việc miêu tả một cách sinh động những
phẩm chất nhân đạo mà cá nhân ông cũng góp phần vào bằng một cảm xúc mãnh liệt.
Đặc biệt, đây là điều có thực trong tác phẩm của ông từ những năm 1960 khi ông
trải qua kinh nghiệm để trở thành người cha của đứa con bị hoại não. Sự kiện
này đã cung cấp cho ông chất liệu thực tế để viết nên tác phẩm Một nỗi đau
riêng (1964)*.
Tiểu thuyết Tiếng khóc
thầm (1967) là một trong những tác phẩm chính của Oe. Thoạt nhìn nó có vẻ
như liên quan đến một cuộc nổi loạn thất bại, nhưng về mặt căn bản quyển tiểu
thuyết này lại liên quan đến mối quan hệ giữa con người với nhau trong một thế
giới hỗn độn mà sự hiểu biết, những đam mê, điều mơ ước, những hoài bão và
những thái độ sống hòa trộn lẫn nhau.
Tác phẩm N/NG và truyện
kể về những điều kỳ diệu của khu rừng (1986) (tên tiếng Anh: M/T and the
narrative about the marvelsof the forest) đã được dịch sang tiếng Thụy Điển.
Chữ N hoa của tên tác phẩm là viết tắt chữ “nữ chúa”, còn NG là viết tắt chữ
“người lừa đảo”. Trong quá trình diễn biến của tiểu thuyết, những loại người
này là hiện thân của nhiều kiếp khác nhau. Nói tóm lại, điều này được thực hiện
bằng nhiều đoạn, theo cách đó, mỗi đoạn phản ảnh một nhân vật của tác phẩm. Chủ
đề chính của nhà văn lại hiện ra, và đến cuối tác phẩm đứa con trai Hikari được
tan biến trong ánh sáng mới.
Thư từ những năm tháng
nhớ quê là tác phẩm được dịch sang
tiếng Pháp năm 1993. Đây là hình thức một tiểu thuyết tự sự mà Dante là người
thầy thông thái. Trong tác phẩm, Oe đã tạo ra nhân vật chính Frére-Gii đạt được
giấc mơ của mình là không bao giờ rời khỏi ngôi làng trong khu rừng trên hòn
đảo quê hương Shikoku. Theo đó, quyển tiểu
thuyết này là một sự thay đổi hoàn toàn ngược với quyển tiểu thuyết trước về
hình ảnh ma quái của nó với tuổi thơ. Cả hai tác phẩm đều gây chú ý cho người
đọc, chúng tạo thành hai phần đầu của bộ ba tiểu thuyết mà trong đó phần thứ ba
được tạm thời đặt tên là Cây non bừng
cháy. Trong tác phẩm đồ sộ này, Oe kết hợp những mối quan tâm chính của
ông: những điểu kỳ bí của rừng, sự vô nhân đạo của đô thị và sự giàu có nghịch
lý của đứa con tàn tật của ông. Tất cả đều có một mẫu số chung…
(*) Một nỗi đau riêng - A personal Matter (Lê Ký Thương dịch theo bản tiếng Anh, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố, 1997) bị kiểm duyệt một chương, sẽ post lại đầy đủ trên blog này.
(*) Một nỗi đau riêng - A personal Matter (Lê Ký Thương dịch theo bản tiếng Anh, Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố, 1997) bị kiểm duyệt một chương, sẽ post lại đầy đủ trên blog này.
1995 - SEAMUS
HEANEY
(Ireland, 1939 - )
Chân dung Seamus Heancy.
Seamus Heancy là tác giả của
“những thi phẩm mang vẻ đẹp trữ tình và chiều sâu đạo lý, ngợi ca những điều kỳ
diệu hàng ngày và quá khứ sống động” – theo lời công bố trao giải của Viện Hàn
lâm Thụy Điển.
Ông chào đời tại một nông trại
nằm xa phía Tây Belgast, miền Bắc Ireland. Sau khi tốt nghiệp và lập
gia đình năm 1976, ông chuyển đến sống ở thủ đô Dublin, Cộng hòa Ailen. Ông đã từng là giáo
sư thỉnh giảng về môn tu từ ở đại học Harvard năm từ 1982 và từ 1989 đến 1991
ông là giáo sư nghệ thuật thi ca tại đại học Oxford. Heaney không những là nhà
thơ, ông còn viết tiểu luận và dịch thuật.
Điểm khởi đầu sự nghiệp của
Heaney là những gì ông nói trong những bài thơ về sự tĩnh lặng của miền Bắc Ireland trong
tập thơ Phương Bắc [North] (1975). Trong một cuộc phỏng vấn, ông thừa
nhận rằng khi sáng tác ông cảm thấy như đang có tội. Ông cho rằng những thế hệ
tổ tiên gốc nông dân của ông – những người thất học và cũng chẳng biết văn
chương thi phú là gì – đang thôi thúc ông phải làm sao để đáp ứng nhu cầu văn
hóa mà họ cần phải có. Không những ông nói bằng sự nhiệt tình về kinh nghiệm
quý báu mà cha mẹ ông đã truyền đạt, mà còn bày tỏ sự khó chịu về tính trầm
lặng của họ. Chính điều đó đã chống lại bối cảnh khi người ta đọc bài thơ Bảng
chữ cái [ Alphabets] (trong tập “The Haw Lantern”, 1987) với những dòng “Giấc mơ của nhà thơ rón rén đến như một tia
nắng mặt trời / Và lướt vào những bụi cây tăm tối”.
Là người theo đạo Công giáo Ireland, ông quan tâm đến những phân tích về bạo
lực ở Bắc Ireland
nhưng bằng một thái độ e dè để tránh phiền toái. Theo ông, sự thật mà cả hai
phía thiếu thiện ý để nói thẳng ra – ngay cả chuyện bày tỏ những bất công
- là vô cùng quan trọng trong việc phát
triển những xung đột. Nhưng ông cũng chống đối tư tưởng chủ bại của những người
công giáo như trong bài thơ Từ vùng đất hy vọng (trong tập “Haw Lantem”)
bắt đầu như sau: “Chúng ta đã đắm mình
trong mảnh đất mong chờ / dưới tầng lớp mây cao nhẫn nhục”.
Trong các tập tiểu luận: Sự
thống trị của ngôn ngữ [The Government of the Tongue] (1988) và Thuật
sáng tác [The Place of Writing] (1889). Heaney đã bàn luận vai trò của thơ
và nhà thơ, một chủ đề ông thường đề cập. Từ những kinh nghiệm sống của Osip
Mandelstam và những nhà văn khác của thế kỷ 20, đã đưa ông đến kết luận rằng
nhiệm vụ của nhà thơ là đảm bảo sự tồn tại của cái đẹp, đặc biệt là trong thời
đại mà chế độ chuyên chế đe dọa phá hủy nó.
Năm 1990, Heaney đã in kịch bản
Điều trị ở thành Troy [The Cure at Troy], theo quan điểm sáng
tác kịch cổ điển hiện đại nhất. Trong năm, vở kịch đã được trình diễn tại nhà
hát Field Day và nhận được sự ủng hộ tích cực, mặc dù nó không liên quan trực
tiếp gì đến thơ ông. Tuy nhiên, nó vẫn có thể được xem như một yếu tố nỗ lực
không ngừng của Heaney trong việc tìm kiếm cách diễn đạt đầy chất thơ đối với
các vấn đề đạo lý phức tạp.
Tập thơ Thấy nhiều điều
[Seeing Things] (1991) có một phần khá hấp dẫn mang tên “Squarings”. Phần này gồm những bài thơ 12
dòng, hình thức giản dị, ổn định nhưng nội dung thì phong phú và đa dạng. Chẳng
hạn như bài Lightenings vii nói về
phép lạ ở Clonmacnoise là sự kết tinh nhiều thế giới tưởng tượng của Heancy:
lịch sử và khoái lạc, thần thoại và đời thường - tất cả được trình bày khúc
chiết trong ngôn ngữ giàu hình tượng của Heanry.
Những người chép biên niên sử nói: khi những thầy tu ở
Clonmacnoise
Đang cầu nguyện bên trong nhà nguyện
Một con tàu xuất hiện trên đầu họ.
Nó kéo lê chiếc neo sau đuôi
Móc vào chấn song bàn thờ Chúa
Và rồi, khi chiếc thân tàu khổng lồ lắc lư không lối
thoát,
Một thủy thủ trèo lên và níu lấy sợi dây thừng
Cố giải thoát nó. Nhưng vô hiệu
“Anh chàng này không thể cưu mang cuộc đời chúng ta ở
đây
và sẽ chết chìm thôi,”
Cha tu viện trưởng nói “Trừ khi chúng ta giúp hắn”. Vì
vậy
Họ đã giúp, con tàu bị nạn lên đường và chàng thủy thủ
trèo xuống
Thoát ra khỏi phép lạ khi anh ta đã nhận ra được điều
này.
1996 - WISLAWA
SZYMBORSKA
(Ba-lan, 1923 - 2012)
Chân dung Wislawa Syzyborska, 2011.
Nhà thơ, nhà phê bình văn học
người Ba-lan Wislawa Syzyborska, 73 tuổi, hiện sống ở Cracow đã được tặng
thưởng Nobel Văn chương “vì thơ của bà mang tính mỉa mai chuẩn xác khiến cho
vấn đề lịch sử và sinh học hiện ra những mảng thực tại của con người”.
Kể từ năm 1957, khi quyền kiểm
duyệt không còn khắt khe, Szymborska đã cho xuất bản một loạt tập thơ mỏng
nhưng rất gây ấn tượng, những bài phê bình sách, và một số bản dịch thơ Pháp
được đánh giá cao. Giờ đây, bà từ chối những tác phẩm này.
Một ví dụ điển hình về cách
diễn đạt quan điểm của bà được thể hiện ở cuối bài thơ: Thú vui cầm bút
[The Joy of Writing].
Thú vui cầm bút
Sức mạnh của bảo
tồn
Sự trả thù của
bàn tay nhuốm máu.
Văn phong đa dạng trong thơ bà
hết sức khó dịch, tuy nhiên cũng có một số bản dịch sang ngôn ngữ khác giúp
phần chính thơ của bà có thể đến với đông đảo độc giả ở nước ngoài. Một bản
dịch xuất sắc sang tiếng Anh gồm 100 bài thơ tuyển mà Stanislaw Baranczak và
Clare Cavanagh đã xuất bản với tựa đề View
with a Grain of sand (1995). Bản dịch này được tuyển chọn từ tập Wolanie
do Yeti [Gọi Yeti – 1957] cho đến tập Koniec i poczatek [Kết thúc và
khởi đầu – 1993]. Con người tuyết Yeti kinh tởm trong của tập thơ này gợi cho người
đọc thấy có sự kết hợp rõ ràng với Stalin mà chủ nghĩa của ông đã làm bà vỡ
mộng. Trong tập thơ sau, cá tính của nhà thơ được giới thiệu qua câu: Điểm đặc trưng để nhận ra tôi / là phấn
khích và thất vọng.
Quan điểm sáng tác của bà là
rất thận trọng trong việc kén chọn hình thức diễn đạt, trong khi cách sắp xếp
câu chữ thì biến đổi không ngừng từng chi tiết cụ thể. Trong những bài tiểu
luận của bà có sự kết hợp tuyệt vời giữa sự dí dỏm, óc sáng tạo và sự cảm
thông, gợi cho ta nhớ đến thời kỳ phục hưng lẫn thời kỳ nghệ thuật Baroc. Sự
chỉ trích của bà về nền văn minh thường được thể hiện qua các ngôn từ mỉa mai
càng làm cho nó gay gắt hơn vì sự dồn nén tột cùng.
Những bài dịch mang lại cho
chúng ta một ý niệm mơ hồ về thủ pháp của bà, thậm chí trong những bài thơ có
vần điệu rõ ràng. Những vần thơ vừa được chải chuốt nhưng chẳng cầu kỳ. Những
gì ẩn chứa sau thủ pháp này có thể được giải thích trong bài: Dưới vì sao nhỏ: Đừng sinh tôi ra là kể yếu đuối, nghèo về vốn từ để phải đi mượn của
người khác. Hãy lao động cật lưc để vốn từ được phong phú. Bà được xem như
là Mozart của thơ ca, cũng hiển nhiên thôi nếu xét về nguồn cảm hứng của bà
luôn được đặt đúng chỗ. Nhưng cũng có thể thấy được cái gì đó giống như sự phẫn
nộ của một Beethoven trong những sáng tác của bà.
1997 – DARIO
FO
(Italy, 1926 - )
Chân dung Dario Fo, 2008.
Dario Fo được tặng thưởng Nobel
Văn chương vì ông là “người tranh đua với những anh hề cung đình thời Trung cổ,
nhạo báng cường quyền và đề cao nhân phẩm của người bị áp bức”.
Ông vừa là nhà soạn kịch đồng
thời cũng là một diễn viên, đã học tại Học viện nghệ thuật ở Milan và đã lập gia đình với nhà văn – diễn
viên Franca Rame.
Kịch của Fo đã được diễn khắp
thế giới trong nhiều năm qua, có lẽ nhiều hơn với bất cứ nhà soạn kịch đương
thời nào, và sự ảnh hưởng của ông rất đáng kể. Ông đáng được gọi là “người
thích đùa” nếu hiểu đúng theo nghĩa của từ này. Bằng cách pha trộn tiếng cười
và sự nghiêm túc, ông cho chúng ta thấy được những hành động bất lương và bất
công trong xã hội, đồng thời mở rộng tầm nhìn viễn cảnh lịch sử có thể xảy ra.
Fo là một nhà văn châm biếm vô cùng nghiêm túc với một sự nghiệp đa dạng. Tính
độc lập và biết nhìn xa trông rộng đã đưa ông đến những bước đi vô cùng liều
lĩnh, kết quả là ông phải chịu đựng vô số phản ứng từ nhiều hướng khác nhau.
Truyền thống hoạt động độc lập
đã đóng một vai trò lớn đối với Fo. Ông thường nói bóng gió tới những anh hề
cung đình thời Trung Cổ cùng hài kịch và kịch tôn giáo của họ. Kịch phẩm chính Bí
ẩn hài hước [Mistero Buffo] (1969) dựa trên tài liệu mang tính lịch sử được
hiểu theo cách của Fo. Nhưng kịch nghệ thuật của Ý (commedia dell’arte) và các
nhà văn của thế kỷ 20 như Mayakovski và
Brecht đã tạo cho ông những xung lực quan trọng.
Một kịch phẩm nổi tiếng khác
của Fo là Cái chết bất ngờ của kẻ vô chính phủ [Morte accdentale di un anarchico]
(1970). Bối cảnh của nó là những vụ đánh bom của phe cực hữu năm 1969 mà nhà
cầm quyền và báo chí đổ trách nhiệm cho những kẻ vô chính phủ. Suốt quá trình
thẩm vấn tại Milan,
một kẻ tình nghi vô tội phải “rơi” từ cửa sổ tầng 5. Vở kịch giải quyết cuộc
thẩm vấn này, dần dần được đảm nhiệm bởi một nhân vật như kiểu Hamlet (Matto),
người bị ám ảnh những hành động điên rồ phơi bày những dối trá của chế độ quan
liêu hành chánh.
Một số kịch phẩm đáng chú ý
khác là Chúng tôi không thể trả giá! Chúng
tôi sẽ không trả giá! [Mon si paga! Mon si paga!]
(1974) và Kèn trompet và quả mâm xôi [Clacson, trombette e pernechi]
(1981). Kịch phẩm sau là một hài kịch về những lỗi lầm nhắm vào những kẻ tham
gia trong việc dùng mưu mẹo làm ô danh những kẻ có quyền thế. Trong những năm
gần đây, cùng với vợ mình, ông đã đưa hình ảnh người phụ nữ vào một số vở kịch.
Tác phẩm gần đây nhất của Fo, Ma quỉ với những kẻ ngốc nghếch [II diavolo con le zinne”]. Đây là một vở hài kịch châm biếm về thời
Phục hưng, người giữ vai chính vở kịch là một vị thẩm phán đầy nhiệt huyết và
người đàn bà bị quỉ ám. Như thường lệ với Fo, tác phẩm phản ánh trực tiếp các
hiện tượng trong xã hội ngày nay.
Điểm mạnh của Fo là việc sáng tạo những chủ đề gây
cười liên tục, thu hút và tạo ra những viễn cảnh cho người xem. Như trong kịch
nghệ Ý, chúng luôn mở ra những tình huống sáng tạo mới và biến vị, không ngừng
khuyến khích diễn viên phát triển tài năng ứng biến; điều đó có nghĩa là khiến
khán giả cũng nhập vai vào những tình huống như vậy. Điểm mạnh này chính là sự
nghiệp kịch nghệ có sức mạnh và trình độ nghệ thuật đầy ấn tượng của Fo.
1998 : JOSÉ SARAMAGO
(Bồ-đào-nha, 1922 – 2010)
Chân dung José Saramago do họa sĩ Carlo Botelho vẽ.
Khi công bố trao giải thưởng
Nobel Văn chương cho nhà văn Bồ Đào Nha José Saramago, Viện Hàn lâm Thụy Điển
nhận định ông là “người có những tác phẩm ngụ ngôn được thể hiện bởi trí tưởng
tượng, lòng trắc ẩn và sự mỉa mai giúp cho chúng ta một lần nữa hiểu rõ được
những thực tại lẫn trốn”.
José Saramago xuất thân từ
tầng lớp lao động, mặc dù cầm bút rất sớm nhưng mãi đến năm 60 tuổi ông mới
được công chúng và giới phê bình biết đến như một nhà văn. Kể từ đó, những tác
phẩm của ông thường dược dịch ra nhiều thứ tiếng. Hiện nay ông sống trên quần
đảo Canary.
Tác phẩm Sổ tay hội họa
và thư pháp: một tiểu thuyết [Manual of painting and calligraphy: a novel]
của ông được xuất bản từ năm 1977, cho chúng ta chiếc chìa khóa để khám phá
điều sẽ xảy đến. Chủ đề căn bản của nó là sự hình thành một nghệ sĩ, một họa sĩ
cũng như một nhà văn. Xét về phạm vi rộng tác phẩm này có thể xem như một tự
truyện, nhưng những câu văn hoa mỹ lại bao quanh chủ đề tình yêu, vấn đề đạo
đức, những cảm tưởng về những chuyến du lịch của tác giả và những trăn trở về
cá nhân và xã hội. Công cuộc giải phóng tiếp theo sau sự sụp đổ của chế độ Salazar
vào năm 1974 đã cho chúng ta thấy rõ một bức tranh mờ nhạt đến hồi kết thúc.
Cú đột phá của Samarago vào
năm 1982 là quyển tiểu thuyết Baltasar và Blimunda. Đây là một tác phẩm
phong phú, đa diện và đa nghĩa vì nó hàm chứa cùng lúc một viễn cảnh về lịch
sử, xã hội và cá nhân. Đặc tính nổi bật trong những tác phẩm của Saramago là
giàu tưởng tượng và sâu sắc. Nhà soạn nhạc người Ý Corghi đã dựa theo tác phẩm
này soạn vở nhạc kịch “Blimuda”.
Một trong những tác phẩm lớn
của Saramago là Năm qua đời của Ricardo Reis [The year of death of
Ricardo Reis] được xuất bản vào năm 1984. Về hình thức, các biến cố xảy ra ở
Lisbon vào thời điểm 1936, dưới chế độ độc tài, nhưng cuốn sách đã gợi lên một
cách tài tình một bầu không khí không có thực. Điều này được nhấn mạnh bởi nhiều
cuộc viếng thăm của nhà thơ quá cố Fernando Pessoa với nhân vật chính (mà chính
anh cũng là một những sáng tạo của Pessoa), và những cuộc đối thoại của họ về
những điều kiện sinh tồn. Trong chuyến viếng thăm cuối cùng của ông, cả hai đã
cùng lìa bỏ cõi đời này.
Nhà văn đã sử dụng một hình
tượng điển hình trong Chiếc bè đá
[The stone raft] xuất bản năm 1986. Một loạt các biến cố siêu nhiên cứ chồng
chất nhau lên đến đỉnh điểm trong sự kiện tách rời bán đảo Iberia (gồm nước Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha) khỏi lục địa châu Âu trôi vào Đại Tây Dương. Tình huống
mà Saramago tạo ra giúp ông có cơ hội lớn để phê bình, theo cách của riêng ông,
cả những điều bình thường lẫn các mặt quan trọng của cuộc sống và châm biếm các
nhà cầm quyền cũng như các chính trị gia, đặc biệt là đối với các nhân vật
chính trong nền chính trị đầy quyền lực. Sự nhạy bén đó đã thể hiện rõ sự thông
thái của Saramago.
Có một lý do chính đáng để
chúng ta chú ý tới tác phẩm Lịch sử của thủ đô Lisbon bị vây hãm
[The history of the siege of Lisbon] (1989), một quyển tiểu thuyết về một quyển
tiểu thuyết. Câu chuyện bắt nguồn từ việc người phu trách đọc và sửa bản in thử
tự ý thêm vào một từ không (not), một động cơ làm đảo ngược tiến trình
của những sự kiện lịch sử, đồng thời cung cấp cho tác giả cơ hội sáng tạo và
niềm cảm hứng trong câu chuyện mà vẫn
không bị ngăn cản bởi những tìm tòi sâu sắc.
Quyển tiểu thuyết mới nhất
đã làm cho vị trí văn học của Saramago thêm nổi trội được xuất bản vào năm 1995
dưới nhan đề: Sự mù lòa: tiểu thuyết [Blindness: a novel]. Người dẫn
truyện uyên bác đưa chúng ta vào một cuộc du hành khủng khiếp, qua một bình
diện chung được tạo ra bởi những nhận thức cá nhân và sự phát triển tinh thần
ngày càng tăng của nền văn minh. Với trí tưởng tượng phong phú, tính thất
thường và biết nhìn xa trông rộng, Saramago đã
làm cho quyển sách phi lý này trở thành một tác phẩm diễn cảm đầy sức
lôi cuốn. “Bạn có muốn tôi nói cho bạn nghe tôi nghĩ gì không, À vâng, tôi
không nghĩ là chúng ta đui, tôi nghĩ chúng ta mù. Mù mà thấy, những kẻ Mù có
thể thấy đấy, nhưng họ không biết”.
Sự phát triển phóng cách rất
riêng của Saramago trong tiểu thuyết của ông đã tạo ra cho ông một chỗ đứng
vững chắc trên văn đàn. Bằng tất cả sự độc lập, Saramago có cách mô tả các vấn
đề thông thường theo hướng triệt để. Tác phẩm của ông giống như một chuỗi các đề
án, cái này có thể ít nhiều chối bỏ cái kia nhưng tất cả trộn lẫn trong một nỗ
lực mới để đạt đến những am hiểu về một thực tại khó nắm bắt được hết ý nghĩa
của nó.
Gunter Grass tự mô tả mình
như là một Spătaufklarer - người khởi
xướng muộn mang luồng ánh sáng mới đến cho một kỷ nguyên đã quá mệt mỏi vì lý
trí. Ông là một tác giả ngụ ngôn và là người diễn thuyết uyên bác, một người
ghi nhận những ý kiến và người độc thoại táo bạo, là người cóp nhặt đồng thời
lại là người đã tạo nên một cách diễn đạt châm biếm của riêng mình. Ưu điểm của
ông về cú pháp Đức và sự sẵn sàng khai thác lối viết tinh tế và phức tạp khiến
chúng ta nhớ đến Thomas Mann. Ông xây dựng một lối viết đối thoại với truyền
thống tốt đep của nền văn hóa Đức, với tất cả sự kỹ càng.
1999 - GUNTER GRASS
(Đức, 1927 -
)
Chân dung Gunter Grass
Khi Gunter Grass xuất bản Cái trống thiếc vào năm 1959, dường như
nền văn học Đức bước vào một sự khởi đầu mới sau nhiều thập niên bị tàn phá về
ngôn ngữ và đạo đức. Chỉ trong những trang tiểu thuyết đầu tiên này, Grass đã
tái tạo lại thế giới đã mất của thành phố quê hương ông – Danzig - mà ông chỉ
còn nó trong ký ức về thời thơ ấu trước khi chiến tranh tàn phá. Ở đây, ông đã
đạt tới sự am hiểu thấu đáo với công việc lớn lao là nhìn lại lịch sử đương đại
bằng cách nhớ lại những gì người ta đã từ khước hay quên đi: những nạn nhân,
những người thua cuộc, những kẻ dối trá mà người ta muốn quên vì có thơì họ đã
từng tin tưởng vào chúng. Cùng lúc, cuốn tiểu thuyết đã phá vỡ ranh giới của
chủ nghĩa hiện thực, bằng cách tạo cho nhân vật chính và người dẫn truyện một
trí thông minh quỷ quái trong cơ thể của một đứa bé ba tuổi, một con quỷ chế
ngự những kẻ mà nó tiếp xúc với sự trợ giúp của một cái trống đồ chơi. Cậu bé
(anh chàng?) khó quên Oskar Matzerath, chỉ cao 93 cm, là một con người trí thức
mà gần như trẻ con, nhìn thấy rõ cuộc sống thường ngày ở thành phố Đức khi thế
giới nhỏ bé này trở nên quay cuồng trong sự điên rồ của thế giới rộng lớn quanh
nó. Cũng không quá táo bạo khi khẳng định rằng Cái trốnng thiếc sẽ là một trong những tác phẩm văn học lớn của thế
kỷ 20.
Sau Cái trống thiếc, Grass quay lại với chủ đề viết về quê hương Danzig
của ông trong hai tác phẩm khác nhau. Mèo
và Chuột là một câu chuyện kể mộc mạc về tình bạn kỳ diệu của một thời niên
thiếu đã trở thành nỗi buồn khi những trò chơi chiến tranh đối diện với thực
tại chiến đấu. Những năm Chó là tác
phẩm hiện đại nhất của Grass, một cốt truyện không có tâm điểm kết thúc, một
đấu trường cho những ý kiến và là nơi gặp gỡ cho những giấc mơ (trong con sốt?)
trở thành trùng khớp với cuộc sống.
Trong những tác phẩm khác,
Grass viết lan man, bào chữa cho sự hoài nghi và thiện chí làm điều tốt. Ông
gây ra những cuộc tranh cãi ở Đức và khiến cho công chúng giận dữ, nhưng đối
với những gương mặt văn học lớn của thế giới như Garcia Marquez, Rusdhi,
Gordimer, Lobo Antunes và Kenzaburo Oe, ông là một bậc tiền bối đáng thán phục.
Tác phẩm Con cá bơn là sự quay lại với kiểu viết
cừ khôi của ông, sử dụng lại mô hình của lịch sử toàn cầu đầy dẫy những chuyện
bịa và những cuộc tranh luận nóng hổi về ý thức hệ. Grass mô tả sự phát triển
của nền văn minh như là cuộc đấu tranh của những giấc mơ hủy diệt của con người
về sự lớn lao và công việc phụ nữ. Con cá bơn biết nói chuyện, lấy từ truyện cổ
của anh em nhà Grimm, như là nhà tư vấn của phụ nữ, đã tạo nên một Ý Tưởng
Tuyệt Đối mà Hegel không thể hình dung nổi. Mặt khác, chính bản thân người kể
chuyện, một nhân vật nam rõ ràng là không đáng tin cậy, lại duy trì trò đùa tinh
quái mà không có nó nghệ thuật sẽ chết.
Phác thảo chân dung Gunter Grass
do họa sĩ Reginald V. Gray vẽ cho tờ
The New York Times.
Cả hai nhân vật chính trong
“Ein Weites Feld”, một con người đầy nhân bản và tên chỉ điểm diễn tả mối tương
quan của sự sáng tạo nghệ thuật với quyền lực chính trị dựa trên nền tảng của
nước Đức thời Wilhemine và Cộng Hòa Liên bang Đức ngày nay. Cuốn tiểu thuyết
trở thành nguồn gốc gây tranh luận cho các nhà phê bình văn học, nhưng nó cũng
xác lập vị trí của Grass như là người thăm dò lịch sử của thế kỷ này. Tác phẩm
mới nhất của ông Thế kỷ của tôi là
một cuộc tường thuật tại chỗ về thế kỷ 20 với cặp mắt sắc sảo đặc biệt cho lòng
nhiệt thành vô biên. Gunter Grass đào sâu vào quá khứ và ông đã làm bật ra cái
gốc rễ quyện chặc vào nhau giữa cái tốt và cái xấu. Như một câu trong tác phẩm Những năm chó ông đã viết: “Khi Chúa Trời
còn đi học, trong sân chơi của thiên đàng, lẫn lộn Người và Cái Ác, cậu bạn học
bé nhỏ đầy năng khiếu, chợt nảy ý nghĩ cùng nhau tạo ra thế giới”.
2000 - GAO
XINGJIAN (CAO HÀNH KIỆN)
(Trung Quốc-Pháp, 1940 - )
Chân dung Gao Xingjian
Giải Nobel Văn chương 2000
dược trao cho nhà văn Trung Hoa Gao Xingjian “cho một sự nghiệp có giá trị quốc
tế, những hiểu biết sâu sắc và khả năng sử dụng ngôn ngữ, người đã mở ra những
lối đi mới cho nền tiểu thuyết và kịch nghệ Trung Hoa”.
Nghệt thuật viết văn của Gao
Xingjian đã làm cho nền văn học tái sinh lần nữa từ cuộc chiến đấu của cá nhân
để thoát ra khỏi lịch sử của tập thể. Ông là một kẻ hoài nghi sáng suốt không
hề đòi hỏi giải thích với thế giới. Ông đã khẳng định rằng ông chỉ tìm thấy tự
do trong lúc sáng tác.
Tác phẩm lớn của ông Soul Mountain (Linh sơn) là một trong
những sáng tạo văn học độc đáo không thể so sánh với bất kỳ cái gì khác hơn là
chính bản thân chúng. Nền tảng của cuốn sách là cảm tưởng về những chuyến đi du
ngoạn về các vùng xa ở miền Nam và Tây Nam Trung Hoa, nơi những tục lệ của đạo
Shama vẫn còn tồn tại, nơi mà những khúc ballad
và những câu chuyện dài về kẻ cướp được kể một cách tỉ mỉ như thật và người ta
có thể tình cờ bắt gặp những con người tiêu biểu cho sự thông thái xa xưa. Tác
phẩm là một tấm thảm về nghệ thuật kể
chuyện với nhiều nhân vật tiêu biểu phản ảnh lẫn nhau, và có thể giới thiệu các
khía cạnh của một con người và cái ngã của chính họ. Với lối sử dụng đại từ
nhân xưng dồi dào, Gao đã sáng tạo ra những viễn cảnh lần lượt thay đổi đột
ngột và buộc người đọc phải đặt lại vấn đề về tất cả niềm tin. Phương pháp này
bắt nguồn từ những vở kịch của ông, thường đòi hỏi diễn viên khẳng định một vai
trò và cùng lúc diễn tả nó từ bên ngoài. Tôi, bạn, ông ta, cô ta trở thành
những cái tên của những khoảng cách của nội tại dao động.
Gao Xingjian đang biểu diễn
vẽ tranh thủy mặc tại Marseille (Pháp), 2003.
(Photo courtesy
of Alain Melka/Jean-Louis Darmyn
and Triangle Méditerranée.)
Soul
mountain là cuốn tiểu thuyết nói về cuộc hành hương của nhân vật chính tìm về
chính mình và một hành trình phản tỉnh để phân biệt đâu là hư cấu, đâu là thực
tế, đâu là trí tưởng tượng từ những hồi ức. Sự tranh luận về vấn đề tri thức
ngày càng tăng mang hình thức một cuộc diễn tập tự do từ những mục đích và
phương tiện. Thông qua tính phức điệu, sự hòa trộn các giới tính và sự nghiên
cứu kỹ lưỡng của tác giả, tác phẩm đã gợi cho ta nhớ lại khái niệm tuyệt diệu
của chủ nghĩa lãng mạn Đức về thơ ca thế giới.
Tác phẩm thứ hai của Gao
Xingjian, Quyển Kinh thánh của một người,
phát triển thêm những chủ đề của Soul
Mountain nhưng dễ nắm bắt hơn. Cốt lõi của tác phẩm là đưa ra lý do
với sự điên rồ khủng khiếp, ám chỉ cuộc cách mạng văn hóa Trung Quốc. Một cách
hết sức thẳng thắn, tác giả giải thích những kinh nghiệm của mình lần lượt như
một nhà hoạt dộng chính trị, một nạn nhân và là một nhà quan sát từ bên ngoài.
Lẽ ra sự diễn tả của ông phải là hiện thân nền đạo đức của người bất đồng quan
điểm, nhưng ông đã không chấp nhận chỗ đứng này và không bào chữa cho bất kỳ ai
khác. Lối viết của Gao Xingjian không bị
ràng buộc bởi bất kỳ sự dễ dãi nào, ngay cả thiện chí. Vở kịch Những kẻ chạy trốn của ông đã chọc tức
chính quyền dân chủ cũng như những kẻ nắm quyền lực.
Một tác phẩm thủy mặc của Gao Xingjian.
Chính Gao Xingjian đã chỉ ra
ý nghĩa những vở kịch của ông thuộc xu hứớng phi tự nhiên trong nền kịch nghệ phương
Tây, được đặt tên là Artaud, Brecht, Beckett, và Kantor. Tuy nhiên đối với ông,
điều quan trọng không kém là “mở ra một trào lưu từ nền kịch nghệ quần chúng”.
Khi ông tạo ra nhà hát kịch nói ở Trung Quốc, ông đã lấy ý từ những tuồng kịch
hóa trang cổ, những bóng người múa, hát, chơi trống cổ truyền. Ông biết vận
dụng khả năng di chuyển tự do về thời gian và không gian trên sân khấu chỉ bằng
một lời hay một điệu bộ duy nhất, như trong nhạc kịch Trung Quốc. Những biến đổi
tự do và ngôn ngữ tượng trưng kỳ dị của những giấc mơ đã cắt ngang hình ảnh rõ
rệt của loài người đương đại. Những chủ đề châm biếm đã tạo nên một sự phấn
khích cao độ trong tác phẩm của ông, và nhiều chủ đề trong số này đã đạt nghệ
thuật múa quyến rũ làm mẫu mực căn bản của nó.
HẾT
Một hôm anh ngư dân sống trên đảo Liding, cách xa Salt Fiord, chèo thuyền đến hồ Lake Maler, vì mải mê đánh cá quên cả thời gian quay thuyền về nhà. Lúc bấy giờ trời đã tối, điều tốt nhất anh có thể làm là neo thuyền trên một đảo nhỏ và chờ đêm xuống, và ánh trăng sẽ hiện ra.
SELMA LAGERLOF
NÀNG TIÊN CÁ
Một hôm anh ngư dân sống trên đảo Liding, cách xa Salt Fiord, chèo thuyền đến hồ Lake Maler, vì mải mê đánh cá quên cả thời gian quay thuyền về nhà. Lúc bấy giờ trời đã tối, điều tốt nhất anh có thể làm là neo thuyền trên một đảo nhỏ và chờ đêm xuống, và ánh trăng sẽ hiện ra.
Cuối
hè, khí trời ấm áp. Anh đẩy thuyền lên bờ, nằm cạnh thuyền, đầu kê lên một
phiến đá rồi ngủ thiếp. Khi anh thức giấc, trăng đã lên tự lúc nào, sáng rực
như ban ngày.
Anh vùng dậy, định đẩy thuyền xuống nước
thì thấy trên dòng nước một mảng màu đen lóm đóm trắng đang di chuyển. Một đàn
hải cẩu bơi nhanh về phía đảo. Khi thấy chúng trườn lên bờ, anh cuối xuống cầm
lấy cái xiên luôn mang theo trên thuyền. Nhưng lúc đứng lên, anh chẳng thấy con
hải cẩu nào, thay vào đó, đứng trên bãi cát là một bầy tiên trẻ đẹp mê hồn, mặc
váy sa-tanh dài màu xanh lục, đầu đội vương miện ngọc trai. Anh ngư dân hiểu
rằng đó là những nàng tiên cá, sống trên các đảo đá xa, đã ngụy trang thành
những những con hải cẩu, bơi đến hòn đảo xanh tươi này để thưởng ngoạn ánh
trăng đêm.
Anh cẩn thận để cái xiên xuống thuyền, và
khi những nàng tiên cá xinh đẹp kia đang vui chơi trên đảo, anh lén theo họ để
quan sát. Anh đã nghe kể rằng những nàng tiên cá đẹp và quyến rũ đến nỗi không
một ai trông thấy họ mà không bị mê hoặc. Quả điều này không ngoa.
Anh đứng dưới bóng cây nhìn họ nhảy múa một
hồi rồi bước xuống bờ biển, nhặt lấy một tấm da hải cẩu ở gần đó rồi giấu dưới
một phiến đá. Sau đó, anh trở lại mạn thuyền và giả vờ ngủ.
Chẳng mấy chốc, anh nhìn thấy những nàng
tiên cá xinh đẹp chạy xuống bờ cát để mặc những chiếc áo da hải cẩu của họ.
Thoạt đầu, tất cả đều vui đùa ca hát, nhưng đến khi biết một trong những người
bạn đồng hội đồng thuyền của họ không tìm thấy chiếc áo da của mình, họ lại
khóc lóc than van. Mọi người đều chạy ngược chạy xuôi đi tìm chiếc áo da cho
bạn, nhưng chẳng thấy tung tích gì. Lúc bấy giờ, họ nhận ra trời sắp sáng,
không thể nán lại lâu hơn, tất cả đều nhảy xuống nước và bơi đi, để lại người đẹp
mất áo ngồi trên bờ than khóc.
Anh ngư dân cảm thấy buồn thương cho nàng,
dĩ nhiên rồi, nhưng anh ta vẫn ép mình nằm yên chờ sáng. Sau đó, anh đứng lên,
đẩy thuyền xuống nước, rồi bước đến chỗ nàng ngồi, giả vờ như tình cờ trông
thấy nàng trước khi nâng mái chèo bơi đi.
“Cô
là ai?” anh lên tiếng. “Cô bị đắm tàu phải không?”
Nàng
chạy đến bên anh và hỏi anh có thấy mảnh áo da của mình ở đâu không. Anh làm bộ
chẳng hiểu nàng đang nói gì. Nàng lại ngồi xuống và khóc. Lúc này anh quyết
định đưa nàng xuống thuyền. “Hãy về nhà tôi,” anh nói. “Mẹ tôi chăm sóc cô. Cô
không thể sống trên hòn đảo này, vì ở đây chẳng có thức ăn mà cũng chẳng có chỗ
trú thân!”. Giọng anh thuyết phục đến nỗi nàng phải bước theo anh xuống thuyền.
Cả hai mẹ con chàng ngư dân đều tử tế với
nàng tiên cá đáng thương, và dường như nàng đã tìm thấy hạnh phúc khi sống
chung với họ. Càng ngày nàng càng mãn nguyện với cuộc sống ở đây, luôn luôn đỡ
đần công việc với mẹ chàng ngư dân, hiếu thảo như những người con gái sống trên
đảo, chỉ có điều nàng đẹp hơn họ nhiều. Một hôm, anh ngư dân ngỏ ý kết hôn với
nàng. Nàng không từ chối, đồng ý ngay.
Lễ cưới được chuẩn bị. Nàng tiên cá ăn mặc
như cô dâu trong bộ váy màu xanh lục và đội chiếc vương miện ngọc trai sáng
lung linh giống như lần đầu tiên anh thấy nàng trên đảo. Lúc đó, trên hòn đảo
này chẳng có nhà thờ mà cũng không có linh mục, vì vậy họ cùng nhau xuống
thuyền chèo đến ngôi nhà thờ gần đó để làm lễ cưới.
Anh ngư dân cùng nàng tiên cá và mẹ đi trên
chiếc thuyền của anh. Anh chèo nhanh đến nỗi bỏ xa những chiếc thuyền khác. Khi
anh nhìn ra hòn đảo nhỏ, nơi anh gặp nàng lần đầu, anh không khỏi bật cười.
“Anh
cười gì vậy?” Nàng hỏi.
“Ồ,
anh đang nghĩ đến cái đêm mà anh giấu tấm da hải cẩu của em”, anh ngư dân trả lời vì anh tin chắc rằng đến lúc này mình
không cần dấu diếm điều gì với nàng nữa.
“Anh
nói sao?”, nàng ngạc nhiên hỏi. “Em nghĩ chắc đêm qua anh đã có một giấc mơ
khác thường”.
“Nếu anh cho em thấy tấm da hải cẩu của em có
thể em sẽ tin anh”, anh ngư dân cười, nhanh chóng quay mũi thuyền về phía đảo
nhỏ.
Họ bước lên bờ và anh lấy tấm da giấu dưới
phiến đá lên.
Trong nháy mắt, nàng tiên cá nhìn tấm da
hải cẩu rồi chụp lấy và trồng lên đầu. Tấm da bó sát người nàng, như đã tìm lại
được sinh khí, và bất thình lình nàng phóng mình xuống dòng nước.
Chú rể thấy nàng bơi ra xa vội lao theo,
nhưng không thể đuổi kịp. Khi biết không cách nào để bắt nàng quay lại, trong
nỗi thất vọng, anh chụp cây xiên phóng đi. Kết quả nằm ngoài dự tính của anh,
nàng tiên cá đáng thương hét lên một tiếng thảm khốc, rồi chìm sâu trong lòng
nước.
Anh ngư dân đứng trên bờ chờ nàng hiện lên
lại. Anh nhìn thấy làn nước quanh mình khoác một màu phơn phớt sáng, mang một
vẻ đẹp mà trước đó anh chưa từng thấy. Một màu hồng phấn lung linh như màu ruột
sò.
Khi làn nước lấp lánh vỗ vào bờ, anh ngư
dân nghĩ rằng nó cũng được biến chuyển, bắt đầu đơm hoa và thoang thoảng hương
thơm. Một chút ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trên những đóa hoa và mang một vẻ đẹp
mà trước đó chưa hề có.
Anh hiểu rằng tất cả những điều này chỉ là
lẽ vô thường. Với những nàng tiên cá cũng vậy: kẻ nào đã được ngắm nhìn họ đều
phải công nhận rằng họ tuyệt đẹp, và chính dòng máu của nàng tiên cá kia đã hòa
quyện trong nước thấm đẫm bãi bờ, đã khiến cho vẻ đẹp được nhân đôi. Tất cả
những ai gặp họ, yêu họ, và thương cảm cho họ đều biết rằng đều phải biết rằng
đây là di sản từ nàng tiên cá để lại.
LÊ
KÝ THƯƠNG
Lời người dịch: Năm 1997, nhà xuất bản Văn nghệ TP in quyển tiểu
thuyết Một nỗi đau riêng, do tôi dịch
của Kenzaburo Oe – nhà văn Nhật Bản, Nobel Văn chương 1994, qua bản tiếng Anh
của John Nathan, NXB Charles E. Tuttle. Tiểu thuyết này gồm 13 chương, nhưng
nhà xuất bản đã cắt bỏ đoạn cuối chương 6 và toàn bộ chương 7 vì lý không phù
hợp với văn hóa VN. Nay tôi post lên mạng đầy đủ 13 chương để lưu giữ bản dịch
này.
Điểu ngồi trên tam cấp trước khu chăm sóc tập trung, kẹp chặt đùi bằng đôi tay đầy bụi, trong một cuộc vật lộn với sự mệt mỏi đã triền miên săn đuổi anh từ khi những giọt nước mắt cạn khô, thì viên bác sĩ có con mắt giả từ khu chăm sóc hiện ra nhìn phá ngang, Điểu đứng dậy và viên bác sĩ nói: “Bệnh viện này quan liêu thấy mẹ, cả những y tá cũng chẳng buồn nghe anh nói một lời”. Sự thay đổi bất ngờ trong con người này đã có từ khi họ cùng ngồi trong xe cứu thương: giọng nói của anh ta có vẻ bực bội. “Tôi có lá thư giới thiệu của vị giám đốc chúng ta đến vị giáo sư y khoa ở đây – họ là bà con xa với nhau! – và tôi chẳng tìm ra ông ta ở đâu cả!”.
Bây giờ Điểu hiểu tâm trạng chán ngán bất ngờ của viên giám đốc. Ngay trong khu chăm sóc này, mọi người đều được đối xử như một đứa con nít: viên bác sĩ trẻ có con mắt giả đã bắt đầu hồ nghi phẩm giá của mình.
“Còn đứa bé thì sao?” Điểu hỏi và ngạc nhiên về sự ái ngại trong giọng nói của mình.
“Đứa bé à? Ồ, chúng ta chẳng biết được gì hơn khi bác sĩ giải phẫu não khám xét xong, nếu đứa bé còn sống được cho đến lúc đó. Nếu nó không sống thì sau cuộc giải phẫu, chúng ta sẽ biết đầy đủ chi tiết hơn. Tôi không tin rằng đứa bé có thể chịu đựng hơn một ngày – khoảng ba giờ chiều mai anh phải tạt lại đây thăm nó. Nhưng tôi xin báo cho anh biết: bệnh viện này thật quan lieu – ngay cả các y tá!”.
Tỏ vẻ không muốn nghe thêm một câu hỏi nào nữa của Điểu, viên bác sĩ đảo cả hai mắt, thật lẫn giả, nhìn lên trần nhà rồi bỏ đi.Điểu đi theo anh ta như một người thợ giặt, nách bên hông cái giỏ trống trơn. Trên hành lang dẫn đến mái hiện chính, họ gặp người tài xế xe cứu thương và anh chuyên viên gây mê. Hai người này dường như thấy ngay rằng thái độ vui vẻ hồi sáng sớm của viên bác sĩ đã biến mất. Va chính họ cũng không còn giữ thái độ tự mãn: trong khi họ lái chiếc xe cứu thương chạy như bay qua trung tâm thành phố như chạy qua chỗ không người, bóp còi inh ỏi một cách tự phụ và vượt cả đèn đỏ thì phẩm giá của họ đã được thổi phồng lên trong bộ đồng phục của họ. Nhưng ngay lúc này thì điều ấy cũng đã qua đi. Nhìn từ sau lưng, Điểu thấy hai người này giống như anh em sinh đôi. Họ không còn trẻ nữa, có chiều cao và dáng dấp trung bình, và cả hai đều hói như nhau.
“Công việc đầu tiên của ngày hôm nay đối với anh là cần dưỡng khí, anh cần nó suốt ngày đó”, một người nói với vẻ thông cảm.
“Đúng rồi, lúc nào anh cũng nói như thế mà”, người kia trả lời cùng một thái độ.
Viên bác sĩ một mắt lờ đi cuộc trao đổi nhỏ này, Điểu, mặc dù không mấy xúc động, hiểu rằng hai người này đang ấp ủ nỗi lo âu của nhau, nhưng khi anh quay lại người phụ trách bình dưỡng khí và gật đầu một cách đầy thiện cảm, thì anh ta trở nên cứng rắn như thể bị chất vấn, và gắt gỏng càu nhàu “cái gì vậy?” buộc Điểu phải trả lời, Điểu bối rối nói: “Tôi muốn biết về chiếc xe cứu thương – anh cũng bóp còi vượt đèn đỏ trên đường trở về chứ?”.
“Trên đường trở về à?” Giống như hai ca sĩ sinh đôi có cùng một giọng ca thiên phú, hai nhân viên cùng lập lại câu hỏi trong cùng một giọng, đưa mắt nhìn nhau, mặt họ đỏ bừng lên như người say rượu, và cười hô hố làm phồng cả hai cánh mũi. Điểu vừa giận câu hỏi ngớ ngẩn của mình lẫn câu trả lời của hai anh nhân viên. Và sự giận dữ ấy bắt nhịp với cơn phẫn nộ mà anh cố nén trong lòng. Cơn giận có từ lúc hừng đông càng lúc càng tăng áp lực bên trong mà anh không có cách nào làm cho nó thoát ra được.
Nhưng lúc này hai anh nhân viên có vé bối rối, như thể họ hối tiếc vì đã cất tiếng cười khinh suất một người cha trẻ bất hạnh. Vẻ đau khổ rành rành trên khuôn mặt của họ đã làm dịu bớt cơn uất hận của Điểu. Ngay cả anh cũng cảm thấy một nỗi nhức nhối ăn năn. Ai la người đã đặt câu hỏi cực kỳ ngớ ngẩn đó đầu tiên? Và chẳng phải là câu hỏi bắt nguồn từ sự mụ mẫm trong đầu vì nỗi thống khổ và thiếu ngủ của anh sao?
Điểu nhìn vào chiếc giỏ này của đứa bé dưới tay mình. Bây giờ nó giống như một lỗ trống được đào không để làm gì. Trong giỏ chỉ còn có cái mền được xếp lại, vài miếng bông gòn và một cuộn băng mỏng.Máu thấm trên bong và băng, vẫn còn đỏ tươi, đã ít nhiều gợi lên hình ảnh một đứa bé đầu quấn băng nằm trong đó, thở bằng dưỡng khí qua ống cao su thông qua hai lỗ mũi. Điểu cũng không tài nào nhớ lại một cách chính xác cái đầu kỳ lạ của đứa bé, hay cái màng nhầy sang lung linh bọc kín bằng lớp da đỏ rực của nó. Ngay lúc này, hình ảnh của đứa bé cũng nhanh chóng lùi xa trong ký ức của anh. Điểu cảm thấy trong lòng mình mang một nỗi sợ hãi sâu xa trộn lẫn với sự khuây khỏa một cách tội lỗi. Anh nghĩ: chẳng mấy chốc tôi sẽ quên hết đứa bé, một cuộc đời hiện ra ngoài cõi tối tăm vô hạn, lơ lửng chin tháng trong bào thai, nếm qua vài tiếng đồng hồ tình trạng bất an tàn khốc, và rồi lại bước vào cõi tăm tối, tận cùng và vô định. Tôi sẽ không lấy làm ngạc nhiên nếu tôi quên đứa bé ngay. Cho đến lúc chết, tôi có thể nhớ, và lúc này đây, tôi đang nhớ, nếu sự đau đớn và sợ hãi của cái chết gia tăng trong người tôi, tôi sẽ thực hiện một phần nhỏ bổn phận của tôi như một người cha.
Điểu và những người kia tới lới vào phía trước hiên chính. Hai anh nhân viên chạy đến bãi đậu xe. Vì nghề nghiệp của họ luôn luôn đặt họ trong tình trạng khẩn cấp, cho nên việc chạy bá thở là biểu lộ một thái độ bình thường trong cuộc sống. Họ chạy vụt qua khu nhà kiên cố sang lấp lánh, hai tay vung vẫy, như thể có con quỷ đói đang đuổi theo chân họ. Trong lúc ấy, từ phòng điện thoại công cộng viên bác sĩ một mắt gọi về bệnh viện xin gặp bác sĩ giám đốc. Anh giải thích tình cảnh của đứa bé một cách vắn tắt: hầu như chẳng có sự tiến triển nào mới đế báo cáo. Mẹ vợ của Điểu đến nghe điện thoại.. “Mẹ vợ của anh đây”, viên bác sĩ quay lại nói với Điểu. “Anh có muốn nói chuyện với bà không?”.
Không đâu! Điểu muốn la lên. Bởi vì những cuộc điện đàm thường xuyên đêm hôm trước, tiếng nói của mẹ vợ qua đường dây điện thoại đến tai anh, giống tiếng kêu vo ve vô vọng của một con muỗi, như một nỗi ám ảnh đã săn đuổi Điểu. Điểu đặt cái giỏ của đứa bé xuống nền nhà bê tong và buồn bã cầm lấy ống nghe.
“Bác sĩ chuyên môn về não chưa khám nghiệm. Con phải trở lại vào chiều mai”.
“Nhưng vấn đề chính là gì? Mẹ muốn nói con có hy vọng làm được cái gì không?” Bà mẹ vợ hỏi lại Điểu với giọng nói mà anh đã từng mong được tha thứ nhiều nhất, vì anh nghĩ bà cho anh là kẻ chịu trách nhiệm trực tiếp trong chuyện này.
“Vấn đề chính là ở chỗ lúc này đứa bé còn sống”, Điểu trả lời và chờ đợi với một linh cảm rằng bà sẽ giận dữ nói lại. Nhưng bà im lặng, từ đầu giây bên kia chỉ có mỏng manh một tiếng thở dài lo lắng.
“Con sẽ đến đó và giải thích cho mẹ biết”, Điểu nói và bắt đầu gác máy.
“Alô? Con đừng lại đây nhé”. Bà mẹ vợ vội vàng nói thêm. “Vợ con nghĩ con đã đưa đứa bé đến một dưỡng đường tim. Nếu con đến lúc này nó sẽ nghi ngờ. Con nên đến vào hôm khác thì sẽ tự nhiên hơn, khi đó vợ con bình tĩnh hơn, và nói rằng thằng bé chết vì suy tim. Con có thể lien lạc thường xuyên với mẹ bằng điện thoại.”.
Điểu tán thành “Con sẽ đến trường đại học ngày và giải thích sự việc đã xảy ra”, anh đang nói thì nghe tiếng cúp máy một cách tùy tiện ở đầu dây bên kia. Quả là tiếng nói của anh đã khiến cho người nghe phẫn nộ. Điểu đặt ống nghge xuống và nhặt cái giỏ của đứa bé lên. Viên bác sĩ một mắt đã ngồi trong xe cứu thương. Thay vì leo lên theo anh ta, Điểu đặt cái giỏ lên cáng cứu thương.
“Xin cám ơn mọi việc. Tôi nghĩ tôi sẽ đi một mình”.
“Anh sẽ về nhà một mình à?” Viên bác sĩ hỏi.
“Vâng”, Điểu trả lời, ý muốn nói “Tôi sẽ đi ra ngoài một mình”. Anh phải tường thuật những tình huống sinh nở đứa bé cho cha vợ anh biết, nhưng sau đó anh sẽ có một ít thì giờ tự do. Và chuyện thăm viếng vị giáo sư cũng như việc trở lại với vợ và mẹ vợ là để chứng tỏ anh đã cai rượu hoàn toàn.
Viên bác sĩ trong trong xe đóng cửa lại và chiếc xe cứu thương chuyển bánh một cách im lặng, chạy theo tốc độ hạn chế, giống như trước kia vốn là con quái vật mà giờ thì bất lực và bị tước mất tiếng kêu. Xuyên qua cùng một vuông cửa xe mà một giờ trước đó Điểu đã ngồi khóc và nhìn những bộ hành trên đường, bây giờ thì anh thấy viên bác sĩ và một trong hai nhân viên cấp cứu ngồi lắc lư về phía tài xế. Anh biết họ đang ngồi lê đôi mách về anh và con anh, và điều đó không làm anh bực mình. Tự cuộc điện đàm với bà mẹ vợ đã đưa đến cho anh những giây phút nghỉ xả hơi không mong đợi, anh có thời gian để sống một mình như anh thích – ý tưởng này làm cho đầu óc anh sảng khoái.
Điểu đi ngang qua khuôn viên bệnh viện dài và rộng như một sân bóng đá. Giữa đường, anh quay lại nhìn lên tòa nhà mà anh vừa bỏ lại đứa con đầu lòng của mình, một đứa bé đang kề bên cái chết. Tòa nhà khổng lồ, dáng dấp uy nghi, giống như một pháo đài. Lấp la1mj dưới ánh mặt trời đầu hạ, tòa nhà khiến cho con anh đang khóc yếu ớt trong một góc tăm tối của nó có vẻ tầm thường hơn một hạt cát.
Tôi sẽ làm được cái gì nếu ngày mai tôi trở lại? Tôi có thể lạc trong mê cung của pháo đài hiện đại này và đi thơ thẩn như kẻ mất hồn. Có thể tôi không bao giờ tìm thấy cái chết của mình hay có lẽ đứa bé đã chết. Ý niệm này đã giải thoát một phần nào sự bất hạnh của Điểu. Anh bước một bước dài qua cổng trước và đi vội xuống đường.
Trước 12 giờ: thời điểm phấn chấn nhất của một ngày đầu hạ. Một cơn gió nhẹ gợi lại những buổi dạo chơi tập thể thời tiểu học đã kích thích niềm vui sướng lâng lâng trên đôi má và vành tai của Điểu, xóa tan cơn thiếu ngủ. Càng xa rời sự kiềm chế của ý thức bao nhiêu thì những tế bào thần kinh trong da thịt Điểu càng khát khao uống trọn hương vị ngọt ngào của không gian và thời gian này. Chẳng bao lâu một cảm giác một cảm giác tự do dâng tràn lên bề mặt ý thức của anh.
Trước khi tôi đi gặp cha vợ tôi, tôi sẽ tắm rửa và cạo râu sạch sẽ! Điểu bước đến tiệm hớt tóc đầu tiên mà anh nhận ra. Người thợ hớt tóc tuổi trung niên đưa anh đến ghế ngồi cứ như anh là một khách hàng bình thường. Ông không nhận ra nổi bất hạnh trong con người Điểu.Bằng cách biến mình thành một người bình thường dưới cặp mắt của người thợ hớt tóc, Điểu mới có thể thoát khỏi buồn rầu và lo sợ. Anh nhắm mắt. Cái khăn lông nóng và nặng trịch có mùi thuốc sát trùng bốc lên má và quai hàm anh. Nhiều năm về trước, anh đã xem một vở hài kịch về một tiệm hớt tóc: cậu học trò của ông phó hớt có cái khăn lông nóng khủng khiếp, quá nóng đến độ cậu không dám cầm hay giữ trong tay, vì vậy cậu đập nó vào mặt khách. Từ đó đến giờ, Điểu cười bất cứ khi nào mặt mình phủ khăn lông. Ngay lúc này, anh cũng cảm thấy mình muốn cười. Ồ lại đi quá đà rồi! Điểu rùng mình, bật cười và bắt đầu nghĩ về đứa bé. Điểu đã phát hiện ra nụ cười trên khuôn mặt anh là bằng chứng tội lỗi của riêng anh.
Cái chết của một đứa bé có đời sống thực vật- Điểu xem xét tai họa của con anh từ góc độ đau đớn sâu xa nhất. Cái chết của một đứa bé chỉ sống bằng đời sống thực vật thì không đem lại đau đớn gì cả. Đúng thế, nhưng cái chết có nghĩa gì đối với một đứa bé như thế không? Hay cho một vấn đề nào khác, phải chăng là cuộc sống? Cái mầm sống hiện lên trên cánh đồng hư vô đã trải dài hàng tỷ tỷ năm và ở đó nó lớn lên trong chín tháng. Dĩ nhiên không có ý thức trong một bào thai, nó chỉ co tròn trong một cái bọc và tồn tại, chiếm hoàn toàn một thế giới ấm áp, đen tối và nhầy nhụa. Và rồi, nó bước vào thế giới bên ngoài một cách nguy khốn. Cái thế giới lạnh lẽo, vừa cực khổ, độc ác, khô khan, vừa chói chang khốc liệt. Thế giới bên ngoài là vô hạn, vì vậy đứa bé không thể một mình choán hết được: nó phải sống với vô số người xa lạ. Nhưng, đối với một đứa bé giống như cây cỏ chỉ tồn tại trên cõi đời này không quá vài tiếng đồng hồ khổ đau thầm kín thì nó không thể giải thích nổi. Và lại một lần nữa, cát bụi sẽ trở về với cát bụi trong cõi hư vô. Điều gì sẽ xảy ra nếu có ngày phán xét cuối cùng? Dưới phạm trù nào của Thần Chết bạn có thể gởi trát đòi ra hầu tòa, khởi tố và kết án một đứa bé chỉ sống đời sống thực vật đã chết chẳng bao lâu sau khi chào đời? Chỉ vài tiếng đồng hồ trên cõi trần gian này để mà khóc, lưỡi thì run rẩy trong cái miệng bóng đỏ bành ra, liệu có vị quan tòa nào quan tâm đến bằng chứng không đầy đủ này không? Mẹ kiếp cái bằng chứng thiếu sót! Điểu há hốc miệng thở trong nỗi sợ hãi đã ngấm sâu thăm thẳm trong lòng anh cho đến tận bây giờ. Có thể tôi sẽ được gọi ra tòa như một nhân chứng và tôi sẽ không thể nhận ra con tôi trừ khi tôi nhận ra cái khối u trên đầu nó như một bằng chứng, Điểu cảm thấy môi trên của anh đau điếng.
“Làm ơn ngồi yên! Tôi cứa anh bây giờ”, anh phó hớt rít lên, để yên lưỡi dao cạo trên nhân trung của Điểu và nhìn chăm bẩm vào mặt anh, Điểu đưa ngón tay sờ lên môi trên của mình. Anh nhìn thấy máu và muốn nôn ngay, Điểu thuộc nhóm máu A và vợ anh cũng vậy. Một phần tư lượng máu lưu thông trong cơ thể đang chết dần của đứa bé cũng có thể là máu A. Điểu để tay vào lại trong tấm khăn choàng và lại nhắm mắt. Anh phó hớt tà tà cạo quanh vết đứt trên môi Điểu, rồi lẹ tay cạo má và cằm anh như thể vớt vát lại thời gian đã mất.
“Anh muốn gội đầu không?”.
“Không, thế đủ rồi”.
“Trên tóc anh có một ít đất và cỏ”, anh phó hớt nói với vẻ khó chịu.
“Tôi biết, tối qua tôi đã té”. Bước ra khỏi ghế, Điểu nhìn mặt mình trong tấm gương lấp lánh như một biển trăng. Đầu tóc của anh tết lại chẳng khác nào một ổ rơm, nhưng khuôn mặt anh từ hai gò má cao đến cằm đều nhẵn bóng và đỏ au như bụng một con cá hồi bảy sắc. Nếu chỉ có ánh sáng chói chang đang chiếu sang trong đôi mắt màu keo, nếu hai mi mắt căng ra được nới lỏng và đôi môi dày không co rúm lại, thì sẽ dễ dàng nhận ra Điểu trẻ hơn và hoạt bát hơn cái chân dung phản chiếu trong ô kính cửa hàng tối hôm qua.
Việc ghé vào tiệm hớt tóc đã là một ý tưởng hay: Điểu hài long về chuyện đó. Ít ra thì yếu tố tích cực thay thế cho ý tưởng tiêu cực có từ buổi hừng đông đã giúp Điểu lấy lại được sự cân bằng tâm lý. Anh nhìn thoáng vết máu khô dưới mũi giống như một nốt ruồi hình tam giác rồi rời khỏi tiệm hớt tóc. Trong thời điểm Điểu đến trường đại học, cái cảm giác âm ấm của lưỡi dao cạo để lại trên đôi má anh có lẽ tan dần. Nhưng lúc này anh muốn dùng móng tay khảy vết máu khô để tránh gây ấn tượng cho cha vợ nhìn anh như một kẻ lố lăng và buồn phiền. Trong khi tìm kiếm trạm xe buýt trên đường, Điểu nhớ đến món tiền dư mà anh mang theo trong túi và vẫy chiếc taxi chạy ngang.
Điểu bước ra khỏi chiếc taxi, lẩn vào đám đông sinh viên đang tụ tập ngang cổng chính để đi ăn cơm trưa: 12giờ 05. Trong khuôn viên trường, anh chặn một người bạn to con và hỏi thăm đường đến khoa Anh Ngữ.Chàng sinh viên ngạc nhiên nở nụ cười rạng rỡ và nói ê a như luyến tiếc thời quá khứ: “Lâu quá em mới gặp lại thầy!” Điểu lấy làm khó chịu. “Em học với thầy ở trường luyện thi, thầy biết, nhờ ông giờ em tặng cho trường một ít tiền mà em vào được đây bằng cửa sau”.
“Vì vậy bây giờ anh là sinh viên ở đây”, Điểu nói với vẻ xoa dịu, và nhớ lại chàng sinh viên này là ai. Anh chàng dẫu không có vẻ gì xấu xí, nhưng đôi mắt to và tròn cùng với cái mũi cà chua đã làm anh nhớ đến những bức minh họa mấy người nông dân Đức trong Những Truyện Thần Tiên của Grimm.
“Nghe có vẻ như trường luyện thi chẳng giúp gì nhiều cho anh”, Điểu nói:
“Thưa thầy, không phải đâu! Học thì không bao giờ lãng phí. Có lẽ thầy không nhớ một điều duy nhất, thầy biết chứ, học là học!”.
Điểu nghi rằng mình bị giễu cợt và anh quắc mắt nhìn chàng sinh viên. Nhưng anh ta đang cố gắng với cả tấm than bồ tượng của mình để chứng tỏ thiện ý. Điểu nhớ như in trong một lớp có cả trăm học sinh, anh chàng này là một đứa ngu thấy rõ. Và rõ ràng chính vì vậy, anh chàng mới có thể cười cợt trình bày một cách đơn giản với Điểu rằng anh ta đã vào trường đại học tư thục hạng hai này bằng cửa sau, còn biểu lộ lòng biết ơn những tiết học vô bổ đối với anh ta. Bất kỳ ai trong số chin mươi chin học sinh khác cũng đều muốn tránh mặt thầy luyện thi của họ.
“Với học phí cao như ở trường chúng ta, thật là nhẹ người khi nghe anh nói như thế”.
“Ồ, học phí như vậy là đáng đồng tiền bát gạo. Có phải thầy sẽ dạy ở đây kể từ bây giờ không?”.
Điểu lắc đầu.
“Ồ…” Chàng sinh viên lịch thiệp tiếp tục câu chuyện: “Để em đưa thầy đến khoa Anh ngữ, xin thầy đi lối này. Nhưng thưa thầy, nghiêm túc mà nói, việc học của em ở trường luyện thi cũng không hẳn là phí phạm. Tất cả những kiến thức ấy vẫn tồn tại một nơi nào đó trong đầu em, một phần nào được bén rễ và một ngày kia sẽ trở nên hữu dụng. Vấn đề chỉ là thời gian thôi, và thưa thầy, rốt cuộc lại là việc học chẳng bao giờ thừa phải không thầy?”.
Điểu theo chân người học trò cũ lạc quan và có phần mô phạm này, băng qua một lối đi với hai hàng cây đầy hoa, rồi đến trước một tòa nhà bằng gạch đỏ màu anh đào. “Khoa Anh ngữ nằm trên tầng ba, phía sau. Em rất sung sướng khi được vào học ở đây, em đã thám hiểm hết mọi ngỏ ngách trong trường cho tới khi thuộc nằm lòng”, Chàng trai nói một cách hãnh diện và cười toe như tự chế giễu mình khiến cho Điểu nghi ngờ và cặp mắt của mình.
“Em có vẻ đơn giản quá phải không thầy?”
“Không, không quá đơn giản đâu”.
“Thật là thú vị nghe thầy nói vậy. Bây giờ thì thưa thầy, em sẽ gặp lại thầy sau. Thầy hãy quan tâm đến sức khỏe: trông thầy có vẻ hơi xanh xao!”.
Khi leo lên cầu thang, Điểu nghĩ: cái anh chàng này khi ra đời sẽ xoay xở cuộc sống khôn ranh hơn mình bây giờ hàng ngàn lần, ít nhất cậu ta cũng không đi thơ thẩn với những đứa con chết trên tay mình vì chứng thoát vị não. Nhưng trước mặt học sinh, anh đã từng đóng vai một nhà đạo đức kỳ quặc kia mà!
Điểu chăm chú nhìn vào văn phòng khoa Anh ngữ và nhận ra chỗ cha vợ ngồi. Trên cái bao lơn nhỏ trải dài từ góc xa của căn phòng, vị giáo sư ngồi sụp trong chiếc ghế quay bằng gỗ sồi, nhìn ra một phần khuôn cửa sổ mở. Văn phòng của giáo sư mang dáng dấp một phòng họp, rộng hơn và sang hơn những cơ sở Anh ngữ ở trường đại học mà Điểu tốt nghiệp. Cha vợ Điểu luôn luôn nói (ông vẫn bóp méo câu chuyện như một trò đùa ưa thích về mình) rằng cách đối xử mà ông nhận được ở trường đại học tư này bao gồm những thuận lợi chẳng hạn như cái ghế quay, là tốt hơn một cách thể so sánh được với những cái mà ông đã có được ở trường Đại học Quốc gia: Điểu có thể thấy rằng những điều ông nói không hẳn là hoàn toàn đùa cợt. Dẫu ánh mặt trời có gắt hơn thì chiếc ghế quay cũng có thể dời lui lại hay bao lơn được che bằng một tấm bạt, một trong hai việc.
Nơi cái bàn rộng gần cửa sổ, ba thầy phụ giảng trẻ tuổi, mặt mày bóng lưỡng hồng hào, đang ngồi uống cà phê, rõ rang là sau giờ ăn trưa. Cả ba người Điểu đều biết mặt: những sinh viên danh dự lớp đàn anh của anh ở đại học. Nếu không vì rượu chè mà bỏ thi thì chắc chắn anh cũng theo đuổi nghề nghiệp như họ.
Điểu gõ vào cánh cửa mở, bước vào phòng và chào ba bậc đàn anh của mình. Sau đó, anh đi ngang qua phòng đến bao lơn. Cha vợ anh xoay người lại nhìn anh khi anh bước tới gần, đầu ông ngửa ra sau để giữ thăng bằng thân mình trên chiếc ghế. Những thầy phụ giảng cũng nhìn theo, cả ba cùng nở nụ cười băng quơ. Thật sự họ xem Điểu như một hiện tượng hiếm hoi nào đó, nhưng đồng thời anh cũng là người ngoài, vì vậy không phải là một đối tượng đang quan tâm. Cái nhân vật đặc biệt, kỳ quặc đó đã không hiểu vì sao dấn thân vào thế giới rượu chè be bét và cuốn cùng bỏ thi tốt nghiệp- đại loại như thế.
“Chào thầy ạ!” Điểu thưa theo thói quen đã có trước khi cưới con gái ông già. Cha vợ anh xoay người trên chiếc ghế, đối diện với anh, những con quay bằng gỗ kêu cót két dưới sàn, và chỉ cho Điểu chiếc ghế xoay có hai tay dựa dài.
“Đứa bé sinh rồi à?” Ông hỏi:
“Dạ, đứa bé đã sinh…” Điểu co rúm người lại để nghe tiếng nói the thé của mình quặn lại trong miệng, và anh nín thinh. Sau đó, anh tự buộc mình kể luôn một mạch sự việc: “đứa bé bị chứng thoát vị não, bác sĩ cho biết nó sẽ chết vào ngày mai hay ngày kia, còn mẹ nó thì khỏe!”.
Làn da màu kẹo bơ cứng trên khuôn mặt khoáng đạt giống sư tử của vị giáo sư hoàn toàn biến thành màu đỏ son.Ngay cả hai bọng mi mắt cũng biến sắc như thể máu đang thấm qua.Điểu cảm thấy mặt mình cũng thay đổi sắc diện. Anh lại nhận ra tất cả nỗi cô đơn và không nơi nương tựa mà anh đã có từ lúc hừng đông.
“Thoát vị não. Con đã thăm đứa bé rồi chứ?”.
Điểu khám phá ra một ẩn ý trong tiếng nói của vợ anh ngay cả trong giọng nói khàn khàn của vị giáo sư và dù thế nào nó cũng khiến anh nhớ nàng.
“Dạ, con đã thăm rồi. Đầu nó băng kín, như nhà thơ Apollinaire… đầu băng kín”. Vị giáo sư cố nói theo cách giễu cợt riêng của mình như thể có cân nhắc. Khi ông lên tiếng, cốt không nhắm nhiều vào Điểu như nhắm vào ba người phụ tá: “Vào tuổi của chúng tôi bây giờ, khó mà nói chắc rằng sống trên đời này là tốt hơn không được sinh ra”. Ba chàng thanh niên cố nén cười nhưng lại nghe rõ tiếng: Điểu quay lại và chăm bẫm nhìn họ. Họ nhìn lại và vả điềm tĩnh trong ánh mặt của họ hàm ý họ chẳng phải là kẻ cuối cùng ngạc nhiên về chuyện một anh chàng kỳ quặc như Điểu lại gặp phải cái tai nạn lạ lung ấy. Điểu hậm hực nhìn xuống đôi giày dính bùn của mình. Anh nói: “Con sẽ gọi lại cho ba khi công việc hoàn tất”.
Vị giáp sư nhẹ đu đưa chiếc ghế ông đang ngồi, không nói một lời. Điểu bất chợt nghĩ rằng có lẽ cha vợ anh đang cảm thấy hơi ghê tởm sự thoải mái mà chiếc ghế quay thường mang lại cho ông.
Điểu cũng lặng im không nói. Anh cảm thấy mình đã nói hết mọi điều cần nói. Còn đối với vợ, liệu đến lúc cần phải nói thì anh có thể thổ lộ điều bí mật ấy một cách đơn giản và rõ ràng như thế không? Không thể được! Lúc ấy sẽ là những giọt nước mắt, hàng tá câu hỏi, những lời nói huyên thuyên vô bổ, cổ họng đau thắt và đầu óc nóng bừng, cuối cùng những sợi thần kinh đang gào thét sẽ là sợi dây thừng trói buộc ông và bà Điểu.
Cuối cùng Điểu nói: “Tốt hơn là con phải trở về, còn những giấy tờ phải ký ở bệnh viện”.
“Mong con vượt qua cơn khốn khó”. Vị giáo sư vẫn ngồi yên trên ghế, Điểu đứng dậy, cảm thấy thật may mắn khi không bị cha vợ bắt ngồi lại lâu hơn. Vị giáo sư nói: “Trong bàn giấy có chai whisky, con mang nó theo đi”.
Điểu cảm thấy khó xử và anh thấy khuôn mặt của ba anh chàng phụ giảng đang căng thẳng. Họ cũng như cha vợ Điểu biết rõ giai đoạn rượu chè be bét của anh, giờ đây anh có cảm giác đôi mắt của họ bắt đầu dõi theo từng hành động và cử chỉ của anh. Điểu do dự, nhớ lại một câu trong quyển sách Tiếng Anh mà anh đang dạy cho học trò, qua đó một người Mỹ đã nói một cách giận dữ: “Anh chơi khăm tôi à? Anh muốn ăn thua đủ phải không?”.
Tuy thế, Điểu vẫn chồm tới, mở hộc bàn và lôi chai Johnny Walker lên bằng cả hai tay. Mặt anh đỏ bừng, ngay cả đôi mắt cũng vậy, nhưng anh cảm thấy một niềm vui vô hạn dâng trào. Nếu cần phản bội Chúa như Juda thì cũng chẳng có gì phải ngần ngại.
Điểu nói: “Cám ơn ba”. Gương mặt của ba anh chàng phụ giảng dịu lại. Vị giáo sư chầm chậm xoay tròn chiếc ghế, đầu ngẩng cao, gương mặt ông vẫn còn sắc diện đỏ bừng và uể oải. Điểu liếc nhìn ba chàng trai, chào phớt qua, và rời căn phòng.
Anh bước xuống cầu thang, tới khoảng sân lát đá, kẹp chặt chai rượu cẩn thận như đang cầm một quả lựu đạn. Thời gian còn lại của ngày hôm nay anh có quyền sống theo ý thích của mình. Ý nghĩ đó hòa nhập với hình ảnh chai Johnny Walker cùng dấy lên một triển vọng mê ly và tai họa.
Ngày mai, ngày kia hoặc có thể là sau một tuần lẫn tránh, khi vợ tôi biết được cái chết của đứa con bất hạnh của mình, cả hai chúng tôi sẽ bị nhốt kín trong chốn tù ngục của kẻ điên loạn. Vì vậy – Điểu tranh luận với nỗi e sợ sôi sung sục trong lòng anh – tôi có toàn quyền với chai rượu mạnh và thời gian tự do của ngày hôm nay. Nỗi e sợ đó nhanh chóng tiêu tan. Tốt! Hãy uống cho bằng thích. Trước tiên Điểu nghĩ chuyện quay về lại căn hộ của mình và vào phòng làm việc uống, nhưng rõ ràng là không ổn. Nếu anh trở về, bà chủ nhà và bạn bè so sẽ bao vây lấy anh bằng những cú điện thoại nếu đường dây không bận với những câu hỏi cặn kẽ về đứa trẻ, ngoài ra cứ mỗi lần nhìn vào phòng ngủ, thấy cái nôi tráng men trắng dành cho đứa bé thì lòng anh tan nát. Điểu lắc mạnh đầu xua tan ý nghĩ này ngay. Tại sao mình không trốn vào một khách sạn rẻ tiền nơi chỉ toàn những người xa lạ? Nhưng Điểu lại hình dung ra mình say gục trong một căn phòng khóa kín và anh cảm thấy sợ hãi, Điểu thèm khát nhìn chăm chăm vào ông già người Ê-cốt vui tính trên dãi băng mài đỏ sãi bước qua nhãn hiệu Johnny Walker. Ông ta đi đâu mà vội thế? Bỗng nhiên Điểu nhớ đến người bạn gái cũ. Mùa đông cũng như mùa hạ, suốt ngày nàng luôn luôn nằm dài trong phòng ngủ tăm tối, vừa suy tư những điều triết lý cao xa vừa rít thuốc lien hồi cho đến khi chiếc giường mịt mù khói. Nàng không bao giờ rời khỏi nhà trước khi trời tối.
Điểu đứng ngoài cổng trường đại học chờ ta-xi. Qua khung cửa sổ lớn của quán cà phê bên kia đường, anh thấy người hoc trò cũ của mình đang ngồi với vài người bạn.Anh chàng sinh viên đó nhận ra Điểu ngay và vẫy tay ra hiệu một cách thân thiện và ngây ngô như một chú chó con dạt dào tình cảm. Bạn bè của anh ta cũng nhìn Điểu với vẻ tò mò lộ liễu. Anh ta sẽ giải thích với bạn thế nào về Điểu? Là một thầy giáo tiếng Anh đã từng rượu chè đến bỏ thi tốt nghiệp, một người co nội đam mê không thể giải thích được, hay có thể là một người điên đáng sợ?
Anh chàng sinh viên mỉm cười với Điểu cho đến khi anh ta ngồi vào chiếc ta- xi. Khi xe chạy, Điểu nhận ra rằng mình cảm thấy như vừa nhận được một sự bố thí.Và nó lại từ một người học trò mà trong suốt thời gian học ở trường luyện thi không bao giờ biết phân biệt những động danh từ tiếng Anh với những động tính từ thời hiện tại, một học trò dốt đặc cán mai!
Người tình của Điểu sống trên một trong những ngọn đồi của thành phố, trong một khu đầy những miếu thờ và nghĩa địa. Nàng ở một mình trong ngôi nhà nhỏ cuối con hẻm. Điểu đã gặp nàng trong một lớp giao tiếp vào tháng Mười khi anh đang là sinh viên năm thứ nhất. Khi đến lượt nàng đứng dậy để tự giới thiệu, nàng đã thách đố cả lớp đoán ra nguồn gốc cái tên khác thường của nàng Himiko – đứa bé thấy lửa, Điểu đaã trả lời một cách chính xác rằng tên này được lấy từ biên niên sử của tỉnh Higo cổ - Vị Đại để ra lệnh cho những người chèo chuyển: đằng xa kia có ánh lửa hiệu, hãy đi thẳng đến đó. Sau đó, Điểu và cô gái Himiko của đảo Kyuchu đã thành bạn với nhau.
Trong trường đại học của Điểu có rất ít nữ sinh viên, chỉ có một nhóm nhỏ ở Khoa Nghệ thuật Tự do từ các tỉnh đến Tokyo, và tất cả bọn họ, theo như Điểu biết, chẳng bao lâu sau khi tốt nghiệp đều biến thành những con quỉ cái. Một phần trăm những tế bào trong thân thể họ phát triển quá mức, tụ lại và kết dính với nhau một cách chậm rãi cho đến khi các cô đi đứng như kẻ mất hồn và trông giống như người đần độn, u sầu. Cuối cùng, họ không đủ khả năng thích ứng với cuộc sống hàng ngày trước khi tốt nghiệp. Nếu họ lập gia đình thì ly dị, đi làm thì bỏ việc. Họ không làm gì ngoài chuyện đi đó đi đây và gặp toàn những tai nạn ô tô khủng khiếp, lãng xét. Himiko, một thời gian ngắn sau khi tốt nghiệp, đã kết hôn với một sinh viên ra trường và rồi nàng cũng rời xa chàng vĩnh viễn. Điểu tồi tệ hơn là một năm sau cuộc hôn nhân, chồng nàng đã tự tử. Cha chồng của Himiko đã tặng nàng căn nhà mà hai vợ chồng đã sống, và hàng tháng ông vẫn chu cấp tiền cho nàng để sống. Ông hy vọng rằng Himiko sẽ tái giá, nhưng vào lúc này, ban ngày thì nàng trầm tư mặc tưởng còn ban đêm thì lái chiếc xe hơi thể thao rong chơi khắp phố.
Điểu đã nghe thiên hạ xì xào rằng Himiko là một kẻ phiêu lưu tình dục, đã phá vỡ quĩ đạo tập tục. Họ cũng bàn tán rằng chồng nàng tự tử vì nàng là một con ngựa bất kham. Điểu đã ngủ với nàng chỉ một lần, nhưng cả hai đều say bí tỉ và chàng chẳng xơ múi được gì. Lần đó xảy ra khá lâu trước cuộc hôn nhân bất hạnh của Himiko. Mặc dù bị cuốn hút bởi dục vọng mãnh liệt và đã theo đuổi niềm khoái lạc của mình một cách tích cực, trong thời gian đó Himiko cũng chỉ là một cô sinh viên thiếu kinh nghiệm.
Điểu xuống xe ngay đầu hẻm nhà Himiko. Anh nhanh tay đếm số tiền còn lại trong ví, anh không có gì phải băn khoăn về chuyện nhận tiền lương ứng trước tháng này sau giờ lên lớp ngày mai.
Điểu xoắn chai Johnny Walker vào túi áo khoác rồi vội vã đi vào con hẻm, tay không rời cổ chai rượu. Vì những người hàng xóm biết hết cuộc sống lập dị của Himiko, nên những khách đến nhà nàng cũng không thể tránh khỏi những cặp mắt tò mò một cách kín đáo từ khắp mọi nơi quanh đây.
Điểu nhấn chuông ở phòng ngoài. Không có tiếng trả lời. Anh khua cửa một chập và khẽ gọi tên Himiko. Đây chỉ là thủ tục.Điểu đi vòng ra sau nhà và thấy chiếc MG cũ đầy bụi nằm dưới cửa sổ phòng ngủ của Himiko. Với những ghế ngồi giơ khung, chiếc MG màu đỏ tươi có vẻ như bị bỏ rơi ở đây khá lâu. Nhưng nó chứng tỏ rằng có Himiko ở nhà. Điểu kê chiếc giày dính bùn của mình lên càng xe móp một cách tệ hại rồi nhấn mạnh khiến chiếc MG chao nhẹ, giống như một chiếc thuyền, Điểu gọi tên Himiko một lần nữa và nhìn lên vuông cửa sổ kéo kín màn. Trong phòng, bức màn nhẹ nhàng nâng lên, qua cái lỗ nhỏ ở cửa, một con mắt nhìn xuống Điểu và hai người thấy nhau, Điểu không lắc lư chiếc xe nữa và mỉm cười: anh luôn luôn xử sự một cách tự do và tự nhiên trước mặt người con gái này.
“Chào anh!” Tiếng nói của nàng nghe như một hơi thở mỏng manh, yếu ớt và rồi nàng mở rộng màn và cánh cửa kính.
Điểu biết mình đã phát hiện ra một điểm lý tưởng để khui chai Johnny Walker vào giữa buổi sáng. Cái cảm giác này khiến anh càng sảng khoái, anh lui bước trở lại trước căn nhà.
LÊ KÝ THƯƠNG
1
Điểu chăm chú nhìn tấm bản đồ châu Phi được bày trong
tủ kính mang vẻ duyên dáng ngạo mạn của một chú nai rừng, anh cố nén tiếng thở
dài. Các cô bán hàng không để ý đến anh. Bộ đồng phục họ mặc để lộ ra đôi cánh
tay và chiếc cổ nõn nà. Đêm xuống dần. Cái nóng đầu hè, giống như nhiệt độ của một xác chết khổng lồ hạ hẳn xuống. Người
ta di chuyển như đang mò mẫm từng bước trong màn đêm của tiềm thức, mong tìm
lại ký ức về cái ấm áp ban trưa còn sót lại chút hơi tàn trong da thịt: họ thốt
lên tiếng thở dài mơ hồ. Tháng sáu, sáu giờ rưỡi: không một ai trong phố lại đổ
mồ hôi vào lúc này. Nhưng vợ của Điểu thì nằm trần truồng trên một tấm nệm cao
su, đôi mắt nhắm nghiền giống như một con gà lôi bị trúng đạn từ trên trời rơi
xuống, và trong khi nàng vừa rên rĩ vừa lo lắng và mong đợi thì mồ hôi nhỏ giọt
trên cơ thể nàng.
Điểu nhún vai, chăm chú vào những chi tiêt của
tấm bản đồ. Đại dương bao quanh lục địa châu Phi nổi lên một chấm màu xanh nhạt
của bầu trời mùa đông vào buổi hoàng hôn. Kinh độ và vĩ độ không phải là những
đường nét máy móc của chiếc com-pa: những đường nét đậm gợi lên sự do dự và
thất thường của người vẽ. Lục địa trôi giống như chiếc sọ của một người bị treo
đầu. Với đôi mắt sầu thảm, chán chường, một con người có cái đầu to tướng đang
đâm đâm nhìn châu Úc, miền đất của gấu koala, thú mỏ vịt và kanguru. Bức tiểu
họa châu Phi chỉ sự phân bổ dân số nằm dưới góc bản đồ, giống đầu người chết
bắt đầu thối rữa. Một bức khác, hiện lên những con đường giao thông, giống đầu
người bị lột da lộ ra những mao mạch đau đớn. Cả hai bức tiểu họa nhỏ bé này
gợi lên sự chết chóc bất thường, nguyên sơ và tàn bạo.
“Tôi lấy tập bản đồ cho anh xem?”
“Không, đừng bận tâm,” Điểu nói. “Tôi đang tìm
những tấm bản đồ chỉ đường của Tây Phi, Trung và Nam Phi do Michelin in”. Cô
gái cúi xuống ngăn kéo đựng đầy bản đồ Michelin và bắt đầu lăng xăng lục lọi.
“Dãy số 182 và 185,” Điểu chỉ rõ cho cô bán hàng, rõ ràng là một bản đồ châu
Phi cũ.
Tấm bản đồ mà Điểu khao khát bấy lâu nay là một
trang trong tập bản đồ bìa da, nặng ký, được trang trí bằng nhiều hình ảnh quí
giá. Một vài tuần trước, anh đã dò giá tập bản đồ và biết nó bằng năm tháng
lương giáo viên của anh dạy tại một trường luyện thi. Nếu muốn có đủ tiền mua,
anh có thể làm thêm ngoài giờ công việc phiên dịch và phải mất ba tháng. Nhưng
Điểu còn phải nuôi thân mình và nuôi vợ, vợ anh lại sắp sinh. Điểu là cột trụ
của gia đình!
Cô bán hàng chọn hai tấm trong số tấm bản đồ bọc
giấy bìa đỏ đặt lên quầy. Đôi tay nàng gầy và vấy bẩn, những ngón tay khẳng
khiu của nàng gợi nhớ bàn chân con kỳ nhông bám chắc trên cây. Mắt Điểu dán vào
nhãn hiệu Michelin nằm dưới ngón những ngón tay của nàng: một gã đàn ông bằng
cao su trông giống như con cóc đang lăn cái ruột xe chạy xuống đường, làm anh
cảm thấy việc mua bản đồ là điều ngớ ngẩn. Nhưng đây là những tấm bản đồ mà anh
muốn dung vào mục đích quan trọng.
“Tại sao tập sách bản đồ mở ra đúng trang châu
Phi?” Điểu hỏi với vẻ thèm muốn. Cô gái bán hàng, vì một lý do cảnh giác nào
đó, không trả lời. Tại sao nó luôn
luôn mở ra ở trang châu Phi? Phải chăng người quản lý tiệm nghĩ rằng bản đồ
châu Phi là trang đẹp nhất trong quyển sách? Nhưng châu Phi đang trong quá trình thay đổi một cách chóng mặt, khiến cho
bất cứ tấm bản đồ nào về nó cũng nhanh chóng lỗi thời. Và sự thay đổi theo thời
gian bắt đầu từ trang châu Phi sẽ khiến cho toàn bộ tập bản đồ không sử dụng
được. Cái mà anh cần là một bản đồ không bao giờ bị lỗi thời bởi vì những hình dạng
thuộc về chính trị được ổn định. Thế thì anh nên chọn châu Mỹ? Bắc Mỹ chẳng
hạn.
Điểu cắt đứt dòng tư tưởng để trả tiền cho những
tấm bản đồ, rồi cất bước xuống lối đi dẫn đến cầu thang, cúi mặt khi đi ngang
qua giữa chậu cây và bức tượng đồng khỏa thân to béo. Bụng bức tượng đã bị những
bàn tay nản chí làm vấy bẩn bằng dầu: nó trơn bóng giống như mũi chó. Khi còn
là sinh viên, mỗi lần đi ngang qua đây, Điểu thường hay mân mê cái bụng. Hôm
nay, anh không còn đủ can đảmđể nhìn thẳng vào mặt bức tượng. Điểu đã thoáng
thấy bác sĩ và các y tá đang lau đôi tay của họ bằng thuốc tẩy trùng bên cạnh
chiếc bàn mà vợ anh đang nằm trần truồng trên đó. Đôi tay của bác sĩ được phủ lông.
Điểu cẩn thận nhét những tấm bản đồ vào túi áo vét-tông,
rồi ấn sang bên hông khi chen qua quầy bán báo đông người và tiến thẳng đến
cánh cửa. Đó là những tấm bản đồ đầu
tiên anh đã mua để sử dụng khi đặt chân đến châu Phi. Anh ray rức tự hỏi nếu
the day would ever come when anh thực sự đặt chân đến đất châu Phi và nhìn bầu
trời châu Phi qua cặp kính răm. Or was he losing, this very minute, once and
for all, any chance he might have had setting out for Africa?
Có phải anh buộc lòng phải nói câu từ biệt với chính mình về dịp may độc nhất
và cuối cùng của nỗi khao khát tột cùng trong máu thịt thời trai trẻ? Và nếu
vậy, tôi phải làm gì kia chứ? Tôi chẳng thể làm được quái quỉ gì cả!
Điểu giận dữ đẩy cánh cửa và bước ra con đường
chiều đầu hạ. Lề đường phủ sương mù: làn không khí vẩn đục và mờ đi. Điểu dừng
chân chăm chú nhìn mình hiện ra một cách chập choạng trong ô cửa kính bày hàng.
Anh đã già trước tuổi. Điểu, hai mươi bảy tuổi bốn tháng. Năm mười lăm tuổi,
anh được đặt biệt danh là “Điểu” và mang chết cái tên này luôn từ đó. Cái tướng
mạo vụng về, chập chờn như một thây ma chết đuối trong biển kính đen xì vẫn còn
giống như một con chim. Anh nhỏ con và gầy. Đám bạn anh đã bắt đầu lên cân ngay
khi chúng tốt nghiệp đại học và kiếm được việc làm, ngay cả những đứa ốm như co
ma cũng đã phát phì khi chúng lập gia đình. Riêng Điểu, trừ cái dạ dày thon lỏn
trong bụng, còn lại chỉ là xương với da. Khi đi, tay chân anh lòng thòng còn
hai vai thì co rút. Lúc anh đứng yên cũng vẫn cái tư thế như vậy. Anh chẳng
khác nào một ông già còm cõi mà xưa kia đã từng là một lực sĩ.
Không phải chỉ có đôi vai anh rủ xuống giống như
đôi cánh xếp mà những nét đặc trưng của anh đại khái đều giống như chim. Cái
mũi nâu sạm, bóng mượt nhô ra khỏi gương mặt giống như mỏ chim, quặp thẳng
xuống đất. Đôi mắt không hồn mở đục màu keo dán và hầu như chẳng có lúc nào
biểu lộ chút tình cảm, năm thì mười họa mới chớp chớp vì một sự ngạc nhiên
không thái quá. Đôi môi mỏng và thô luôn luôn dán chặt trên hai hàm răng. Hai
đường từ lưỡng quyền cao chạy thẳng xuống cằm tạo thành hình chữ V nhọn gốc.
Tóc như những ngọn lửa hồng liếm bầu trời cao. Đấy chính là diện mạo của Điểu
lúc mười lăm tuổi và ở độ tuổi hai mươi cũng chẳng có gì thay đổi. Còn bao lâu
nữa anh cứ tiếp tục giống như một con chim? Không có sự lựa chọn nào khác ngoài
việc phải sống với cùng khuôn mặt và điệu bộ từ mười lăm đến sáu mươi lăm tuổi
hay sao? Vậy thì cái hình ảnh mà anh đang nhìn trong vuông cửa kính là tổng hợp
toàn bộ cuộc đời anh.Điểu nhún vai, ghê tởm đến tận cổ khiến anh muốn nôn mửa.
Thật là một phát hiện đáng sợ: Điểu than tàn, sức yếu, với một bầy con…
Bất ngờ, một phụ nữ với tướng tá hết sức khác
thường, lồ lộ hiện ra trong bể kính mù mờ và chậm rãi bước về phía Điểu. Cô
nàng to con đến nỗi khuôn mặt trùm lên cả cái đầu của Điểu phản chiếu trong
kính. Điểu có cảm giác như có một con quái vật đang hung dũng đi ngang qua sau
lưng anh. Cuối cùng anh quay người lại. Người phụ nữ dừng lại trước mặt anh và
nhìn anh một cách thân thiện. Điểu nhìn lại. Một giây sau đó, anh thấy ánh mắt
tha thiết khẩn nài của ả đã biến thành sắc thờ ơ ảm đạm. Thoạt đầu cô ả đã
tưởng tìm được người đồng hội đồng thuyền, nhưng đột nhiên ả nhận ra mình đã
nhầm. Cùng lúc đó, Điểu nhận ra điều bất bình thường trên khuôn mặt của cô ả.
Những lọn tóc uốn cong thừa mứa gợi cho anh nhớ đến thiên thần Fra Angelico.
Anh đặc biệt chú ý đến những sợi râu màu hung mà lưỡi dao cạo để sót lại trên
mép của cô ả. Những sợi râu đã làm hỏng một lỗ trên bức tường trang điểm dày
đặc và chúng đang rung rinh như thể là đau khổ.
“Chào!” người phụ nữ to con nói với giọng ồ ồ
đàn ông. Cuộc gặp gỡ đã làm cho cô ả rụng rời tay chân vì lỗi lầm hấp ta hấp
tấp của mình.
“Chào!” Điểu vội nở một nụ cười trên khuôn mặt
và đáp lễ bằng một giọng hơi khan khan như vịt đực, một đặc điểm càng làm anh
giống chim.
Cái anh chàng cải trang nữ giới quay nửa vòng
đôi giày cao gót và từ từ bước xuống đường. Điểu nhìn anh ta đi một thoáng, rồi
cất bước đi về hướng khác. Anh đi tắt qua một ngõ hẹp và đắn đo, thận trọng rồi
mới bắt đầu băng qua một con đường rộng có đường dành cho xe điện chạy theo dây
cáp. Ngay tính thận trọng quá đáng thỉnh thoảng cũng làm cho Điểu lên một cơn
co thắt dữ dội, gợi lên hình ảnh một chú chim nhỏ bé mất hồn vì sợ hãi – hoàn
toàn phù hợp với biệt danh của anh.
Anh chàng giả gái đó thấy tôi nhìn hình ảnh mình
phản chiếu trong vuông cửa kính tưởng rằng tôi đang đợi chờ ai, và anh ta đã
nhầm tôi với một kẻ đi tìm bò lạc. Một sự nhầm lẫn đáng bẽ mặt, nhưng vì cô ả
đã nhận ra lỗi lầm của mình ngay khi Điểu quay lại, nên danh dự của anh vẫn
còn. Bây giờ, anh đang vui thú với cuộc chạm trán đáng buồn cười này. Chào! –
không có lời chào hỏi nào phù hợp hơn với hoàn cảnh này, quả là cô ả phải có
một cái đầu sáng suốt.
Điểu cảm thấy trào lên niềm thương cảm cho chàng
thanh niên cải trang thành một thiếu nữ to lớn. Liệu anh ta có thành công để
chài được một kẻ đồi trụy tối nay và biến hắn thành một con bồ câu không? Lẽ ra
tôi phải tìm thấy đủ can đảm đi với anh chàng.
Khi đã bước sang lề đường bên kia và rẽ vào một
con đường đông đúc, đầy quán rượu rẻ tiền và nhà hàng, Điểu vẫn tưởng tượng
điều gì xảy ra nếu anh đi với chàng thanh niên đến một xó xỉnh tồi tàn nào đó
trong thành phố. Chắc là chúng tôi sẽ nằm trần truồng, sát bên nhau như anh em,
và trò chuyện. Tôi cũng nên trần truồng như nhộng để anh chàng không cảm thấy
ngượng ngùng. Tôi phải nói cho chàng biết rằng tối nay vợ tôi sanh, rồi có lẽ
tôi nên thú nhận rằng mấy năm nay tôi muốn đi châu Phi, và một trong những điều
mộng ước của tôi là, khi trở về nhà, viết một thiên ký sự về những cuộc phiêu
lưu mạo hiểm ở đó với tựa đề Bầu trời Châu Phi. Tôi phải nói luôn rằng chuyện
một mình tôi đến châu Phi không thể thực hiện được nếu tôi bị nhốt trong bốn
bức tường của gia đình khi đứa con chào đời. (Tôi sống trong lồng từ khi cưới
vợ, mặc dù cho đến giờ phút này cửa lồng luôn luôn có vẻ như mở, nhưng có thể
tiếng khóc chào đời của con tôi chính là tiếng đóng cửa lồng). Tôi sẽ nói đủ
mọi chuyện trên đời, anh chàng sẽ chịu khó chọn lọc từng tình tiết một những
chuyện làm cho tôi mất ăn mất ngủ, tập trung lại dần, và chắc chắn anh chàng sẽ
hiểu ra. Bởi vì một chàng trai chủ quan tin rằng mình sẽ chài được một tên dâm
ô đồi trụy ngoài phố thì như thế tất phải có cặp mắt, đôi tai và một trái tim
nhạy cảm với nỗi lo ngại cắm rễ sâu xa trong tận cùng tiềm thức.
Sáng hôm sau, có thể chúng tôi cùng cạo râu và
cùng nghe tin tức qua radio, dung chung cái đĩa đựng xà phòng. Anh chàng đó còn
trẻ nhưng râu thì rậm ri và… Điểu cắt ngang dòng tưởng tượng phiêu bồng và mỉm
cười. Cùng trải qua một đêm quả là quá trớn, nhưng ít ra anh nên mời anh chàng
đi uống một thứ gì đó. Điểu đang đứng trên một con đường đầy những quán rượu ấm
cúng, rẻ tiền, nối tiếp nhau: anh lạc vào mê hồn trận của đám đông chuếnh
choáng hơi men. Cổ họng anh khô khốc và anh muốn uống cho dù anh phải uống một
mình. Anh quay ngoắt cái đầu trên chiếc cổ cò gầy guộc, quan sát các quán rượu
nằm hai bên đường. Thực ra, anh không định dừng lại ở bất kỳ quán nào. Điểu
tưởng tượng bà mẹ vợ sẽ phản ứng thế nào nếu anh đến bên cạnh vợ và đứa con mới
sinh với mùi rượu nồng nặc. Anh không muốn ông bà già vợ thấy mình bị ma men
hớp hồn: một lần nữa.
Hiện giờ, cha vợ của Điểu dạy tại một trường cao
đẳng tư thục nhỏ, nhưng trước kia ông là chủ nhiệm khoa Anh ngữ ở trường đại
học của Điểu cho đến khi nghỉ hưu. Cũng nhờ thiện chí của ông cha vợ mà Điểu
may mắn kiếm được chỗ dạy tại một trường luyện thi. Anh yêu mến ông già và anh
sợ ông, Điểu chưa bao giờ gặp một người lớn tuổi nào rộng lượng như ông cha vợ.
Anh hoàn toàn không muốn làm ông thất vọng thêm lần nữa.
Điểu cưới vợ vào tháng Năm khi anh hai mươi lăm
tuổi, và mùa hè đầu tiên năm đó anh say bốn tuần liền không thiếu một ngày. Một
cách bất ngờ, anh trôi dạt vào biển rượu, một Robinson Crusoe ngu muội. Sao
lãng mọi bổn phận của mình: một sinh
viên thi tốt nghiệp, việc làm, chuyện nghiên cứu, vứt bỏ mọi thứ không chút đắn
đo suy nghĩ, Điểu ngồi suốt ngày từ sáng đến khuya trong căn bếp âm u ở nhà tập
thể của anh, nghe nhạc và uống rượu mạnh. Dường như đối với anh lúc này, nhìn
lại chuỗi ngày khủng khiếp đó, ngoài việc vừa nghe nhạc, vừa uống rượu và đắm
chìm trong giấc ngủ say mèm, khắc nghiệt, anh không có một mảy may hoạt động
nào của một con người đang sống. Bốn tuần lễ sau đó, Điểu thức tỉnh sau bảy
trăm tiếng đồng hồ bị con ma men hành hạ để nhận ra mình, than tàn ma dại,như
sự hoang phế của một thành phố bị ngọn lửa chiến tranh tàn phá. Anh giống như
một kẻ bất tài bị tâm thần, có rất ít cơ may hồi phục, nhưng anh phải chế ngự
lại tất cả, không chỉ những đổ nát hoang tàn trong tâm hồn anh mà cả những quan
hệ đã hoang phế của anh đối với thế giới bên ngoài. Anh bỏ trường không thi tốt
nghiệp và nhờ cha vợ tìm cho một chân dạy học. Giờ đây, hai năm sau, anh đang
chờ vợ mình sanh đứa con đầu lòng. Lại một lần nữa, nếu anh lại có mặt ở bệnh
viện với mùi rượu nồng nặc, thì mẹ vợ anh hẳn sẽ chạy bán sống bán chết, kéo
theo cả con gái và cháu ngoại của bà.
Điểu tự cai nghiện rượu, nhưng nó đã ăn sâu tận
máu thịt, nên anh vẫn uống. Từ dạo bốn tuần liền sống với ma men, anh luôn luôn
tự hỏi tại sao mình có thể say sưa như vậy suốt bảy trăm tiếng đồng hồ, và
không bao giờ tìm được một câu trả lời dứt khoát. Sự sa vào hố thẳm rượu mạnh
của anh mãi mãi à một điều bí ẩn, và luôn còn đó nỗi nguy hiểm mà anh có thể
bất ngờ quay lại với nó bất cứ khi nào.
Trong một quyển sách viết về châu Phi mà anh đọc
ngấu nghiến, Điểu đã bắt gặp một đoạn: “Ngày nay, những cuộc liên hoan chè chén
trong làng mạc châu Phi vẫn còn phổ biến. Điều này gợi cho ta thấy cuộc sống ở
xử sở xinh đẹp này vẫn còn thiếu nền tảng. Những bất mãn cơ bản đang đẩy dân
làng châu Phi đến chỗ thất vọng và sống phóng túng”. Đọc lại đoạn này, rồi
nghiên cứu những ngôi làng nhỏ ở Sudan, Điểu nhận ra anh cứ tránh né
suy xét về tình trạng thiếu thốn và bất mãn đang rình rập cuộc đời anh. Nhưng
chúng hiện hữu, anh tin chắc như thế, vì vậy anh quan tâm đến việc bỏ rượu.
Điểu có mặt nơi quảng trường phía sau khu quán
rượu tạp nham, tập trung mọi xô bồ và huyên náo. Chiếc đồng hồ điện trên nhà
hát ở giữa quảng trường sáng lên bảy giờ tối – giờ gọi điện thoại hỏi thăm sức
khỏe vợ anh. Từ ba giờ chiều nay, cứ cách một tiếng đồng hồ, anh lại gọi điện
thoại đến bệnh viện cho mẹ vợ. Anh đưa mắt nhìn quanh quảng trường. Điện thoại
công cộng đầy rẫy, nhưng tất cả đều bận. Anh nóng nảy vì nghĩ rằng bà mẹ vợ
đang nôn nóng chờ điện thoại ở bệnh viện. Từ lúc đứa con gái đến bệnh viện, bà
bị ám ành vì ý nghĩ các nhân viên ở đậy đang cố làm bẽ mặt bà. Giá như chỉ có
thân nhân của một bệnh nhân khác đang gọi… Chẳng còn chút hy vọng gì, Điểu quay bước trở lại đường cũ, nhìn vào
những quán rượu và những tiệm cà phê, những tiệm mì Trung Hoa, những nhà hàng
bán món cô-lét và những tiệm giày. Anh có thể bước vào một tiệm nào đó để gọi
điện thoại. Nhưng anh muốn tránh vào một quán rượu nếu có thể được, và anh cũng
đã ăn tối. Tại sao anh không mua thuốc bột để làm cho êm cái bụng của anh nhỉ?
Điểu đang tìm tiệm bán thuốc tây thì bất ngờ một
cơ sở của người nước ngoài nằm trên góc đường án ngữ trước mặt. Trên một tấm
bảng quảng cáo to đùng treo trước cửa, một anh chàng cao bồi đứng khom người
với một khẩu súng đang nhả đạn. Điểu đọc dòng chữ vẽ trên đầu người Da Đỏ được
gắn dưới đôi giày có cựa sắt của chàng cao bồi: GÓC SÚNG ĐẠN. Bên trong, phía
dưới những lá cờ Liên hiệp quốc bằng giấy cùng những dải giấy nhiễu Tàu xoắn ốc
màu xanh và vàng, một đám đông thanh niên trẻ hơn Điểu nhiều đang vật lộn túi
bụi với những chiếc máy trò chơi sắp đầy từ trước ra sau. Điểu nhìn xuyên qua
những cánh cửa kính bày đầy băng trò chơi màu đỏ và màu chàm, trông thấy chiếc
điện thoại công cộng đặt nơi gốc. Anh bước vào Góc Súng đạn, đi ngang qua chiếc
máy bán Coke và chiếc máy hát tự động đang rú lên điệu rock-n-roll lỗi thời,
rồi bắt đầu bước qua cái sàn nhà bằng gỗ xám xịt. Ngay lúc đó, như thể có tiếng
phi đạn đang nổ bên tai anh, Điểu uể oải đi ngang qua căn phòng như đang đi
trong một mê cung, bước qua những chiếc máy chơi banh lỗ, máy chơi trò ném phi
tiêu và một khu rừng thu gọn sống động đầy nai, thỏ cùng những chú cóc nhái màu
xanh kinh dị di chuyển trên một băng chuyền. Khi Điểu đi ngang qua thì thấy một
cậu học sinh trung học tóm được một con nhái dưới đôi mắt than phục của đám bạn
gái, và trên ô điểm bên cạnh máy trò chơi hiện lên điểm 5. Cuối cùng, anh cũng
đến được chỗ điện thoại. Bỏ một đồng xu vào máy, Điểu quay số bệnh viện theo
trí nhớ. Một tai anh nghe tiếng chuông điện thoại reo từ xa, còn tai kia thì
rào rạo tiếng ồn điệu nhạc rock –n –roll giống như hàng vạn con cua đang thi
nhau trốn chạy. Đám trẻ hứng khởi, say mê với những đồ chơi tự động của chúng,
đang chen lấn trên sàn gỗ với những đế giày da Ý mềm mại. Mẹ vợ anh sẽ nghĩ gì
về những tiếng ầm ĩ này? Có lẽ anh sẽ nói một điều gì đó về tiếng ồn khi anh
xin lỗi vì gọi muộn.
Chuông reo đến bốn lần trước khi nghe giọng nói
của mẹ vợ anh, nghe như giọng vợ anh và hơi trẻ hơn. Điểu hỏi thăm vợ mình ngay
mà không một lời xin lỗi như đã định..
“Chưa. Chưa sinh. Vợ con đang đau lắm, còn đứa
bé thì chưa chịu ra!”.
Không nói một lời, Điểu nhìn vào màng ống nghe.
Bề mặt của nó giống như bầu trời đêm phủ đầy những vì sao đen, lập lòe lúc tối
lúc sang theo từng hơi thở của anh.
“Vào lúc tám giờ con sẽ gọi lại”, một phút sau
đó anh nói rồi treo máy và thở dài.
Một chiếc máy chơi trò lái xe được cài đặt bên
cạnh điện thoại, thằng nhóc trông giống
như dân Phi luật tân ngồi sau tay lái. Bên dưới chiếc laguar thu nhỏ người ta
đặt một trục lăn ở giữa tấm bản, một băng chuyền vẽ phong cảnh đồng quê quay liên
tục, làm cho chiếc xe xuất hiện với tốc độ chóng mặt trên con đường cao tốc của
vùng ngoại ô. Ở những khúc cua, các chướng ngại vật như bò, cừu, các cô gái,
những tốp con nít không ngừng hiện ra đe dọa chiếc xe bé nhỏ. Công việc của
người chơi là tránh va chạm vào những chướng ngại vật bằng cách bẻ tay lái và
điều khiển chiếc xe chạy trên đầu trục lăn đó. Thằng nhóc với chiếc quần đùi
nhàu nát, lông mày ngâm đen, khom người trên tay lái với sự tập trung cao độ.
Nó cắn môi, phùng mang, trợn mắt lái lien tục như tin chắc rằng cuối cùng cái
băng chuyền cũng ngừng xoay và đưa chiếc xe đến đích. Nhưng con đường cứ liên
tục trương ra những chướng ngại trước mặt chiếc xe nhỏ bé. Thỉnh thoảng, khi
băng chuyền bắt đầu chạy chậm lại, thằng nhóc thọc tay vào túi quần móc ra một
đồng xu và đặt vào con mắt kim loại của chiếc máy. Điểu dừng chân đứng nghiêng
người sau lưng thằng nhóc, nhìn nó chơi một chút. Chẳng bao lâu, một cảm giác
mệt mỏi, không thể chịu nổi xâm chiếm đôi chân anh. Điểu vội vã đi về phía cửa
sau, bước đi như đang dẫm trên một tấm kim loại nóng rực. Phía sau phòng trưng
bày, anh bắt gặp một cập máy thật kỳ lạ.
Chiếc máy bên trái được bao quanh bởi một băng
thiếu niên mặc toàn áo khoác giống nhau thêu những con rồng bằng kim tuyến vàng
và bạc, một món hang kỷ niệm của Hồng Kông dành cho du khách Mỹ. Chúng gây ra
những tiếng ồn tạp nham làm chói tai nhức óc. Điểu tiến đến chiếc máy bên trái,
vì lúc đó nó nằm không. Đây là dụng cụtra tấn thời Trung cổ, một cái Máy chém.
Bằng sắt – mẫu của thế kỷ 20. Nó là một thiếu nữ xinh đẹp bằng sắt, cỡ bằng
người thật, với những sọc cơ khí đỏ đen, đang chéo hai cánh tay che kín bộ ngực
trần. Người chơi cứ việc thử kéo cánh tay của nàng ra khỏi ngực để nhìn thoáng
qua đôi vú kim loại được giấu kín trong đó. Đôi mắt người đẹp là hai ô điểm ghi
số lần kẹp chặt và kéo. Trên đầu nàng là bảng ghi số tuổi trung bình tương ứng
với kết quả kéo và đẩy.
Điểu cho một đồng xu vào giữa đôi môi người đẹp.
Xong xuôi, anh bắt đầu kéo mạnh đôi tay nàng. Đôi tay bằng thép kháng cự lại
một cách ngoan cố: Điểu kéo mạnh hơn. Dần dần khuôn mặt của anh bị hút vào bộ
ngực bằng sắt của nàng, Điểu có cảm giác như anh đang hiếp dâm người đẹp, vì rõ
ràng là người ta cố ý tạo cho khuôn mặt nàng những nét đau đớn. Anh căng thẳng
cho đến khi gân cốt đau nhừ. Đột nhiên có tiếng gầm gừ trong ngực nàng giống
như tiếng cài số xe, và những tấm thẻ có ghi số màu máu loãng đập vào đôi mắt
sâu hoắm của nàng. Điểu mềm như con bún, thở hổn hển, đưa mắt nhìn bảng điểm.
Không rõ các đơn vị diễn tả điều gì, nhưng Điểu đạt được 70 điểm kẹp và 75 điểm
kéo. Trong một cột trên bảng dưới số 27, Điểu thấy KẸP: 110 – KÉO: 110. Điểu
nhìn lướt bảng điểm của anh là trung bình đối với một người bốn mươi tuổi. Bốn
mươi tuổi! – một cú sốc làm anh nghẹn cuống họng và anh phải rán ợ lên như đã
nư. Điểu! Hai mươi bảy tuổi bốn tháng mà kẹp và kéo không hơn một người bốn
mươi tuổi. Thế là thế nào? Giờ đây, cái cảm giác như kiến bò trên đôi vai và
hai bên hông đang dần dần biến thành một cơn đau dai dẳng. Quyết định chuộc lại
danh dự, Điểu tiến đến cái máy trò chơi bên phải. Anh ngạc nhiên nhận ra rằng
bây giờ anh hăng hái muốn thử sức mình với trò chơi này.
Với sự nhanh nhẹn của những con thú hoang dã
sống trong khu vực bị xâm lấn, bọn trẻ mặc áo khoác thêu rồng chận đường Điểu
và vây kín anh bằng những tia nhìn thach thức. Hồi hộp, nhưng làm mặt tỉnh khô,
Điểu quan sát chiếc máy nằm giữa vòng vây của chúng. Nó cấu tạo gần giống như
cái giá treo cổ trong một phim cao bồi miền Tây, ngoại trừ cái nón sắt giống
như loại nón của kỵ binh Slave được treo ở một điểm mà kẻ không may sống ngoài
vòng pháp luật bị hành quyết. Chiếc nón sắt chỉ che đậy một phần cái bao cát
phủ trong miếng da hoẵng màu đen. Khi cài một đồng xu vào cái lỗ sang rực như
con mắt của người khổng lồ độc nhãn ở giữa chiếc nón sắt, người chơi kéo bị cát
xuống và cây kim chỉ số tự nó chỉ số 0. Giữa cây kim chỉ số có một bức hí họa
Chuột Rô-bô, mở toác cái miệng rộng màu vàng và la lên: Tiến lên Kẻ giết người!
Hãy thứ đo sức mạnh nắm đấm của bạn đi!”.
Khi Điểu đứng yên và chỉ đưa mắt nhìn về phía
chiếc mày thì một thằng trong bọn bước tới như muốn dương oai, bỏ một đồng xu
vào chiếc nón sắt rồi kéo bao cát xuống. Để tỏ vẻ ta đây là người sành sỏi, nó
lui ra sau một bước rồi lả lướt tung cả than người về phía trước, đấm túi bụi
vào bao cát. Một tiếng kêu chói tai vang lên: đó là tiếng leng keng của sợi
xích đổ sầm xuống bên trong chiếc nón sắt. Chiếc kim nhảy vượt qua những con số
trên máy đo rồi rung rinh một cách vô nghĩa. Bọn trẻ phá lên cười. Cú đấm đã
vượt quá khả năng của máy đo khiến cho cây kim bị tê liệt không trẻ về vị trí
cũ. Thằng nhỏ đắc thắng đá nhẹ vào bao cát, lần này bằng một thế võ karate, và
cây kim nhảy xuống số 500 trong khi bao cát bò từ từ lên lại chiếc nón sắt
giống như một con ốc ma kiệt sức. Lại một lần nữa, cả bọn cười rộ.
Một nỗi khát vọng vô biên vồ lấy Điểu. Để khỏi
làm nhân chứng tấm bản đồ, anh cẩn thận lấy chúng ra khỏi chiếc áo khoác và đặt
lên bàn chơi bài. Xong xuôi, anh lấy trong túi ra một đồng xu trong số tiền
dành để gọi điện thoại đến bệnh viện bỏ vào chiếc nón sắt. Bọn trẻ theo dõi
từng động tác của Điểu. Điểu hạ thấp bao cát xuống, lui ra sau một bước và giơ
nắm đấm. Sau khi bị đuổi ra khỏi trường trung học, vào thời gian anh đang học
thi để chuẩn bị lên đại học, hầu như tuần nào anh cũng cãi nhau ầm ĩ với những
học sinh vi phạm kỹ luật khác trong tỉnh lỵ. Anh đã từng sợ hãi và cũng từng
được hâm mộ, Điểu tin vào sức mạnh quả đấm của mình. Anh đấm đúng qui cách,
không đấm một cách liều lĩnh, vụng về. Anh dốn sức mạnh xuống bắp chân, bước
nhẹ tới trước một bước rồi đấm mạnh vào bao cát bằng cú đấm tay mặt. Cú đấm của
anh có vượt qua giới hạn con số 2500 và làm hỏng máy đo không? Như quỉ tha ma
bắt – cây kim chỉ số 300! Thử lại lần thứ hai, nắm tay còn để trước ngực, Điểu
nhìn vào chiếc máy đo trong trạng thái hết sức kinh ngạc. Giòng máu nóng dồn
lên mặt anh. Sau lưng anh, bọn trẻ mặc áo khoác thêu rồng vẫn đứng lặng yên,
nhưng chắc chắn những cặp mắt của chúng đều tập trung vào Điểu và chiếc máy đo.
Sự xuất hiện của một người đàn ông có cú đấm quá xoàng khiến chúng phải lặng
câm như hến.
Điểu làm như không hay biết gì về sự có mặt của
bọn trẻ, quay lại chiếc nón sắt, bỏ vào một đồng xu khác rồi kéo bao cát xuống.
Lần này không có thời gian lo chuyện đấm cho đúng tư thế: anh tung hết sức mạnh
toàn than theo sau cú đấm. Cánh tay mặt của anh tê điếng và cây kim chỉ dừng
lại ở số 500.
Điểu khom người xuống, nhặt nhanh chiếc áo khoác
mặc vào, đừng đối diện với bàn chơi bài. Sau đó, anh quay nhìn bọn trẻ đang
quan sát mình trong im lặng. Điểu cố nở một nụ cười kẻ cả, hoàn toàn thông cảm
và ngạc nhiên, của một cựu vô địch về vườn từ lâu đối với nhà vô địch trẻ.
Nhưng bọn trẻ chỉ đăm đăm nhìn anh bằng nét mặt đanh như thép, như đang nhìn
một con chó. Điểu đỏ cả mang tai, cúi đầu và vội vã chuồn ra khỏi phòng chơi.
Một trận cười hả hê nổ tung sau lưng anh, dĩ nhiên đó là trận cười hân hoan đắc
thắng.
Choáng váng vì xấu hổ như con nít, Điểu băng qua
công viên và lủi vào lề đường tăm tối: anh mất can đảm để chường mặt trong đám
đông người xa lạ. Bọn gái ăn sương đứng dọc theo đường, nhưng trông thấy nét
mặt giận dữ của anh, họ mất can đảm mời chào. Điểu rẽ vào một đường hẻm chẳng
có em điếm nào núp bóng, bất ngờ anh bị một bờ đất cao chặn lại. Nhờ mùi lá
xanh trong đêm tối anh nhận ra lớp cỏ mùa hè dày trên triền đê. Trên mặt đê là
con đường xe lửa. Điểu chăm chú nhìn ngược nhìn xuôi để xem có chuyến tàu nào
đang chạy đến không và chẳng phát hiện ra thứ gì trong bóng đêm. Anh nhìn lên
bầu trời đen như mực. Làn sương phản chiếu những ánh đèn nê-ông của quảng
trường, hiện lên màu hung hung là đà trên mặt đất. Một giọt nước mưa bất ngờ
làm ướt má Điểu – mùi cỏ thơm phức nhờ thấm cơn mưa. Điểu cúi đầu xuống, và như
thế chẳng biết làm gì khác, anh trật quần ra tè một cách lén lút. Trước khi tè
xong, anh nghe những bước chân hỗn loạn đang tiến tới từ phía sau. Ngay lúc anh
quay lại thì thấy mình đã bị bọn trẻ mặc áo khoác thêu rồng bao vây.
Với một chút ánh sang mờ nhạt sau lưng chúng,
bọn trẻ đứng trong bóng tối bao trùm, Điểu không thể nào nhận ra được sắc mặt
của chúng. Nhưng anh nhớ lại thái độ bất hợp tác của chúng đối với mình trong
Góc Súng đạn. Cả băng đã phát hiện một sinh vật quá yếu đuối, và bản năng côn
đồ của chúng đã trỗi dậy. Với nhu cầu của một đứa trẻ hung dữ muốn dày vò bạn
cùng chơi yếu hơn mình, chúng chạy đuổi theo con cừu đáng thương chỉ đấm được
500 điểm. Điểu sợ hãi: nóng lòng tìm đường thoát thân. Muốn đến được quảng
trường đầy ánh sáng, anh phải chạy thẳng về phía bọn chúng và phá vỡ vòng vây
tại điểm kiên cố nhất. Nhưng với sức lực của Điểu – phanh và kéo của một người
bốn mươi tuổi – thì không còn gì đáng nghi ngờ: chúng dễ dàng tống lui anh.
Phía tay phải anh la hẻm cụt bị chặn bởi một hàng rào ván. Con hẻm hẹp phía tay
trái, giữa bờ đê và hàng rào dây thép cao bao quanh sân một xí nghiệp thì kéo
dài ra một khoảng xa mới tới được đường phố đông đúc. Điểu có một cơ hội thoát
nạn nếu anh chạy suốt con đường đó mà không bị tóm. Quyết tâm, Điểu làm động
tác giả chạy về phía con hẻm cụt bên tay phải, rồi xoay người và đổi hướng sang
bên trái. Nhưng kẻ thù đã biết quá rành đường đi nước bước trong thành phố này,
giống như hồi hai mươi tuổi Điểu cũng đã thuộc nằm lòng thị trấn ban đêm của
quê anh. Mở vòng vây, bọn trẻ đổi hướng về phía trái rồi tập hợp lại trong khi
Điểu giả vờ chạy về phía phải, Điểu đâm
đầu chạy thẳng và khi anh lao người về phía con hẻm bên trái anh đụng phải cái
bóng người lờ mờ cong vòng như một cây cung, một cuộc tấn công giống như bọn
trẻ đã sử dụng trên bao cát. Không còn thời gian hay chỗ nào né tránh, Điểu dồn
hết sinh lực vào cú đấm nốc ao tồi tệ nhất rồi ngã ngửa vào bờ đê. Rên rỉ, anh
phụn ra nước bọt và máu. Bọn trẻ cười ré lên giống như khi chúng làm tê liệt
cái máy đấm. Sau đó, chúng im lặng nhìn Điểu nằm yên và khép kín nửa vòng vây.
Cả băng đang chờ đợi.
Điểu chợt nhớ ra rằng những tấm bản đồ hẳn đã bị
nháu nát. Và đứa con anh đang ra đời: ý nghĩ nhảy múa với sự cay cú mới phát
sinh. Cơn thịnh nộ bất ngờ chiếm lấy anh cùng với nỗi tuyệt vọng dữ dội. Cho
đến lúc ấy, ngoài sự kinh hãi và hoang mang, Điểu chỉ lo tính kế tẩu đào. Nhưng
bây giờ anh lại không có ý định tháo chạy nữa. Nếu bây giờ tôi không chiến đấu,
tôi sẽ không chỉ vĩnh viễn mất cơ hội đi đến châu Phi, mà đứa con của tôi sẽ
đơn độc bước vào thế giới này để sống một cuộc đời với khả năng tồi tệ nhất –
đó là tiếng nói của sự linh cảm và Điểu tin vào điều đó.
Những giọt nước mưa rơi loạn xạ trên đôi môi
rách của anh. Anh lắc đầu, rên rỉ và chầm chậm đứng lên. Một nửa vòng vây của
bọn trẻ lui ra sau như để nhử con mồi. Và rồi một thằng vạm vỡ nhất trong bọn
xấn tới trước. Điểu đưa hai tay lên ra bộ rồi thoi vào cằm nó, quả đấm làm ảnh
hưởng đến cái xác không hồn của anh. Cẩn thận nhắm mục tiêu, thằng nhỏ đưa một
chân lên cao rồi quay vòng ra phía sau như một cầu thủ vờn bóng và vung mạnh
cánh tay phải đấm trả về phía trước. Điểu khom người xuống, đầu cúi thấp, và
giống như một con bò mộng hung dữ húc thẳng vào bụng của kẻ tấn công. Thằng
nhóc hét lên, nôn ọc rồi ngã vật xuống đất, Điểu hất đầu lên, kháng cự với
những đứa khác. Niềm vui ấu đả sống lại trong lòng anh kể từ nhiều năm qua,
Điểu và bọn trẻ mặc áo khoác thêu rồng đứng yên gườm nhau, đánh giá đối thủ.
Thời gian trôi qua.
Đột nhiên, một đứa trong bọn la lên: “Đi thôi
tụi bay ơi! Đừng đánh nhau với lão này. Già khú đế rồi!”.
Bọn trẻ giãn ran gay. Chúng đỡ thằng bạn bất
tĩnh đứng dậy và chuồn về phía quảng trường, rời khỏi chỗ Điểu đang đứng thủ
thế một mình trong cơn mưa. Một cảm giác khôi hài đến muốn bật cười dồn lên
cuống họng anh, và trong giây phút, anh bật cười trong im lặng. Chiếc áo khoác
của anh vấy máu, nhưng nếu anh có đi trong cơn mưa một lúc thì không ai có thể
nhận ra vì nước mưa đã rửa sạch. Điểu cảm thấy hơi an tâm. Tự nhiên, chỗ bị đấm
trên cằm đau, cả tay, lưng lẫn mắt cũng đau. Nhưng kể từ khi vợ anh lâm bồn đến
giờ, lần đầu tiên anh sống trong trạng lâm bồn đến giờ, lần đầu tiên anh sống
trong trạng thái hưng phấn, Điểu lê chân bước xuống con hẻm nằm giữa bờ đê và
dãy nhà máy. Chẳng bao lâu, một đầu máy cổ lỗ chạy bằng hơi nước phun ra đầy
than xỉ cháy đỏ chạy thình thịch trên đường ray. Chiếc xe lửa giống như một con
tê giác đen xì phi nước đại ngang qua bầu trời đen như mực trên đầu Điểu.
Ra tới đại lộ, trong khi chờ taxi, Điểu đưa lưỡi
rà tìm chiếc răng gãy rồi đẩy bật nó xuống đường.
2
Bên dưới tấm bản đồ Đông Phi đầy những vệt bùn, máu và mật
người dính trên tường, Điểu nằm cuộn tròn như một con mọt gỗ bị đe dọa. Anh đang ngủ trong
phòng của hai vợ chồng.Chiếc noi mây có mui trắng, vẫn còn bọc trong bao nhựa,
thu mình giữa hai chiếc giường như con sâu khổng lồ. Điểu đang mơ, rên rỉ chống
lại cơn giá lạnh của buổi sớm tinh mơ.
Anh đang đứng trên một cao nguyên nằm ở phía đông bờ hồ Chad, phía tây nước Nigeria. Anh có thể chờ đợi điều gì
ở một nơi như thế này? Thình lình một con phacochoere khổng lồ nhìn thấy
anh.Con vật ác độc tấn công, cát bụi tung lên mù trời. Nhưng như thế là tốt!
Điểu đã đến châu Phi với một cuộc phiêu lưu, chạm trán những bộ lạc mới và
những hiểm họa chết người, với cái nhìn thoáng qua bên kia chân trời tĩnh lặng
và cuộc sống hang ngày thường xuyên vỡ mộng. Nhưng anh không có vũ khí để chiến
đấu với con phacochoere. Tôi đến châu Phi không trang bị và không qua một cuộc
huấn luyện nào, anh nghĩ, và nỗi sợ hãi khích động anh. Trong lúc ấy con
phacochoere đang quỵ xuống. Điểu nhớ đến cái dao xếp anh thường giấu trong quần
khi còn là một đứa trẻ bụi đời ở tỉnh lỵ. Nhưng anh đã vất cái quần đó lâu rồi.
Thật buồn cười, anh không thể nhớ tiếng Nhật gọi con phacochoere là gì.
Phacochoere! Anh nghe tiếng một nhóm người, bỏ anh và tháo chạy đến một khu vực
an toàn, la lên: Hãy coi chừng! Chạy đi! Con phacochoere! Con vật điên tiết đã
có mặt ở một bụi cây rậm, thấp cách đó vài thước: Điểu không còn cơ hội thoát
thân. Và rồi, về hướng bắc, anh phát hiện ra một khu vực được bao bọc bởi một
vệt màu xanh không ngay hàng thẳng lối.
Có thể đó là một hàng dây thép. Nếu anh chạy tới được phía sau hàng dây thép
đó, có thể anh sẽ an toàn. Những người đã bỏ rơi anh từ hướng đó đang la lớn.
Điểu bắt đầu chạy. Quá muộn rồi! Con phacochoere gần đuổi kịp anh. Tôi đã đến
châu Phi không được trang bị và không qua một cuộc huấn luyện nào, tôi không
thể trốn thoát. Điểu thất vọng, nhưng nỗi sợ hãi thôi thúc anh. Vô số cặp mắt
của những kẻ an toàn sau cái đường xanh xiên xẹo nhìn Điểu đang chạy như bay về
phía họ. Những chiếc răng kinh tởm của con phacochoere gần táp trúng mắt cá
Điểu…
Chuông điện thoại đang reo, Điểu thức giấc. Rạng sáng, vẫn
còn mưa. Đôi bàn chân trần của Điểu dẫm phải cái sàn nhà ẩm ướt, anh nhảy lò cò
đến chiếc máy điện thoại như một con thỏ. Anh nhấc ống nghe và giọng một người
đàn ông hỏi tên anh mà không có lấy một lời chào hỏi vang lên. “Làm ơn đến bệnh
viện ngay. Đứa bé bất bình thường, bác sĩ sẽ giải thích sau”.
Trong phút chốc, Điểu bị lâm vào một tình thế không biết
xoay xở ra sao. Anh ước muốn quay về lối cũ để đến cao nguyên Nigeria liếm
chút dư vị của giấc mơ, cho dù đó là giấc mơ về một con nhím biển quái ác, mọc
tua tủa những gai nhọn sợ hãi. Nhưng anh tự kiềm chế, và bằng một giọng nói hết
sức khách quan mà đáng lẽ nó phải thốt ra từ một người xa lạ có trái tim sắt
đá, anh hỏi: “Người mẹ không sao chứ?” Điểu có cảm giác anh đã nghe mình hỏi
câu này cả ngàn lần bằng một giọng giống nhau.
“Vợ anh khỏe. Mong anh đến càng nhanh càng tốt”.
Điểu chạy vội lại phòng ngủ, giống như con cua đang tìm hang
ẩn núp. Anh nhắm nghiền đôi mắt và cố vùi mình trong hơi ấm của chiếc giường,
như để chối bỏ thực tế mà anh muốn xua đuổi ngay lập tức. Nhưng chuyện đâu vẫn
hoàn đó, Điểu lắc đầu cam chịu và nhặt áo quần mà anh đã vất bên cạnh giường
lên. Cả than thể anh đau nhừ khi anh tập trung nhớ lại cuộc ẩu đả đêm rồi. Sức
mạnh của anh đủ để chiến đấu và anh hãnh diện vì nó biết bao! Anh cố giữ lại cái
cảm giác hãnh diện đó, nhưng dĩ nhiên là không thể được. Điểu cài nút áo, nhìn
lên tấm bản đồ Tây Phi, Cao nguyên mà anh thấy trong giấc mơ là nơi có tên
Deifa. Ngay phía trên đó có một bức vẽ con lợn lòi có bướu trong tư thế tấn
công – một con lợn lòi có bướu! Con phacochoere là lợn lòi có bướu. Và đường kẻ
màu xanh da trời ngoằn ngoèo trên bản đồ có nghĩa là một khu dành riêng cho
loài thú săn mồi. Như thế thì anh cũng không thể nào an toàn nếu chạy đến được
cái hang rào xiên xẹo trong giấc mơ.
Điểu lại lắc đầu, vừa đi vừa mặc chiếc áo khoác khi rời
phòng ngủ, rồi nhón gót bước xuống cầu thàng. Bà già chủ nhà của anh sống ở
tầng một. Nếu bà thức dậy và bước ra hành lang, Điểu sẽ phải trả lời những câu
hỏi tò mò và đầy thiện chí như cối xay cùn của bà. Nhưng anh có thể nói gì kia
chứ? Anh chỉ vỏn vẹn nghe được lời tuyên bố trên điện thoại: thằng bé bất bình
thường! Điểu sờ soạng tìm đôi giày của mình dưới nền hành lang bằng đất, mở cửa
trước một cách yên lặng và bước ra ngoài trời sớm tinh mơ.
Chiếc xe đạp nằm ngả một bên trên nền sỏi dười bờ dậu. Điểu
dựng nó lên ngay ngắn và dùng tay áo khoác chùi chiếc yên da thói rữa ướt sũng
nước mưa. Chiếc yên xe chưa kịp khô, Điểu đã nhảy lên đạp tán loạn như một con
ngựa điên, phóng qua những bờ dậu ra tới con đường lát nhựa. Một chặp sau, anh
cảm thấy hai cái mông của mình lạnh và ẩm ướt. Trời lại mưa, gió thổi nước mưa
tạt thẳng vào mặt anh. Anh mở rộng đôi mắt, quan sát những ổ gà trên đường:
những giọt nước mưa lại bắn vào tròng mắt. Đạp đến con đường rộng và sáng sủa
hơn, Điểu quẹo trái. Lúc này gió đẩy cơn mưa quất vào bên phải anh nên dễ đi
hơn. Điểu gò người theo gió để giữ thăng bằng chiếc xe. Hai bánh xe đang chạy
khuẩy tung làn nước trên con đường nhựa và rải đều thành một làn sương mịn. Khi
Điểu nhìn nước từ bánh xe bắn tung tóe ra cùng lúc người anh chao nghiêng trong
gió, anh bắt đầu cảm thấy hoa mắt. Anh nhìn lên|: chẳng thấy một bóng người
trên con đường sáng sớm. Bao quanh con đường là những cây rẻ quạt âm u, dày
đặc, vô số lá, lá nào cũng trương phình nước mưa. Những thân cây đen xì chống
đỡ biển lá xanh mênh mông. Nếu những biển lá này cùng đổ xuống tức thì, Điểu và
chiếc xe của anh sẽ bị chết đuối trong giòng nước lụt thơm mùi lá sống, Điểu
cảm thấy mình bị rừng cây đe dọa. Trên đầu anh, những chiếc lá kết chum trên
những cành cây cao chót vót đang than vãn trong gió, Điểu nhìn lên, qua rừng
cây, anh thấy một khoảng trời hẹp ở phía đông. Phía sau mảng trời xám xịt rỏ ra
một vệt màu đỏ mờ nhạt của ánh mặt trời. Bầu trời giữa vòm cây có vẻ như hổ thẹn,
bị những đám mây trông giống những con chó long xờm chạy bừa lên. Ba con chim
ác là bay như tên bắn trước mặt Điểu, kêu lanh lảnh giống lũ mèo hoang và gần
đâm bổ vào người anh. Anh nhìn thấy những giọt nước ống ánh màu bạc, li ti như
những con rận tụ lại trên những chiếc đuôi màu xanh nhạt của chúng, Điểu để ý
thấy lúc này anh dễ hốt hoảng, cả thị giác lẫn thính giác và khứu giác của anh trở nên nhạy bén thật sự. Anh chợt
nảy ra ý nghĩ mơ hồ rằng đây là một điềm xấu: những sự việc giống như vậy đã
xảy ra trong suốt những tuần lễ anh chìm đắm trong cơn say.
Điểu cúi đầu, nhấn bàn đạp và tăng tốc độ. Cái cảm giác hay
đến châu Phi nhưng không thực hiện được giấc mơ của anh lại hiện về. Nhưng anh
đạp hết tốc lực. Vai anh quẹt vào cành cây rẻ quạt mềm yếu và cái đuôi xòe của
nó bật mạnh ra sau cắt đứt tai anh. Dù vậy, Điểu vẫn không đạp chậm lại. Những
giọt nước mưa rơi tới tấp như những viên đạn lướt qua lỗ tai đau nhói của anh.
Điểu thắng kít xe trước cửa bệnh viện, tiếng thắng xe ken két giống như tiếng kêu
của chính anh. Anh ướt như chuột lột: run rẩy. Khi anh vẩy nước ra khỏi người,
anh có cảm giác như mình đã trải qua một con đường dài, thật dài, không thể
tưởng tượng được.
Điểu dừng lại trước phòng kham để thở, rồi chăm chú nhìn vào
trong và nói với những người không rõ mặt đang chờ đợi anh trong ánh sáng lờ
mờ.
“Tôi là cha đứa bé,” anh nói giọng khàn khan, tự hỏi tại sao
họ đang ngồi trong phòng tối. Rồi anh nhận ra mẹ vợ mình, khuôn mặt của bà
khuất mất một nửa trong tay áo kimono thử như bà đang dằn cơn nôn mửa. Điểu
ngồi xuống chiếc ghế cạnh bà và cảm thấy quần áo mình dính chặt phía sau. Anh
run lập cập, không dữ dội như trên đường đi, nhưng giống như một con gà mắc
nước. Mắt anh đang tập trung để nhìn rõ bong
tối trong phòng: lúc này anh nhận ra một nhóm ba bác sĩ im lặng nhìn anh một
cách thận trọng bằng ánh mắt của quan tòa khi anh ngồi xuống ghế. Anh cảm thấy
đối với luật lệ riêng của họ, bản họa đồ giải phẫu in màu treo trên tường giống
như lá quốc kỳ trong phòng xử án.
“Tôi là cha đứa bé,” Điểu nóng nảy lập lại. Rõ ràng là giọng
của anh chứng tỏ rằng anh cảm thấy mình bị đe dọa.
“À, tốt” vị bác sĩ đứng giữa trả lời với tính cách hơi thủ
thế một chút, thử như ông đã khám phá ra trong giọng nói của Điểu có vẻ tấn
công. (Ông là giám đốc bệnh viện, Điểu đã thấy ông chùi rữa tay bên cạnh vợ
anh). Điểu nhìn vị giám đốc, chờ ông ta lên tiếng. Thay vì bắt đầu giải thích,
ông rút trong chiếc áo blu trắng nhãn nheo ra chiếc tẩu và nhồi đầy thuốc hút.
Dáng người ông lùn, mập tròn như hột mít đến độ nó tạo cho ông cái vẻ phô
trương không lấy gì đẹp mắt. Chiếc áo blu vấy bẩn banh ngực để lộ ra một chòm lông
giống như lưng con lạc đà. Không chỉ râu trên mép và má rậm rì mà còn mọc lởm
chởm xuống tận cuống họng. Sáng nay, vị giám đốc không có thì giờ cạo râu: ông
đã chiến đấu vì sự sống của đứa bé từ chiều hôm qua. Dĩ nhiên Điểu biết ơn,
nhưng có một điều gì đó đáng nghi ngờ về vị bác sĩ trung niên râu tóc rậm rì
này khiến anh phải thủ thế. Cứ như là tiềm ẩn sâu trong làn da đầy lông lá kia
một con vật gây chết người dựng cái đầu lông lá của nó lên và bị kiềm giữ lại.
Cuối cùng vị giám đốc lấy tẩu thuốc ra khỏi đôi môi dày và
cầm gọn trong lòng bàn tay, bất ngờ ánh mắt của ông gặp tia nhìn của Điểu: “Anh
muốn gặp của quí của anh trước không?” Giọng nói của ông át cả căn phòng nhỏ
hẹp.
“Đứa bé chết
rồi à?” Điểu đằng hắng hỏi. Trong giây lát, vị giám đốc nhìn vẻ nghi ngờ của
Điểu về cái chết của đứa bé, nhưng ông xóa tan cái ý tưởng đó bằng một nụ cười
hàng hai.
“Chắc chắn
là không”, ông nói “Nó cử động mạnh và khóc khỏe lắm”.
Điểu nghe
tiếng thở sâu lắng, nghiêm trang của bà mẹ vợ - nó giống như một lời ám chỉ lộ
liễu. Hoặc là bà đã kiệt sức hoặc là bà báo hiệu cho Điểu biết cái hố thẳm tai
ương mà anh và vợ anh rơi vào. Không lý do này thì cũng lý do kia.
“Bây giờ thì
anh muốn gặp của quí của anh không?”.
Viên bác sĩ
trẻ ở bên phải vị giám đốc đứng lên. Dáng người anh cao, gầy, có đôi mắt không
mấy cân xứng với khuôn mặt của anh ta. Một mắt thì có vẻ bối rối, rụt rè, còn
mắt kia thì lặng yên, Điểu chớm đứng lên cùng với viên bác sĩ và rồi lại ngồi
phịch xuống chiếc ghế của anh trước khi nhận ra rằng con mắt xinh đẹp kia là
mắt giả.
“Anh làm ơn
giai3i thích trước được không?” Giọng nói của Điểu càng lo lắng hơn: sự thay
đổi đột ngột mà anh cảm thấy trong cách chọn chữ của vị giám đốc – của quí! –
vẫn còn vướng mắc trong tâm trí anh.
“Có lẽ tốt
hơn là anh nên gặp nó trước đã, đây là một điều hoàn toàn bất ngờ. Chính tôi
cũng bất ngờ khi nó chào đời”. Thình lình, đôi chân mày rậm rì của vị giám đốc
đỏ lên và ông ta bật ra tiếng cười rúc rich như trẻ con. Bây giờ thì Điểu biết
rằng sự hiện diện đáng ngờ ẩn nấp dưới làn da lông lá kia chính là tiếng cười
rúc rich này đây. Tiếng cười mà lúc nãy đã thoạt biểu lộ qua lớp vỏ của một nụ
cười mơ hồ. Điểu giận dữ nhìn vị bác sĩ đang cười trước khi anh nhận ra rằng
ông đang cười để che giấu sự bối rối. Ông đã lôi từ bụng vợ kẻ khác ra ra một
giống quái vật chưa được phân loại. Có lẽ là một con quái vật đầu mèo, có một thân
thể trương phù như quả bóng. Dù là một sinh vật đi chăng nữa, và chính vì vậy
mà ông rúc rich cười. Thành tích của ông, không ăn nhập gì với thiên chức của
một giám đốc bệnh viện và một bác sĩ sản khoa đầy kinh nghiệm, mà nó chính là
một trò hề của ông lang vườn trên sân khấu hài. Vị bác sĩ đã một phen thất kinh
hồn vía và bây giờ thì ông cam chịu ngượng ngùng.
Điểu đứng
yên, chờ đợi vị giám đốc tỉnh người sau trận cười bí tỉ. Một con quái vật.
Nhưng loại nào? “Của quí”, vị giám đốc đã nói, còn Điểu thì nghe “quái vật”.
Hai sự vật này quyện nhau thành một từ đã xé nát màng ngực của Điểu. Tự giới
thiệu mình, anh nói: “Tôi là cha đứa bé”. Các bác sĩ co rúm người lại, bởi vì
có một điều gì khác hoàn toàn đã vang vọng trong tai họ - tôi là cha của con
quái vật.
Một cách
nhanh chóng, vị giám đốc làm chủ được mình và lấy lại vẻ trang nghiêm buồn
thảm. Nhưng trên đôi mi mắt và má vẫn còn đỏ ửng. Điểu quay mặt, chiến đấu với
cơn lốc khẩn cấp của nỗi tức giận và sợ hãi đang dấy lên trong long, và cất
tiếng hỏi: “Nó ra sao mà gọi là hoàn toàn bất ngờ?”
“Anh muốn
hỏi hình hài của nó như thế nào phải không? Nó có hai đầu! Anh biết tác phẩm
của Josef Wagner có tên là “Under the Double Eagle” chứ? Dù sao chăng nữa, đây
cũng là một cú sốc”. Vị giám đốc gần như muốn bật cười trở lại, nhưng ông đã tự
kiểm soát mình đúng lúc.
“Chắc là nó
giống như anh em song sinh người Thái Lan phải không?” Điểu hỏi một cách e dè.
“Không hẳn
như thế: chỉ có một thân mình mà đến hai đầu. Anh muốn thấy của quí đó không?”
“Y học gọi
là…” Điểu ấp a ấp úng.
“Chúng tôi
gọi nó là thoát vị não. Não bộ nhô ra từ một chỗ hỏng trong sọ. Từ khi thành
lập bệnh viện này, lúc tôi lấy vợ, đến giờ đây là trường hợp đầu tiên tôi gặp.
Cực kỳ hiếm. Tôi có thể nói với anh rằng tôi hết sức ngạc nhiên.
Thoát vị não
– Điểu cố hình dung ra một hình ảnh, một điều gì đó, nhưng không tài nào hình
dung nổi. “Đối với một đứa bé bị thoát vị não có hy vọng phát triển bình thường
không? Điểu choáng váng hỏi.
“Phát triển
bình thường!” Giọng nói của vị giám đốc có vẻ như là giận. Chúng ta đang đề cập
đến chứng thoát vị não! Anh phải cắt hộp sọ ra rồi ép não bộ trở lại, nhưng cả
khi làm như thế thì may mắn lắm đứa bé cũng chỉ có một đời sống thực vật. Một
cách chính xác nghĩa “bình thường” mà anh muốn nói là sao?” Vị giám đốc lắc lia
cái đầu với những bác sĩ trẻ đứng cạnh ông, như mất tinh thần vì sự thiếu hiểu
biết của Điểu. Viên bác sĩ có con mắt giả nhanh nhẹn gật đầu đồng ý, những bác
sĩ khác cũng vậy, còn một vị lầm lì có cái trán vồ thì mặt mày tái mét, đờ ra.
Cả hai quay nhìn Điểu bằng cặp mắt nghiêm khắc giống như những vị giáo sư chê
một sinh viên vì trả lời tồi trong một cuộc thi vấn đáp.
“Đứa bé có
chết ngay không?” Điểu hỏi.
“Không chết
ngay đâu. Có lẽ ngày mai, cũng có thể lâu hơn. Nó là một đứa trẻ cực kỳ khỏe
mạnh”, vị giám đốc nhận xét theo nghề nghiệp. “Bây giờ thì anh định làm gì?”.
Điểu giống
như một con ngựa thồ lùn tịt bối rối, hổ thẹn đứng ngớ người ra. Anh có thể làm
được cái chết tiệt gì kia chứ? Đầu tiên thì gã đẩy anh vào ngõ cụt rồi lại hỏi
anh định làm gì. Thật giống như một tay chơi cờ ma giáo. Anh nên làm cái gì?
Ngã gục? Than van?
“Nếu anh
muốn, tôi có thể chuyển đứa bé đến bệnh viện trường Đại học Quốc gia – nếu anh
muốn!”.Lời gợi ý nghe như một câu đốmẹo. Điểu cố gắng hết sức để hiểu rõ ý
nghĩa đáng ngờ của câu nói này, nhưng không vô ích. Anh chỉ còn biết trả lời
một cách thận trọng. “Nếu không còn cách nào khác…”.
“Không còn
cách nào,” Vị giám đốc nói. “Nhưng anh sẽ an tâm khi biết rằng mình đã làm bất
cứ điều gì có thể làm được cho đứa bé”.
“Chúng ta
không thể để đứa bé ở lại đây được sao?”.
Điểu cũng
như ba vị bác sĩ trố mắt nhìn vào người vừa nêu ra vấn đề bất ngờ. Bà mẹ vợ của
Điểu vẫn ngồi yên, cố nén nỗi đau khổ tận đáy long. Vị giám đốc dò xét bà giống
như một người đang thẩm định giá cả. Thật là khó chịu khi ông nói với một thái
độ rõ rang là muốn tự bảo vệ mình: “Không thể được! Đừng quên, đây là trường
hợp thoát vị não. Hoàn toàn không thể được!” Người đàn bà lắng nghe mà không
nhúc nhích, tay áo kimono của bà vẫn che kín miệng.
“Vậy thì
chúng ta sẽ đưa nó đến bệnh viện khác”. Điểu tuyên bố. Vị giám đốc chộp lấy
quyết định của Điểu và ngay lập tức, ông bắt đầu phô trương hình ảnh sá giá về
tài năng quản lý của mình. Khi hai người phụ tá của ông rời khỏi phòng theo
lệnh để liên hệ với bệnh viện trường đại học và làm hợp đồng thuê xe cứu
thương, vị giám đốc lại nhồi thuốc vào tẩu và nói với vẻ khuây khỏa, thử như
ông đã trút được một gánh nặng khả nghi: “Tôi sẽ cho người của chúng tôi đi
theo xe cứu thương, như vậy anh có thể an tâm rằng chúng tôi đưa cháu đến đó
một cách an toàn”.
“Cám ơn ông
nhiều”.
“Tốt nhất là
bà ngoại cháu nên ở lại đây với con gái. Sao anh không về nhà thay áo quần khô
đi? Nửa tiếng đồng hồ nữa xe cứu thương mới tới đây được”.
“Tôi sẽ về
thay áo quần”, Điểu nói. Vị giám đốc rón rén bước đến bên anh và thì thầm một
cách hết sức thân mật, như thể ông đang bắt đầu một trò đùa bẩn thỉu: “Dĩ
nhiên, anh có thể không cho họ giải phẫu nếu anh muốn”.
Một đứa bé
bất hạnh đáng thương! Điễu nghĩ.
Người đầu
tiên mà con tôi gặp trong cái thế giới hiện hữu này là người có đôi má xệ đầy
lông lá này.
Nhưng Điểu
vẫn còn sửng sốt cái cảm giác giận dữ, đau khổ của anh, đã kết tinh trong giây
phút, bây giờ tan vỡ.
Điểu cùng mẹ
vợ và vị giám đốc đi lẩn trong nhóm người cách xa bàn tiếp tân, im lặng, tránh
nhìn mặt nhau. Ngay lối vào, Điểu quay lại chào mọi người. Bà mẹ vợ nhìn trã
lại ánh mắt chằm chằm của anh bằng đôi mắt giống như đôi mắt của vợ anh, như
thể họ là hai chị em, và bà muốn nói một điều gì đó. Điểu chờ đợi. Nhưng bà chỉ
im lặng nhìn anh, đôi mắt đen nháy của bà thu nhỏ lại cho đến khi chúng không
còn một biểu lộ nào. Điểu có thể cảm nhận được sự bối rối của bà, và điều đó là
rõ ràng, như thể bà đang đứng trần truồng trên một đường phố đông người. Nhưng
điều gì làm cho bà quá lo âu đến nỗi đôi mắt thất thần và ngay cả da mặt cũng
tái đi? Điểu tự nhìn chỗ khác trước khi bà đưa mắt nhìn xuống và hỏi bác sĩ:
“Đứa bé trai hay gái?” Câu hỏi khiến cho vị giám đốc lâm vào thế bí, và ông lại
thốt ra tiếng cười rúc rích ban nãy. Ông trả lời như một bác sĩ trẻ đang thực
tập nội trú: “Để xem thử, tôi nhớ không rõ, nhưng tôi có cảm giác mình đã nhìn
thấy một… chắc chắn tôi nhìn thấy một con chim!”.
Điểu một
mình bước ra ngoài lối xe chạy. Mưa đang tạnh và gió đã ngừng: những đám mây
đang bay lơ lửng trên bầu trời trong sáng. Một buổi mai rực rỡ đã xuất đầu lộ
diện từ tấm màn nhá nhem của bình minh, và không khí đượm mùi thơm của ngày đầu
hạ đã làm thư giãn từng đường gân thớ thịt trong cơ thể của Điểu. Không khí mát
dịu trong đêm đã rớt lại trong bệnh
viện, bây giờ ánh sáng ban mai phản
chiếu trên lề đường ẩm ướt và trên những tàn cây giống như những cây kim thủy
tinh dài óng ánh đâm thẳng vào đôi mắt ngái ngủ của Điểu. Điểu gò lưng trên
chiếc xe đạp trong ánh sáng này giống như đứng lơ lửng trên mép một tấm ván
nhào lộn. Anh cảm thấy mình bị tách ra khỏi mặt đất, hoàn toàn cô lập. Và anh
tê cóng như một tảng đá, như một chú côn trùng yếu đuối dưới cái nọc độc của
con bọ cạp.
Anh có thể
đạp chiếc xe này hết tốc lực đến một vùng đất xa lạ và đắm mình trong rượu mạnh
đến một trăm ngày- Điểu nghe một tiếng nói mơ hồ réo gọi. Và khi anh lắc lư đạp
xuống đường, cuốn đi trong ánh sang ban mai, anh chờ đợi tiếng nói đó gọi lại.
Nhưng chỉ có im lặng, Điểu như đang sống trong trạng thái hôn mê, bắt đầu nhấn
bàn đạp một cách uể oải…
Khi Điểu
quẹo sang đường vào bệnh viện, anh thấy một người đàn ông mặc blu trắng, trên
tay bồng một vật gì trông giống như cái giỏ rơm vội vã bước xuống tam cấp, và
chen qua đám đông để mở cửa sau chiếc xe cứu thương. Một phần con người mềm yếu
trong Điểu đang muốn thoát khỏi thực tại, cố nắm bắt cảnh tượng kia như thể nó
đang xảy ra ở một nơi thật xa và chẳng liên quan gì đến anh, đơn giản như anh
là một người đi tản bộ vào buổi sáng
sớm. Nhưng Điểu chỉ có thể tiến tới
trước, tranh đấu vượt qua vũng lầy làm cản trở mình, giống như một con chuột
chũi đào bới vào bức tường bùn tưởng tượng.
Điểu bước
xuống xe và khóa bánh trước bằng dây khóa thì nghe có tiếng nói gắt gỏng sau
lưng anh: “Anh không thể để xe ở đây!” Điểu quay lại và bắt gặp đôi mắt đầy
khiển trách của vị giám đốc đầy lông lá. Anh nâng chiếc xe đạp lên vai, bước
đến một bụi cây. Những giọt nước mưa tụ trên khóm lá rơi xuống cổ và chảy xuống
lưng anh. Thông thường thì anh phải cáu liền, nhưng bây giờ cũng chẳng buồn
chắc lưỡi. Mặc dù lúc này, có chuyện gì xảy ra chăng nữa, anh cũng đành phải
cam chịu mà không phản đối.
Điểu từ bụi
cây bước ra, giày dính đầy bùn. Vị giám đốc có vẻ hối tiếc một chút vì đã làm
một điều quá bất ngờ. Ông vòng cánh tay ngắn, đầy thịt ôm Điểu rồi đưa anh đến
chiếc xe cứu thương và nói một cách thẳng thắng, như thể ông đang tiết lộ một
điều huyền bí: “Nó là con trai! Tôi biết tôi đã trông thấy một dương vật!”.
Viên bác sĩ
có con mắt giả và một chuyên viên gây mê đang ngồi trong xe cứu thương, giữa
bình dưỡng khí, cùng với cái giỏ. Tấm lưng của người gây mê che khuất bề mặt
chiếc giỏ. Nhưng tiếng róc rách yếu ớt trong chiếc bình dưỡng khí truyền qua lọ
nước thủy tinh giống như một tín hiệu bí mật. Điểu ngồi lắc lư trên băng ghế
đối diện với họ, ở đó có một cái cáng cứu thương. Anh xoay người một cách khó
khăn, nhìn qua cửa xe và ớn lạnh xương sống. Từ mỗi vuông cửa sổ trên tầng hai
và ngay cả trên ban công, những khuôn mặt sạch sẽ, tươi mát của những người đàn
bà có mang, chắc có lẽ vừa bước ra khỏi giường, rạng rỡ trong ánh nắng ban mai
đang chăm chăm nhìn Điểu. Tất cả họ đều mặc áo ngủ bằng nylon mỏng manh, hoặc
đỏ hoặc sẫm xanh. Đặc biệt,những chiếc áo ngủ của những người đứng trên ban
công cuồn cuộn dưới mắt cá họ, giống như một số đông thiên thần đang nhảy múa
trên không. Điểu đọc thấy nỗi âu lo, niềm hy vọng và cả hân hoan trên khuôn mặt
họ, anh đưa mắt nhìn xuống. Chiếc xe cứu thương bắt đầu hụ còi, lắc lư lao về
phía trước, Điểu trụ chắc hai chân xuống sàn để khỏi trượt ra khỏi chỗ ngồi và
nghỉ: Tiếng còi báo động đó! Cho đến lúc này, nó vẫn luôn luôn là một vật thể
chuyển động: nó từ một khoảng cách tiến đến gần, rít mạnh lên, rồi mất dần. Bây
giờ tiếng còi nhập vào Điểu giống như một căn bệnh mà anh mang trong người:
tiếng còi này không bao giờ dứt.
“Mọi việc
đều tốt đẹp”, viên bác sĩ có con mắt giả nói rồi quay lại nhìn Điểu. Thái độ
của anh ta tỏ ra người có thẩm quyền, hòa nhã nhưng dứt khoát, khiến Điểu mềm
người ra như con bún.
“Cám ơn”,
anh nói lắp bắp trong miệng. Tính thụ động của anh xóa tan ánh do dự trong con
mắt thật của viên bác sĩ. Anh ta nắm vững chức năng của mình và nói một cách
thẳng thắn: “Đây là một trường hợp hiếm, đúng thế, cũng là lần đầu tiên đối với
tôi”. Viên bác sĩ gật đầu, rồi nhanh nhẹn bước sang cạnh Điểu và ngồi xuống
trong khi chiếc xe vẫn lắc lư. Anh ta không có vẻ gì để ý đến cái cáng cứu
thương dung làm băng ghế bất tiện như thế nào.
“Anh là một
chuyên gia về não?” Điểu hỏi.
“Ồ, không.
Tôi là một bác sĩ sản khoa “. Viên bác sĩ không cần phải đính chính chức năng
là quan trọng hơn sự xúc phạm vì hiểu lầm. “Tại bệnh viện của chúng tôi không
có những chuyên gia về não. Nhưng những triệu chứng thì hoàn toàn rõ: đó là
chứng thoát vị não, đúng thế. Dĩ nhiên, chúng tôi sẽ biết rõ hơn nếu đã rút ra
được một ít tủy sống từ cái bướu nhô ra khỏi sọ. Muốn làm được điều này, anh
phải chọc thẳng vào não và như thế anh sẽ gặp rắc rối. Đó là lý do chúng tôi
đưa đứa bé đến bệnh viện khác mà không đụng đến nó. Như tôi nói, tôi là một bác
sĩ sản khoa, nhưng tôi xét thấy mình may mắn gặp một trường hợp thoát vị não-
tôi hy vọng sẽ là một món quà giải phẫu để nghiên cứu. Anh sẽ đồng ý một cuộc
giải phẫu, đúng thế không? Có lẽ là đau khổ cho anh khi nói về những cuộc giải
phẫu vào thời điểm này, nhưng không sao, hãy xét vấn đề theo cách này nhé! Y
học tiến bộ được là nhờ tích lũy kinh nghiệm, phải không nào? Tôi muốn nói cuộc
giải phẫu mà chúng tôi thực hiện cho con anh có thể giúp chúng tôi những điều
cần thiết để cứu sống những đứa bé khác mắc chứng thoát vị não sau này. Ngoài
ra, nếu tôi có thể nói một cách thẳng thắn, tôi nghĩ đứa bé sẽ chết khỏe hơn,
anh và vợ anh cũng nghĩ như thế. Vài người lạc quan đáng buồn cười về trường
hợp này, nhưng dường như đối với tôi thì đứa bé chết càng nhanh càng tốt cho
tất cả những người liên quan. Tôi không biết t5ai sao, có lẽ đó là sự khác biệt
về thế hệ. Tôi sinh năm 1935. Còn anh sinh nằm nào?”.
“Cũng đâu
vào khoảng đó”, Điểu trả lời, anh không thể nhanh chóng đổi năm sinh của mình
ra dương lịch được. “Tôi tự hỏi không biết nó có đau đớn không?”.
“Cái gì, thế
hệ của chúng tôi à?”.
“Đứa bé!”.
“Điểu đó còn
tùy thuộc vào ý nghĩa của sự đau đớn mà anh muốn nói. Tôi muốn nói, đứa bé
không thể thấy hoặc nghe hoặc ngửi phải không nào? Và tôi đánh cuộc hệ thần
kinh cảm giác của nó cũng chẳng còn hoạt động nữa. Giống như vị giám đốc nói,
anh nên nhớ, nó là một loại thực vật. Theo quan điểm của anh, thực vật biết đau
đớn à?”.
Theo quan
điểm của tôi, thực vật biết đau đớn à? Điểu im lặng tự hỏi. Tôi có bao giờ nghĩ
rằng một bắp cải bị một con dâ nhai tóp tép là đau đớn không?
“Anh nghĩ
một đứa bé có đời sống thực vật có thể đau đớn à?” Viên bác sĩ lập lại một cách
hăm hở, đặt hết tin tưởng vào câu trả lời.
Điểu lắc đầu
một cách ngoan ngoãn: như muốn nói vấn đề này vượt quá khả năng phán xét của
anh. Và có một thời, khi anh không bao giờ chịu quy phục người nào mà anh mới
gặp, thì ít nhất anh cũng có ít nhiều cảm giác kháng cự…
“Dưỡng khí
nuôi đứa bé không ổn rồi”, người gây mê cho biết. Viên bác sĩ đứng lên và quay
lại kiểm tra ống cao su. Lần đầu tiên Điểu nhìn thấy con mình.
Một đứa bé
xấu xí với cái mặt nhỏ thó, đỏ au phủ đầy vết nhăn và lem luốc chất nhờn. Đôi
mắt của nó nhắm nghiền như hai vỏ sò, hao ống cao su dẫn vào mũi, miệng nó bị
xoắn lại, phát ra tiếng kêu không thành tiếng, để lộ ra cái màng nhầy bên trong
long lanh như hồng ngọc. Điểu nhận ra mình đứng chồm nửa người ra khỏi băng ghế
để nhìn cái đầu băng kín của đứa bé. Bên dưới lớp băng,cái sọ được chon kín
dưới đống bông gòn thấm máu, nhưng không giấu được một cái gì ở đó có hình dạng
lớn và bất thường.
Điểu nhìn
chỗ khác và ngồi xuống. Ép mặt vào vuông kính cửa sổ, anh nhìn thành phố lùi
dần. Người đi trên đường, nghe còi báo động, nhìn đăm đăm vào chiếc xe cứu
thương với vẻ tò mò và một sự trông đợi cực kỳ khó hiểu hiện rõ trên khuôn mặt
của họ- chẳng khác nào cái nhìn của những thiên thần có mang lúc nãy. Họ tạo ấn
tượng một sự chuyển động tạm ngắt không tự nhiên, giống như phim chiếu bị vướng
trong máy. Họ đang nhìn thoáng qua một vết rạn vô cùng nhỏ trên mặt phẳng của
cuộc sống hàng ngày và điều trông thấy làm họ tràn ngập nỗi sợ hãi ngây ngô.
Con trai tôi
quấn băng trên đầu và nhà thơ Apollinaire cũng vậy khi ông bị thương ngoài mặt
trận. Trên một mặt trận tăm tối và cô đơn mà tôi chưa bao giờ gặp, con trai tôi
đã bị thương như Apollinaire và bây giờ nó đang kêu gào không ra tiếng…
Điểu bắt đầu
khóc. Đầu quấn băng, như nhà thơ Apollinaire, cái hình ảnh đó đơn giản hóa
những cảm xúc trong lò anh ngay tức khắc và điều khiển chúng. Anh cảm thấy mình
biến thành một khối đông tình cảm, tuy nhiên vẫn cảm thấy mình được thừa nhận
và có quyền biện hộ: anh còn phát hiện ra vị ngọt ngào trong những giọt nước
mắt của mình.
Như
Apollinaire, con trai tôi bị thương tại mặt trận tăm tối và cô đơn mà tôi chưa
bao giờ gặp, và nó đến với cái đầu quấn băng. Tôi sẽ chon nó như một người lính
chết trận.
Điểu tiếp
tục khóc.
3
Điểu ngồi trên tam cấp trước khu chăm sóc tập trung, kẹp chặt đùi bằng đôi tay đầy bụi, trong một cuộc vật lộn với sự mệt mỏi đã triền miên săn đuổi anh từ khi những giọt nước mắt cạn khô, thì viên bác sĩ có con mắt giả từ khu chăm sóc hiện ra nhìn phá ngang, Điểu đứng dậy và viên bác sĩ nói: “Bệnh viện này quan liêu thấy mẹ, cả những y tá cũng chẳng buồn nghe anh nói một lời”. Sự thay đổi bất ngờ trong con người này đã có từ khi họ cùng ngồi trong xe cứu thương: giọng nói của anh ta có vẻ bực bội. “Tôi có lá thư giới thiệu của vị giám đốc chúng ta đến vị giáo sư y khoa ở đây – họ là bà con xa với nhau! – và tôi chẳng tìm ra ông ta ở đâu cả!”.
Bây giờ Điểu hiểu tâm trạng chán ngán bất ngờ của viên giám đốc. Ngay trong khu chăm sóc này, mọi người đều được đối xử như một đứa con nít: viên bác sĩ trẻ có con mắt giả đã bắt đầu hồ nghi phẩm giá của mình.
“Còn đứa bé thì sao?” Điểu hỏi và ngạc nhiên về sự ái ngại trong giọng nói của mình.
“Đứa bé à? Ồ, chúng ta chẳng biết được gì hơn khi bác sĩ giải phẫu não khám xét xong, nếu đứa bé còn sống được cho đến lúc đó. Nếu nó không sống thì sau cuộc giải phẫu, chúng ta sẽ biết đầy đủ chi tiết hơn. Tôi không tin rằng đứa bé có thể chịu đựng hơn một ngày – khoảng ba giờ chiều mai anh phải tạt lại đây thăm nó. Nhưng tôi xin báo cho anh biết: bệnh viện này thật quan lieu – ngay cả các y tá!”.
Tỏ vẻ không muốn nghe thêm một câu hỏi nào nữa của Điểu, viên bác sĩ đảo cả hai mắt, thật lẫn giả, nhìn lên trần nhà rồi bỏ đi.Điểu đi theo anh ta như một người thợ giặt, nách bên hông cái giỏ trống trơn. Trên hành lang dẫn đến mái hiện chính, họ gặp người tài xế xe cứu thương và anh chuyên viên gây mê. Hai người này dường như thấy ngay rằng thái độ vui vẻ hồi sáng sớm của viên bác sĩ đã biến mất. Va chính họ cũng không còn giữ thái độ tự mãn: trong khi họ lái chiếc xe cứu thương chạy như bay qua trung tâm thành phố như chạy qua chỗ không người, bóp còi inh ỏi một cách tự phụ và vượt cả đèn đỏ thì phẩm giá của họ đã được thổi phồng lên trong bộ đồng phục của họ. Nhưng ngay lúc này thì điều ấy cũng đã qua đi. Nhìn từ sau lưng, Điểu thấy hai người này giống như anh em sinh đôi. Họ không còn trẻ nữa, có chiều cao và dáng dấp trung bình, và cả hai đều hói như nhau.
“Công việc đầu tiên của ngày hôm nay đối với anh là cần dưỡng khí, anh cần nó suốt ngày đó”, một người nói với vẻ thông cảm.
“Đúng rồi, lúc nào anh cũng nói như thế mà”, người kia trả lời cùng một thái độ.
Viên bác sĩ một mắt lờ đi cuộc trao đổi nhỏ này, Điểu, mặc dù không mấy xúc động, hiểu rằng hai người này đang ấp ủ nỗi lo âu của nhau, nhưng khi anh quay lại người phụ trách bình dưỡng khí và gật đầu một cách đầy thiện cảm, thì anh ta trở nên cứng rắn như thể bị chất vấn, và gắt gỏng càu nhàu “cái gì vậy?” buộc Điểu phải trả lời, Điểu bối rối nói: “Tôi muốn biết về chiếc xe cứu thương – anh cũng bóp còi vượt đèn đỏ trên đường trở về chứ?”.
“Trên đường trở về à?” Giống như hai ca sĩ sinh đôi có cùng một giọng ca thiên phú, hai nhân viên cùng lập lại câu hỏi trong cùng một giọng, đưa mắt nhìn nhau, mặt họ đỏ bừng lên như người say rượu, và cười hô hố làm phồng cả hai cánh mũi. Điểu vừa giận câu hỏi ngớ ngẩn của mình lẫn câu trả lời của hai anh nhân viên. Và sự giận dữ ấy bắt nhịp với cơn phẫn nộ mà anh cố nén trong lòng. Cơn giận có từ lúc hừng đông càng lúc càng tăng áp lực bên trong mà anh không có cách nào làm cho nó thoát ra được.
Nhưng lúc này hai anh nhân viên có vé bối rối, như thể họ hối tiếc vì đã cất tiếng cười khinh suất một người cha trẻ bất hạnh. Vẻ đau khổ rành rành trên khuôn mặt của họ đã làm dịu bớt cơn uất hận của Điểu. Ngay cả anh cũng cảm thấy một nỗi nhức nhối ăn năn. Ai la người đã đặt câu hỏi cực kỳ ngớ ngẩn đó đầu tiên? Và chẳng phải là câu hỏi bắt nguồn từ sự mụ mẫm trong đầu vì nỗi thống khổ và thiếu ngủ của anh sao?
Điểu nhìn vào chiếc giỏ này của đứa bé dưới tay mình. Bây giờ nó giống như một lỗ trống được đào không để làm gì. Trong giỏ chỉ còn có cái mền được xếp lại, vài miếng bông gòn và một cuộn băng mỏng.Máu thấm trên bong và băng, vẫn còn đỏ tươi, đã ít nhiều gợi lên hình ảnh một đứa bé đầu quấn băng nằm trong đó, thở bằng dưỡng khí qua ống cao su thông qua hai lỗ mũi. Điểu cũng không tài nào nhớ lại một cách chính xác cái đầu kỳ lạ của đứa bé, hay cái màng nhầy sang lung linh bọc kín bằng lớp da đỏ rực của nó. Ngay lúc này, hình ảnh của đứa bé cũng nhanh chóng lùi xa trong ký ức của anh. Điểu cảm thấy trong lòng mình mang một nỗi sợ hãi sâu xa trộn lẫn với sự khuây khỏa một cách tội lỗi. Anh nghĩ: chẳng mấy chốc tôi sẽ quên hết đứa bé, một cuộc đời hiện ra ngoài cõi tối tăm vô hạn, lơ lửng chin tháng trong bào thai, nếm qua vài tiếng đồng hồ tình trạng bất an tàn khốc, và rồi lại bước vào cõi tăm tối, tận cùng và vô định. Tôi sẽ không lấy làm ngạc nhiên nếu tôi quên đứa bé ngay. Cho đến lúc chết, tôi có thể nhớ, và lúc này đây, tôi đang nhớ, nếu sự đau đớn và sợ hãi của cái chết gia tăng trong người tôi, tôi sẽ thực hiện một phần nhỏ bổn phận của tôi như một người cha.
Điểu và những người kia tới lới vào phía trước hiên chính. Hai anh nhân viên chạy đến bãi đậu xe. Vì nghề nghiệp của họ luôn luôn đặt họ trong tình trạng khẩn cấp, cho nên việc chạy bá thở là biểu lộ một thái độ bình thường trong cuộc sống. Họ chạy vụt qua khu nhà kiên cố sang lấp lánh, hai tay vung vẫy, như thể có con quỷ đói đang đuổi theo chân họ. Trong lúc ấy, từ phòng điện thoại công cộng viên bác sĩ một mắt gọi về bệnh viện xin gặp bác sĩ giám đốc. Anh giải thích tình cảnh của đứa bé một cách vắn tắt: hầu như chẳng có sự tiến triển nào mới đế báo cáo. Mẹ vợ của Điểu đến nghe điện thoại.. “Mẹ vợ của anh đây”, viên bác sĩ quay lại nói với Điểu. “Anh có muốn nói chuyện với bà không?”.
Không đâu! Điểu muốn la lên. Bởi vì những cuộc điện đàm thường xuyên đêm hôm trước, tiếng nói của mẹ vợ qua đường dây điện thoại đến tai anh, giống tiếng kêu vo ve vô vọng của một con muỗi, như một nỗi ám ảnh đã săn đuổi Điểu. Điểu đặt cái giỏ của đứa bé xuống nền nhà bê tong và buồn bã cầm lấy ống nghe.
“Bác sĩ chuyên môn về não chưa khám nghiệm. Con phải trở lại vào chiều mai”.
“Nhưng vấn đề chính là gì? Mẹ muốn nói con có hy vọng làm được cái gì không?” Bà mẹ vợ hỏi lại Điểu với giọng nói mà anh đã từng mong được tha thứ nhiều nhất, vì anh nghĩ bà cho anh là kẻ chịu trách nhiệm trực tiếp trong chuyện này.
“Vấn đề chính là ở chỗ lúc này đứa bé còn sống”, Điểu trả lời và chờ đợi với một linh cảm rằng bà sẽ giận dữ nói lại. Nhưng bà im lặng, từ đầu giây bên kia chỉ có mỏng manh một tiếng thở dài lo lắng.
“Con sẽ đến đó và giải thích cho mẹ biết”, Điểu nói và bắt đầu gác máy.
“Alô? Con đừng lại đây nhé”. Bà mẹ vợ vội vàng nói thêm. “Vợ con nghĩ con đã đưa đứa bé đến một dưỡng đường tim. Nếu con đến lúc này nó sẽ nghi ngờ. Con nên đến vào hôm khác thì sẽ tự nhiên hơn, khi đó vợ con bình tĩnh hơn, và nói rằng thằng bé chết vì suy tim. Con có thể lien lạc thường xuyên với mẹ bằng điện thoại.”.
Điểu tán thành “Con sẽ đến trường đại học ngày và giải thích sự việc đã xảy ra”, anh đang nói thì nghe tiếng cúp máy một cách tùy tiện ở đầu dây bên kia. Quả là tiếng nói của anh đã khiến cho người nghe phẫn nộ. Điểu đặt ống nghge xuống và nhặt cái giỏ của đứa bé lên. Viên bác sĩ một mắt đã ngồi trong xe cứu thương. Thay vì leo lên theo anh ta, Điểu đặt cái giỏ lên cáng cứu thương.
“Xin cám ơn mọi việc. Tôi nghĩ tôi sẽ đi một mình”.
“Anh sẽ về nhà một mình à?” Viên bác sĩ hỏi.
“Vâng”, Điểu trả lời, ý muốn nói “Tôi sẽ đi ra ngoài một mình”. Anh phải tường thuật những tình huống sinh nở đứa bé cho cha vợ anh biết, nhưng sau đó anh sẽ có một ít thì giờ tự do. Và chuyện thăm viếng vị giáo sư cũng như việc trở lại với vợ và mẹ vợ là để chứng tỏ anh đã cai rượu hoàn toàn.
Viên bác sĩ trong trong xe đóng cửa lại và chiếc xe cứu thương chuyển bánh một cách im lặng, chạy theo tốc độ hạn chế, giống như trước kia vốn là con quái vật mà giờ thì bất lực và bị tước mất tiếng kêu. Xuyên qua cùng một vuông cửa xe mà một giờ trước đó Điểu đã ngồi khóc và nhìn những bộ hành trên đường, bây giờ thì anh thấy viên bác sĩ và một trong hai nhân viên cấp cứu ngồi lắc lư về phía tài xế. Anh biết họ đang ngồi lê đôi mách về anh và con anh, và điều đó không làm anh bực mình. Tự cuộc điện đàm với bà mẹ vợ đã đưa đến cho anh những giây phút nghỉ xả hơi không mong đợi, anh có thời gian để sống một mình như anh thích – ý tưởng này làm cho đầu óc anh sảng khoái.
Điểu đi ngang qua khuôn viên bệnh viện dài và rộng như một sân bóng đá. Giữa đường, anh quay lại nhìn lên tòa nhà mà anh vừa bỏ lại đứa con đầu lòng của mình, một đứa bé đang kề bên cái chết. Tòa nhà khổng lồ, dáng dấp uy nghi, giống như một pháo đài. Lấp la1mj dưới ánh mặt trời đầu hạ, tòa nhà khiến cho con anh đang khóc yếu ớt trong một góc tăm tối của nó có vẻ tầm thường hơn một hạt cát.
Tôi sẽ làm được cái gì nếu ngày mai tôi trở lại? Tôi có thể lạc trong mê cung của pháo đài hiện đại này và đi thơ thẩn như kẻ mất hồn. Có thể tôi không bao giờ tìm thấy cái chết của mình hay có lẽ đứa bé đã chết. Ý niệm này đã giải thoát một phần nào sự bất hạnh của Điểu. Anh bước một bước dài qua cổng trước và đi vội xuống đường.
Trước 12 giờ: thời điểm phấn chấn nhất của một ngày đầu hạ. Một cơn gió nhẹ gợi lại những buổi dạo chơi tập thể thời tiểu học đã kích thích niềm vui sướng lâng lâng trên đôi má và vành tai của Điểu, xóa tan cơn thiếu ngủ. Càng xa rời sự kiềm chế của ý thức bao nhiêu thì những tế bào thần kinh trong da thịt Điểu càng khát khao uống trọn hương vị ngọt ngào của không gian và thời gian này. Chẳng bao lâu một cảm giác một cảm giác tự do dâng tràn lên bề mặt ý thức của anh.
Trước khi tôi đi gặp cha vợ tôi, tôi sẽ tắm rửa và cạo râu sạch sẽ! Điểu bước đến tiệm hớt tóc đầu tiên mà anh nhận ra. Người thợ hớt tóc tuổi trung niên đưa anh đến ghế ngồi cứ như anh là một khách hàng bình thường. Ông không nhận ra nổi bất hạnh trong con người Điểu.Bằng cách biến mình thành một người bình thường dưới cặp mắt của người thợ hớt tóc, Điểu mới có thể thoát khỏi buồn rầu và lo sợ. Anh nhắm mắt. Cái khăn lông nóng và nặng trịch có mùi thuốc sát trùng bốc lên má và quai hàm anh. Nhiều năm về trước, anh đã xem một vở hài kịch về một tiệm hớt tóc: cậu học trò của ông phó hớt có cái khăn lông nóng khủng khiếp, quá nóng đến độ cậu không dám cầm hay giữ trong tay, vì vậy cậu đập nó vào mặt khách. Từ đó đến giờ, Điểu cười bất cứ khi nào mặt mình phủ khăn lông. Ngay lúc này, anh cũng cảm thấy mình muốn cười. Ồ lại đi quá đà rồi! Điểu rùng mình, bật cười và bắt đầu nghĩ về đứa bé. Điểu đã phát hiện ra nụ cười trên khuôn mặt anh là bằng chứng tội lỗi của riêng anh.
Cái chết của một đứa bé có đời sống thực vật- Điểu xem xét tai họa của con anh từ góc độ đau đớn sâu xa nhất. Cái chết của một đứa bé chỉ sống bằng đời sống thực vật thì không đem lại đau đớn gì cả. Đúng thế, nhưng cái chết có nghĩa gì đối với một đứa bé như thế không? Hay cho một vấn đề nào khác, phải chăng là cuộc sống? Cái mầm sống hiện lên trên cánh đồng hư vô đã trải dài hàng tỷ tỷ năm và ở đó nó lớn lên trong chín tháng. Dĩ nhiên không có ý thức trong một bào thai, nó chỉ co tròn trong một cái bọc và tồn tại, chiếm hoàn toàn một thế giới ấm áp, đen tối và nhầy nhụa. Và rồi, nó bước vào thế giới bên ngoài một cách nguy khốn. Cái thế giới lạnh lẽo, vừa cực khổ, độc ác, khô khan, vừa chói chang khốc liệt. Thế giới bên ngoài là vô hạn, vì vậy đứa bé không thể một mình choán hết được: nó phải sống với vô số người xa lạ. Nhưng, đối với một đứa bé giống như cây cỏ chỉ tồn tại trên cõi đời này không quá vài tiếng đồng hồ khổ đau thầm kín thì nó không thể giải thích nổi. Và lại một lần nữa, cát bụi sẽ trở về với cát bụi trong cõi hư vô. Điều gì sẽ xảy ra nếu có ngày phán xét cuối cùng? Dưới phạm trù nào của Thần Chết bạn có thể gởi trát đòi ra hầu tòa, khởi tố và kết án một đứa bé chỉ sống đời sống thực vật đã chết chẳng bao lâu sau khi chào đời? Chỉ vài tiếng đồng hồ trên cõi trần gian này để mà khóc, lưỡi thì run rẩy trong cái miệng bóng đỏ bành ra, liệu có vị quan tòa nào quan tâm đến bằng chứng không đầy đủ này không? Mẹ kiếp cái bằng chứng thiếu sót! Điểu há hốc miệng thở trong nỗi sợ hãi đã ngấm sâu thăm thẳm trong lòng anh cho đến tận bây giờ. Có thể tôi sẽ được gọi ra tòa như một nhân chứng và tôi sẽ không thể nhận ra con tôi trừ khi tôi nhận ra cái khối u trên đầu nó như một bằng chứng, Điểu cảm thấy môi trên của anh đau điếng.
“Làm ơn ngồi yên! Tôi cứa anh bây giờ”, anh phó hớt rít lên, để yên lưỡi dao cạo trên nhân trung của Điểu và nhìn chăm bẩm vào mặt anh, Điểu đưa ngón tay sờ lên môi trên của mình. Anh nhìn thấy máu và muốn nôn ngay, Điểu thuộc nhóm máu A và vợ anh cũng vậy. Một phần tư lượng máu lưu thông trong cơ thể đang chết dần của đứa bé cũng có thể là máu A. Điểu để tay vào lại trong tấm khăn choàng và lại nhắm mắt. Anh phó hớt tà tà cạo quanh vết đứt trên môi Điểu, rồi lẹ tay cạo má và cằm anh như thể vớt vát lại thời gian đã mất.
“Anh muốn gội đầu không?”.
“Không, thế đủ rồi”.
“Trên tóc anh có một ít đất và cỏ”, anh phó hớt nói với vẻ khó chịu.
“Tôi biết, tối qua tôi đã té”. Bước ra khỏi ghế, Điểu nhìn mặt mình trong tấm gương lấp lánh như một biển trăng. Đầu tóc của anh tết lại chẳng khác nào một ổ rơm, nhưng khuôn mặt anh từ hai gò má cao đến cằm đều nhẵn bóng và đỏ au như bụng một con cá hồi bảy sắc. Nếu chỉ có ánh sáng chói chang đang chiếu sang trong đôi mắt màu keo, nếu hai mi mắt căng ra được nới lỏng và đôi môi dày không co rúm lại, thì sẽ dễ dàng nhận ra Điểu trẻ hơn và hoạt bát hơn cái chân dung phản chiếu trong ô kính cửa hàng tối hôm qua.
Việc ghé vào tiệm hớt tóc đã là một ý tưởng hay: Điểu hài long về chuyện đó. Ít ra thì yếu tố tích cực thay thế cho ý tưởng tiêu cực có từ buổi hừng đông đã giúp Điểu lấy lại được sự cân bằng tâm lý. Anh nhìn thoáng vết máu khô dưới mũi giống như một nốt ruồi hình tam giác rồi rời khỏi tiệm hớt tóc. Trong thời điểm Điểu đến trường đại học, cái cảm giác âm ấm của lưỡi dao cạo để lại trên đôi má anh có lẽ tan dần. Nhưng lúc này anh muốn dùng móng tay khảy vết máu khô để tránh gây ấn tượng cho cha vợ nhìn anh như một kẻ lố lăng và buồn phiền. Trong khi tìm kiếm trạm xe buýt trên đường, Điểu nhớ đến món tiền dư mà anh mang theo trong túi và vẫy chiếc taxi chạy ngang.
Điểu bước ra khỏi chiếc taxi, lẩn vào đám đông sinh viên đang tụ tập ngang cổng chính để đi ăn cơm trưa: 12giờ 05. Trong khuôn viên trường, anh chặn một người bạn to con và hỏi thăm đường đến khoa Anh Ngữ.Chàng sinh viên ngạc nhiên nở nụ cười rạng rỡ và nói ê a như luyến tiếc thời quá khứ: “Lâu quá em mới gặp lại thầy!” Điểu lấy làm khó chịu. “Em học với thầy ở trường luyện thi, thầy biết, nhờ ông giờ em tặng cho trường một ít tiền mà em vào được đây bằng cửa sau”.
“Vì vậy bây giờ anh là sinh viên ở đây”, Điểu nói với vẻ xoa dịu, và nhớ lại chàng sinh viên này là ai. Anh chàng dẫu không có vẻ gì xấu xí, nhưng đôi mắt to và tròn cùng với cái mũi cà chua đã làm anh nhớ đến những bức minh họa mấy người nông dân Đức trong Những Truyện Thần Tiên của Grimm.
“Nghe có vẻ như trường luyện thi chẳng giúp gì nhiều cho anh”, Điểu nói:
“Thưa thầy, không phải đâu! Học thì không bao giờ lãng phí. Có lẽ thầy không nhớ một điều duy nhất, thầy biết chứ, học là học!”.
Điểu nghi rằng mình bị giễu cợt và anh quắc mắt nhìn chàng sinh viên. Nhưng anh ta đang cố gắng với cả tấm than bồ tượng của mình để chứng tỏ thiện ý. Điểu nhớ như in trong một lớp có cả trăm học sinh, anh chàng này là một đứa ngu thấy rõ. Và rõ ràng chính vì vậy, anh chàng mới có thể cười cợt trình bày một cách đơn giản với Điểu rằng anh ta đã vào trường đại học tư thục hạng hai này bằng cửa sau, còn biểu lộ lòng biết ơn những tiết học vô bổ đối với anh ta. Bất kỳ ai trong số chin mươi chin học sinh khác cũng đều muốn tránh mặt thầy luyện thi của họ.
“Với học phí cao như ở trường chúng ta, thật là nhẹ người khi nghe anh nói như thế”.
“Ồ, học phí như vậy là đáng đồng tiền bát gạo. Có phải thầy sẽ dạy ở đây kể từ bây giờ không?”.
Điểu lắc đầu.
“Ồ…” Chàng sinh viên lịch thiệp tiếp tục câu chuyện: “Để em đưa thầy đến khoa Anh ngữ, xin thầy đi lối này. Nhưng thưa thầy, nghiêm túc mà nói, việc học của em ở trường luyện thi cũng không hẳn là phí phạm. Tất cả những kiến thức ấy vẫn tồn tại một nơi nào đó trong đầu em, một phần nào được bén rễ và một ngày kia sẽ trở nên hữu dụng. Vấn đề chỉ là thời gian thôi, và thưa thầy, rốt cuộc lại là việc học chẳng bao giờ thừa phải không thầy?”.
Điểu theo chân người học trò cũ lạc quan và có phần mô phạm này, băng qua một lối đi với hai hàng cây đầy hoa, rồi đến trước một tòa nhà bằng gạch đỏ màu anh đào. “Khoa Anh ngữ nằm trên tầng ba, phía sau. Em rất sung sướng khi được vào học ở đây, em đã thám hiểm hết mọi ngỏ ngách trong trường cho tới khi thuộc nằm lòng”, Chàng trai nói một cách hãnh diện và cười toe như tự chế giễu mình khiến cho Điểu nghi ngờ và cặp mắt của mình.
“Em có vẻ đơn giản quá phải không thầy?”
“Không, không quá đơn giản đâu”.
“Thật là thú vị nghe thầy nói vậy. Bây giờ thì thưa thầy, em sẽ gặp lại thầy sau. Thầy hãy quan tâm đến sức khỏe: trông thầy có vẻ hơi xanh xao!”.
Khi leo lên cầu thang, Điểu nghĩ: cái anh chàng này khi ra đời sẽ xoay xở cuộc sống khôn ranh hơn mình bây giờ hàng ngàn lần, ít nhất cậu ta cũng không đi thơ thẩn với những đứa con chết trên tay mình vì chứng thoát vị não. Nhưng trước mặt học sinh, anh đã từng đóng vai một nhà đạo đức kỳ quặc kia mà!
Điểu chăm chú nhìn vào văn phòng khoa Anh ngữ và nhận ra chỗ cha vợ ngồi. Trên cái bao lơn nhỏ trải dài từ góc xa của căn phòng, vị giáo sư ngồi sụp trong chiếc ghế quay bằng gỗ sồi, nhìn ra một phần khuôn cửa sổ mở. Văn phòng của giáo sư mang dáng dấp một phòng họp, rộng hơn và sang hơn những cơ sở Anh ngữ ở trường đại học mà Điểu tốt nghiệp. Cha vợ Điểu luôn luôn nói (ông vẫn bóp méo câu chuyện như một trò đùa ưa thích về mình) rằng cách đối xử mà ông nhận được ở trường đại học tư này bao gồm những thuận lợi chẳng hạn như cái ghế quay, là tốt hơn một cách thể so sánh được với những cái mà ông đã có được ở trường Đại học Quốc gia: Điểu có thể thấy rằng những điều ông nói không hẳn là hoàn toàn đùa cợt. Dẫu ánh mặt trời có gắt hơn thì chiếc ghế quay cũng có thể dời lui lại hay bao lơn được che bằng một tấm bạt, một trong hai việc.
Nơi cái bàn rộng gần cửa sổ, ba thầy phụ giảng trẻ tuổi, mặt mày bóng lưỡng hồng hào, đang ngồi uống cà phê, rõ rang là sau giờ ăn trưa. Cả ba người Điểu đều biết mặt: những sinh viên danh dự lớp đàn anh của anh ở đại học. Nếu không vì rượu chè mà bỏ thi thì chắc chắn anh cũng theo đuổi nghề nghiệp như họ.
Điểu gõ vào cánh cửa mở, bước vào phòng và chào ba bậc đàn anh của mình. Sau đó, anh đi ngang qua phòng đến bao lơn. Cha vợ anh xoay người lại nhìn anh khi anh bước tới gần, đầu ông ngửa ra sau để giữ thăng bằng thân mình trên chiếc ghế. Những thầy phụ giảng cũng nhìn theo, cả ba cùng nở nụ cười băng quơ. Thật sự họ xem Điểu như một hiện tượng hiếm hoi nào đó, nhưng đồng thời anh cũng là người ngoài, vì vậy không phải là một đối tượng đang quan tâm. Cái nhân vật đặc biệt, kỳ quặc đó đã không hiểu vì sao dấn thân vào thế giới rượu chè be bét và cuốn cùng bỏ thi tốt nghiệp- đại loại như thế.
“Chào thầy ạ!” Điểu thưa theo thói quen đã có trước khi cưới con gái ông già. Cha vợ anh xoay người trên chiếc ghế, đối diện với anh, những con quay bằng gỗ kêu cót két dưới sàn, và chỉ cho Điểu chiếc ghế xoay có hai tay dựa dài.
“Đứa bé sinh rồi à?” Ông hỏi:
“Dạ, đứa bé đã sinh…” Điểu co rúm người lại để nghe tiếng nói the thé của mình quặn lại trong miệng, và anh nín thinh. Sau đó, anh tự buộc mình kể luôn một mạch sự việc: “đứa bé bị chứng thoát vị não, bác sĩ cho biết nó sẽ chết vào ngày mai hay ngày kia, còn mẹ nó thì khỏe!”.
Làn da màu kẹo bơ cứng trên khuôn mặt khoáng đạt giống sư tử của vị giáo sư hoàn toàn biến thành màu đỏ son.Ngay cả hai bọng mi mắt cũng biến sắc như thể máu đang thấm qua.Điểu cảm thấy mặt mình cũng thay đổi sắc diện. Anh lại nhận ra tất cả nỗi cô đơn và không nơi nương tựa mà anh đã có từ lúc hừng đông.
“Thoát vị não. Con đã thăm đứa bé rồi chứ?”.
Điểu khám phá ra một ẩn ý trong tiếng nói của vợ anh ngay cả trong giọng nói khàn khàn của vị giáo sư và dù thế nào nó cũng khiến anh nhớ nàng.
“Dạ, con đã thăm rồi. Đầu nó băng kín, như nhà thơ Apollinaire… đầu băng kín”. Vị giáo sư cố nói theo cách giễu cợt riêng của mình như thể có cân nhắc. Khi ông lên tiếng, cốt không nhắm nhiều vào Điểu như nhắm vào ba người phụ tá: “Vào tuổi của chúng tôi bây giờ, khó mà nói chắc rằng sống trên đời này là tốt hơn không được sinh ra”. Ba chàng thanh niên cố nén cười nhưng lại nghe rõ tiếng: Điểu quay lại và chăm bẫm nhìn họ. Họ nhìn lại và vả điềm tĩnh trong ánh mặt của họ hàm ý họ chẳng phải là kẻ cuối cùng ngạc nhiên về chuyện một anh chàng kỳ quặc như Điểu lại gặp phải cái tai nạn lạ lung ấy. Điểu hậm hực nhìn xuống đôi giày dính bùn của mình. Anh nói: “Con sẽ gọi lại cho ba khi công việc hoàn tất”.
Vị giáp sư nhẹ đu đưa chiếc ghế ông đang ngồi, không nói một lời. Điểu bất chợt nghĩ rằng có lẽ cha vợ anh đang cảm thấy hơi ghê tởm sự thoải mái mà chiếc ghế quay thường mang lại cho ông.
Điểu cũng lặng im không nói. Anh cảm thấy mình đã nói hết mọi điều cần nói. Còn đối với vợ, liệu đến lúc cần phải nói thì anh có thể thổ lộ điều bí mật ấy một cách đơn giản và rõ ràng như thế không? Không thể được! Lúc ấy sẽ là những giọt nước mắt, hàng tá câu hỏi, những lời nói huyên thuyên vô bổ, cổ họng đau thắt và đầu óc nóng bừng, cuối cùng những sợi thần kinh đang gào thét sẽ là sợi dây thừng trói buộc ông và bà Điểu.
Cuối cùng Điểu nói: “Tốt hơn là con phải trở về, còn những giấy tờ phải ký ở bệnh viện”.
“Mong con vượt qua cơn khốn khó”. Vị giáo sư vẫn ngồi yên trên ghế, Điểu đứng dậy, cảm thấy thật may mắn khi không bị cha vợ bắt ngồi lại lâu hơn. Vị giáo sư nói: “Trong bàn giấy có chai whisky, con mang nó theo đi”.
Điểu cảm thấy khó xử và anh thấy khuôn mặt của ba anh chàng phụ giảng đang căng thẳng. Họ cũng như cha vợ Điểu biết rõ giai đoạn rượu chè be bét của anh, giờ đây anh có cảm giác đôi mắt của họ bắt đầu dõi theo từng hành động và cử chỉ của anh. Điểu do dự, nhớ lại một câu trong quyển sách Tiếng Anh mà anh đang dạy cho học trò, qua đó một người Mỹ đã nói một cách giận dữ: “Anh chơi khăm tôi à? Anh muốn ăn thua đủ phải không?”.
Tuy thế, Điểu vẫn chồm tới, mở hộc bàn và lôi chai Johnny Walker lên bằng cả hai tay. Mặt anh đỏ bừng, ngay cả đôi mắt cũng vậy, nhưng anh cảm thấy một niềm vui vô hạn dâng trào. Nếu cần phản bội Chúa như Juda thì cũng chẳng có gì phải ngần ngại.
Điểu nói: “Cám ơn ba”. Gương mặt của ba anh chàng phụ giảng dịu lại. Vị giáo sư chầm chậm xoay tròn chiếc ghế, đầu ngẩng cao, gương mặt ông vẫn còn sắc diện đỏ bừng và uể oải. Điểu liếc nhìn ba chàng trai, chào phớt qua, và rời căn phòng.
Anh bước xuống cầu thang, tới khoảng sân lát đá, kẹp chặt chai rượu cẩn thận như đang cầm một quả lựu đạn. Thời gian còn lại của ngày hôm nay anh có quyền sống theo ý thích của mình. Ý nghĩ đó hòa nhập với hình ảnh chai Johnny Walker cùng dấy lên một triển vọng mê ly và tai họa.
Ngày mai, ngày kia hoặc có thể là sau một tuần lẫn tránh, khi vợ tôi biết được cái chết của đứa con bất hạnh của mình, cả hai chúng tôi sẽ bị nhốt kín trong chốn tù ngục của kẻ điên loạn. Vì vậy – Điểu tranh luận với nỗi e sợ sôi sung sục trong lòng anh – tôi có toàn quyền với chai rượu mạnh và thời gian tự do của ngày hôm nay. Nỗi e sợ đó nhanh chóng tiêu tan. Tốt! Hãy uống cho bằng thích. Trước tiên Điểu nghĩ chuyện quay về lại căn hộ của mình và vào phòng làm việc uống, nhưng rõ ràng là không ổn. Nếu anh trở về, bà chủ nhà và bạn bè so sẽ bao vây lấy anh bằng những cú điện thoại nếu đường dây không bận với những câu hỏi cặn kẽ về đứa trẻ, ngoài ra cứ mỗi lần nhìn vào phòng ngủ, thấy cái nôi tráng men trắng dành cho đứa bé thì lòng anh tan nát. Điểu lắc mạnh đầu xua tan ý nghĩ này ngay. Tại sao mình không trốn vào một khách sạn rẻ tiền nơi chỉ toàn những người xa lạ? Nhưng Điểu lại hình dung ra mình say gục trong một căn phòng khóa kín và anh cảm thấy sợ hãi, Điểu thèm khát nhìn chăm chăm vào ông già người Ê-cốt vui tính trên dãi băng mài đỏ sãi bước qua nhãn hiệu Johnny Walker. Ông ta đi đâu mà vội thế? Bỗng nhiên Điểu nhớ đến người bạn gái cũ. Mùa đông cũng như mùa hạ, suốt ngày nàng luôn luôn nằm dài trong phòng ngủ tăm tối, vừa suy tư những điều triết lý cao xa vừa rít thuốc lien hồi cho đến khi chiếc giường mịt mù khói. Nàng không bao giờ rời khỏi nhà trước khi trời tối.
Điểu đứng ngoài cổng trường đại học chờ ta-xi. Qua khung cửa sổ lớn của quán cà phê bên kia đường, anh thấy người hoc trò cũ của mình đang ngồi với vài người bạn.Anh chàng sinh viên đó nhận ra Điểu ngay và vẫy tay ra hiệu một cách thân thiện và ngây ngô như một chú chó con dạt dào tình cảm. Bạn bè của anh ta cũng nhìn Điểu với vẻ tò mò lộ liễu. Anh ta sẽ giải thích với bạn thế nào về Điểu? Là một thầy giáo tiếng Anh đã từng rượu chè đến bỏ thi tốt nghiệp, một người co nội đam mê không thể giải thích được, hay có thể là một người điên đáng sợ?
Anh chàng sinh viên mỉm cười với Điểu cho đến khi anh ta ngồi vào chiếc ta- xi. Khi xe chạy, Điểu nhận ra rằng mình cảm thấy như vừa nhận được một sự bố thí.Và nó lại từ một người học trò mà trong suốt thời gian học ở trường luyện thi không bao giờ biết phân biệt những động danh từ tiếng Anh với những động tính từ thời hiện tại, một học trò dốt đặc cán mai!
Người tình của Điểu sống trên một trong những ngọn đồi của thành phố, trong một khu đầy những miếu thờ và nghĩa địa. Nàng ở một mình trong ngôi nhà nhỏ cuối con hẻm. Điểu đã gặp nàng trong một lớp giao tiếp vào tháng Mười khi anh đang là sinh viên năm thứ nhất. Khi đến lượt nàng đứng dậy để tự giới thiệu, nàng đã thách đố cả lớp đoán ra nguồn gốc cái tên khác thường của nàng Himiko – đứa bé thấy lửa, Điểu đaã trả lời một cách chính xác rằng tên này được lấy từ biên niên sử của tỉnh Higo cổ - Vị Đại để ra lệnh cho những người chèo chuyển: đằng xa kia có ánh lửa hiệu, hãy đi thẳng đến đó. Sau đó, Điểu và cô gái Himiko của đảo Kyuchu đã thành bạn với nhau.
Trong trường đại học của Điểu có rất ít nữ sinh viên, chỉ có một nhóm nhỏ ở Khoa Nghệ thuật Tự do từ các tỉnh đến Tokyo, và tất cả bọn họ, theo như Điểu biết, chẳng bao lâu sau khi tốt nghiệp đều biến thành những con quỉ cái. Một phần trăm những tế bào trong thân thể họ phát triển quá mức, tụ lại và kết dính với nhau một cách chậm rãi cho đến khi các cô đi đứng như kẻ mất hồn và trông giống như người đần độn, u sầu. Cuối cùng, họ không đủ khả năng thích ứng với cuộc sống hàng ngày trước khi tốt nghiệp. Nếu họ lập gia đình thì ly dị, đi làm thì bỏ việc. Họ không làm gì ngoài chuyện đi đó đi đây và gặp toàn những tai nạn ô tô khủng khiếp, lãng xét. Himiko, một thời gian ngắn sau khi tốt nghiệp, đã kết hôn với một sinh viên ra trường và rồi nàng cũng rời xa chàng vĩnh viễn. Điểu tồi tệ hơn là một năm sau cuộc hôn nhân, chồng nàng đã tự tử. Cha chồng của Himiko đã tặng nàng căn nhà mà hai vợ chồng đã sống, và hàng tháng ông vẫn chu cấp tiền cho nàng để sống. Ông hy vọng rằng Himiko sẽ tái giá, nhưng vào lúc này, ban ngày thì nàng trầm tư mặc tưởng còn ban đêm thì lái chiếc xe hơi thể thao rong chơi khắp phố.
Điểu đã nghe thiên hạ xì xào rằng Himiko là một kẻ phiêu lưu tình dục, đã phá vỡ quĩ đạo tập tục. Họ cũng bàn tán rằng chồng nàng tự tử vì nàng là một con ngựa bất kham. Điểu đã ngủ với nàng chỉ một lần, nhưng cả hai đều say bí tỉ và chàng chẳng xơ múi được gì. Lần đó xảy ra khá lâu trước cuộc hôn nhân bất hạnh của Himiko. Mặc dù bị cuốn hút bởi dục vọng mãnh liệt và đã theo đuổi niềm khoái lạc của mình một cách tích cực, trong thời gian đó Himiko cũng chỉ là một cô sinh viên thiếu kinh nghiệm.
Điểu xuống xe ngay đầu hẻm nhà Himiko. Anh nhanh tay đếm số tiền còn lại trong ví, anh không có gì phải băn khoăn về chuyện nhận tiền lương ứng trước tháng này sau giờ lên lớp ngày mai.
Điểu xoắn chai Johnny Walker vào túi áo khoác rồi vội vã đi vào con hẻm, tay không rời cổ chai rượu. Vì những người hàng xóm biết hết cuộc sống lập dị của Himiko, nên những khách đến nhà nàng cũng không thể tránh khỏi những cặp mắt tò mò một cách kín đáo từ khắp mọi nơi quanh đây.
Điểu nhấn chuông ở phòng ngoài. Không có tiếng trả lời. Anh khua cửa một chập và khẽ gọi tên Himiko. Đây chỉ là thủ tục.Điểu đi vòng ra sau nhà và thấy chiếc MG cũ đầy bụi nằm dưới cửa sổ phòng ngủ của Himiko. Với những ghế ngồi giơ khung, chiếc MG màu đỏ tươi có vẻ như bị bỏ rơi ở đây khá lâu. Nhưng nó chứng tỏ rằng có Himiko ở nhà. Điểu kê chiếc giày dính bùn của mình lên càng xe móp một cách tệ hại rồi nhấn mạnh khiến chiếc MG chao nhẹ, giống như một chiếc thuyền, Điểu gọi tên Himiko một lần nữa và nhìn lên vuông cửa sổ kéo kín màn. Trong phòng, bức màn nhẹ nhàng nâng lên, qua cái lỗ nhỏ ở cửa, một con mắt nhìn xuống Điểu và hai người thấy nhau, Điểu không lắc lư chiếc xe nữa và mỉm cười: anh luôn luôn xử sự một cách tự do và tự nhiên trước mặt người con gái này.
“Chào anh!” Tiếng nói của nàng nghe như một hơi thở mỏng manh, yếu ớt và rồi nàng mở rộng màn và cánh cửa kính.
Điểu biết mình đã phát hiện ra một điểm lý tưởng để khui chai Johnny Walker vào giữa buổi sáng. Cái cảm giác này khiến anh càng sảng khoái, anh lui bước trở lại trước căn nhà.
4
“Anh hy vọng rằng em không ngủ”, Điểu nói khi Himiko mở cửa
cho anh.
“Ngủ hả? Ngủ vào giờ này à?” Nàng nói như trêu chọc, Himiko
mặc chiếc áo tắm bằng vải màu tím, đưa tay cha ánh nắng ban trưa nhưng vô ích,
ánh sáng sau lưng Điểu chiếu gắt lên cổ và đôi vai trần của nàng. Ông nội của
Himiko là một ngư phủ người Kyushu, thật sự là đã bắt cóc một cô gái Nga ở Vladivostok làm vợ. Chính
điều này giải thích làn da trắng của Himiko, bạn có thể nhìn thấy những mang
mao mạch nằm dưới làn da này. Cách nàng đi đứng cũng vậy, có một cái gì đó gợi
lên vẻ ngượng ngập của những di dân không bao giờ sống hoàn toàn thoái mái trên
quê hương mới.
Co rúm người trong ánh sáng choáng ngợp, Himiko giống như
một con gà mẹ rối lên, vội vàng bước lui vào bóng râm của cánh cửa mở. Nàng
đang ở giai đoạn nửa chừng xuân, giữa sắc đẹp không mấy hoàn hảo của một thiếu
nữ mà nàng đã đánh mất và sự đẫy đà của một phụ nữ chin mùi. Có lẻ Himiko là
loại phụ nữ đã sống một thời gian dài trong trạng thái cơ thể như thế.
Để che chở cô bạn của mình tránh khỏi ánh sáng chói chang,
Điểu nhanh chân bước vào phòng đóng cửa lại. Trong phút chốc, khoảng không gian
chật hẹp của phòng ngoài chẳng khác nào bên trong chiếc lồng có nắp đậy. Điểu
vừa nháy lia mắt vừa cởi giày, cố làm quen với bong tối lờ mờ Himiko đứng sau
lưng anh, đưa mắt nhìn.
“Anh ghét quấy rầy người ta khi họ đang ngủ”, Điểu ướm lời:
“Anh Điểu, hôm nay anh e dé quá.Anh thấy đó, em đâu có ngủ.
Nếu suốt ngày em chợp mắt thì đêm em không bao giờ ngủ được. Em đang nghỉ về
thế giới đa nguyên”.
Thế giới đa nguyên à? Khá hay, Điểu nghĩ, chúng ta có thể
bàn luận chuyện này trong men rượu. Điểu đưa mắt nhìn xung quanh giống như một
con chó săn đánh hơi dấu vết con mồi trong khi anh theo Himiko vào phòng trong.
Trong phòng khách, trời có vẻ như đang về đêm, tối tăm và tù hãm chẳng khác nào
một ổ rơm dành cho con thú nuôi bệnh hoạn, Điểu liếc nhìn chiếc ghế mây cũ
nhưng chắc chắn mà anh thường ngồi và sau khi dọn mấy tờ tạp chí, anh cẩn thận
ngồi xuống. Từ lúc Himiko tấm xong, mặc quần áo và trang điểm cho đến giờ nàng
vẫn chưa mở đèn, còn những tấm màn cửa thì he hé mở. Khách phải kiên nhẫn đợi
chờ trong bóng tối. Lần viếng thăm sau cùng cách đây một năm, Điểu đã đạp nhằm
một mảnh gương và ngón chân cái của anh bị cắt chảy máu. Anh rung mình khi nhớ
lại cái đau và nỗi sợ hãi.
Trong cảnh hổn độn của sách báo, những cai, hộp không, dao,
kéo, những vỏ bao, những đóa hoa héo hái trong khu rừng mùa đông mang về, những
loại côn trùng và nhựng bức thư vừa cũ vừa mới không chỉ nằm đầy kín sàn nhà và
bàn ghế mà nằm cả trên kệ sách dọc theo cửa sổ, trên máy nghe nhạc, trên tivi:
thật khó mà tìm chỗ đặt chai rượu. Điểu do dự và rồi anh lấy chân đẩy cái mớ
hổn độn trên sàn để tạo một chỗ trống vừa chèn chai Johnny Walker vào giữa hai
mắt cá, Himiko nhìn qua cánh cửa lớn và nói với vẻ xã giao: “Em vẫn không học
được cách gọn gàng, ngăn nắp. Lần này trông nó giống như lần sau cùng anh có
mặt ở đây phải không anh Điểu?”.
“Đúng như thế, khỉ thật, anh đã bị cắt ngón chân cái!”.
“Tất nhiên rồi, cái sàn nhà uanh chiếc ghế đầy máu phải
không nào?” Himiko nhớ lại “Chuyện đó xưa rồi mà anh Điểu. Nhưng rồi đâu vẫn
hoàn đấy. Hiện giờ anh ra sao nào?”.
“Thực ra thì anh bị một tai nạn”.
“Tai nạn
à?”.
Điểu ngập
ngừng. Anh không có ý định bộc lộ ngay tất cả nỗi phiền muộn trong lòng. “Vợ
chồng anh có một đứa con nhưng nó chết rồi”. Anh đơn giản hóa sự việc.
“Trời! Thật
vậy sao? Cùng một chuyện lại xảy ra cho hai người bạn của tôi! Em biết đến ba
người như vậy. Anh không nghĩ rằng đó là hậu quả của bụi phóng xạ ư?”.
Điểu cố so
sánh đứa con hình như có hai đầu của anh với những bức ảnh về sự đột biến do
phóng xạ gây ra mà anh đã thấy. Nhưng anh chỉ nghĩ về sự bất bình thường của
đứa bé và một cảm giác cực kỳ hổ thẹn dấy lên cổ họng anh một cách gây gắt. Làm
thế nào anh có thể bàn luận điều bất hạnh với người khác trong khi nó vốn là
của chính anh?! Anh đã có cảm giác rằn đây không hề là vấn đề mà anh có thể san
sẻ với đồng loại.
“Trường hợp
của con anh, rõ ràng là một tai nạn”.
“Anh Điểu,
thật là một kinh nghiệm khủng khiếp đối với anh,” Himiko nói. Nàng im lặng nhìn
anh bằng đôi mắt u buồn.
Điểu chẳng cảm
thấy băn khoăn gì qua cái nhìn của Himiko, thay vào đó, anh nâng chai Johnny
Walker lên. “Anh muốn có một chỗ nào đó để uống và anh biết em chẳng phiền hà
gì cho dù bây giờ là buổi trưa. Uống với anh chứ?”.
Điểu cảm
thấy mình tán tỉnh cô gái giống như một chàng đĩ đực vô liêm sỉ. Nhưng đó là
cung cách mà những gã đàn ông Himiko quen biết thường đối xử với nàng. Anh
chàng mà nàng đã kết hôn, còn trắng trợn nhiều hơn Điểu hay bất cứ những người
bạn khác của nàng, nịnh nọt, tang bốc nàng như thể chàng ta là một đứa em trai.
Và bất ngờ một buổi sáng, chàng ta đã treo cổ tự tử.
“Anh Điểu,
em có thể nhìn thấy cái chết của đứa bé vẫn còn kề anh. Anh chưa hồi phục. Vậy
thì em sẽ không hỏi thêm bất cứ điều gì về chuyện đó nữa”.
“Có lẽ như
thế là tốt nhất. Hầu như chẳng có điều gì để nói nữa”.
“Chúng ta sẽ
uống chứ?”.
“Uống”.
“Em muốn tắm
một chút, anh cứ uống trước đi anh Điểu! Ly và bình nước trong nhà bếp”.
Himiko biến
vào phòng ngủ và Điểu đứng dậy. Nhà bếp và phòng tắm cùng chung một khoảng
không gian khúc khuỷu ở cuối hành lang nối liền với đuôi của căn nhà nhỏ. Điểu
nhảy qua chú mèo nằm co tròn trên sàn nhà, bước qua chiếc áo tắm và bộ đồ lót
mà Himiko vừa ném xuống, đi đến nhà bếp. Khi trở lại chỗ ngồi với cái bình đựng
nước và ly tách mà anh đã rửa sạch, bỏ trong mỗi túi áo hai thứ, anh tình cờ
nhìn qua cánh cửa kính lớn đang mở và thấy Himiko đang tắm trong phòng, nơi này
còn tối hơn tiền sảnh. Tay trái nàng giơ lên như để cản dòng nước đen từ trong
bóng tối tuôn xuống đầu nàng, còn tay phải thì để trên bụng, Himiko nghiêng đầu
qua bên phải nhìn xuống đôi mông và bắp chân phải thon gầy của mình. Điểu nhìn
thấy cả lưng, mông và đôi chân của nàng, khiến anh không thể kiềm chế được nỗi
chán ghét choán ngợp cả người. Người anh nổi da gà. Anh nhón gót như để trốn
chạy khỏi bóng tối đầy ma quỉ: và rồi anh vừa run vừa chạy qua phòng ngủ, và
quay lại chiếc ghế mây quen thuộc. Anh đã chiến thắng nó một lần, anh không thể
nói khi nào, và bây giờ nó lại sống dậy trong người anh: lòng khát khao, kinh
tởm của một chàng trai tơ bị giày vò trước một than thể trần truồng. Điểu cảm
thấy rằng con bạch tuộc của sự kinh tởm cũng sẽ vươn dài những xúc tu của nó
ngay cả khi anh trở lại với vợ mà bây giờ đang nằm trên giường bệnh và nghĩ về
đứa con đã cùng cha nó đến một bệnh viện khác vì một khuyết tật tim. Nhưng cái
cảm giác này kéo dài có lâu không? Nó có nổi lên gay gắt không?
Điểu bóc nút
khằn trên chai rượu bằng móng tay và rót cho mình một ly. Cánh tay anh vẫn còn
run: tiếng kêu róc rách của rượu chạm vào ly giống như tiếng chuột rúc giận dữ,
Điểu cau mày nhăn nhó, như một ông già khó tính, nốc vội ly rượu vào cuống
họng. Nóng như lửa đốt! Anh sặc rượu và đôi mắt cay xè. Nhưng ngay lập tực cái
mũi tên khoái cảm cay nồng đã đâm xuyên vào bụng anh, rung và dừng lại, Điểu
như một đứa con nít, thơm phức mùi dâu tây hoang dại, chùi môi bằng mu bàn tay
và lại rót đầy một ly, lần này thì tay không còn run nữa. Đã mấy ngàn tiếng
đồng hồ anh tránh xa thứ rượu này rồi? Che giấu một điều gì giống như mối ác
cảm với ai đó mà anh không thể nêu tên, Điểu nhâm nhi cạn ly thứ hai, chẳng
khác nào chú chim sẻ ngô mổ những hạt kê. Lần này cổ họng anh không bốc cháy,
anh không sặc và không chảy nước mắt, Điểu nâng chai Johnny Walker lên và xem
xét bức hình trên tờ nhãn. Anh nhìn một cách say mê rồi uống ly thứ ba.
Vào lúc
Himiko trở lại, Điểu bắt đầu chuếnh choáng hơi men. Khi thân hình của Himiko
bước vào phòng thì nỗi kinh tởm dâng lên trong đầu anh, nhưng những chức năng
hoạt động của nó đã bị chất độc trong rượu làm suy yếu. Ngoài ra, chiếc áo đen
một mảnh mà Himiko mặc đã làm giảm bớt mối đe dọa của da thịt mà nó che đậy:
giống như một khối long bờm xờm làm cho nàng trông chẳng khác nào một khoảng
trống trên bàn, đặt ly và tách cho Himiko rồi rót rượu và nước lạnh, Himiko
ngồi xuống chiếc ghế gỗ rộng có chạm trổ, sửa sang cái áo hết sức cẩn thận cốt
không phơi bày làn da tươi mát vừa mới tắm xong của nàng. Điểu cảm thấy dễ
chịu. Dần dần anh vượt qua nỗi kinh tớm, nhưng không có nghĩa là diệt được tận
gốc rễ.
“Chúng ta
đang ngồi đây”, Điểu lên tiếng, hớp một ngụm rượu.
“Vâng ta
đang ngồi đây!” Himiko trề môi giống như con đười ươi đánh hơi mùi vị và nhắp
một tí rượu.
Họ ngồi chết
trong không khí đầy hơi rượu, nóng bức một cách im lặng, và lần đầu tiên bốn
mắt nhìn nhau. Tươi mát sau khi tắm xong, Himiko trông xinh ra, có lẽ mẹ nàng
mới là người chùn bước trước ánh mặt trời. Điểu thỏa mãn. Chỉ cần đôi chút thay
đổi như vậy, ở tuổi của Himiko vẫn còn gây được ấn tượng. “Em nhớ đến một bài
thơ lúc em tắm. Anh có nhớ bài thơ này không?” Himiko thì thầm đọc một câu thơ
tiếng Anh như đọc một câu thần chú. Điểu lắng nghe và yêu cầu nàng đọc lại.
“Thà giết
một đứa bé trong nôi còn hơn là nuôi dưỡng những khát vọng hão huyền”.
“Nhưng em
không thể giết được tất cả những đứa bé trong nôi”, Điểu lên tiếng, “Nhà thơ đó
là ai?”
“Anh nhớ
chứ, em đã viết một luận văn về ông ta”.
“Dĩ nhiên là
nhớ, em đang nghiên cứu Blake mà”. Điểu quay đầu và phát hiện ra bức tranh
phiên bản Blake treo trên tường tiếp giáp với phòng ngủ. Anh vẫn thường thấy
bức tranh này thường nhưng chưa bao giờ anh nhìn nó một cách cẩn thận. Bây giờ
anh để ý đến vẻ kỳ lạ của nó. Một quảng trường được vây quanh bởi những tòa nhà
xây theo phong cách Trung Đông. Đằng xa
nổi lên một cập kim tự tháp đúng kiểu chắc chắn là Ai Cập. Ánh sáng mong manh
của buổi bình minh tràn ngập cả cảnh tượng – hay đó là bụi mù? Một xác thanh
niên chết nằm trườn ra quảng trường giống như một con cá bị mổ bụng. Kế anh ta
là người mẹ quẫn trí được vây quanh bởi một nhóm người già cầm đèn lồng và
những phụ nữ đưa nôi. Nhưng cảnh tượng
này bị một gã khổng lồ ngự trị, từ trên trời cao giang rộng đôi tay sà xuống
quảng trường. Phải chăng là con người? Thân hình lực sĩ đẹp phủ đầy vảy. Đôi
mắt chứa đầy nỗi đau khổ đáng ngại và đầy nỗi đắng cay cực độ, miệng thì giống
như một hố sâu che lấp cả mũi – miệng của con rồng lửa. Ma quỉ hay thần thánh?
Sinh vật này hiện ra sẽ bay vút lên trời cao, làm náo loạn cả bầu trời đêm ngay
khi lớp vảy của nó bốc lửa.
“Ông ta đang
làm gì thế? Phải chăng than hình ông được coi như là bọc một lớp vảy hay ông
đang mặc một chiếc áo giáp giống những kỵ sĩ thời Trung Cổ?”.
“Em nghĩ là
vảy”, Himiko đáp. “Trông màu sắc xanh lục của chúng thì giống vảy nhiều hơn.
Ông ta chính là thần Plague! Thành tích xuất sắc nhất của ông ta là tiêu diệt
những con dân Ai Cập cao tuổi nhất!”.
Điểu không
hiểu nhiều về Thánh kinh, có lẽ đó là cảnh tượng trong thiên Exodus. Nhưng dù
thế nào thì đôi mắt và cái miệng của sinh vật này cũng có vẻ kỳ cục và độc địa.
Đau buồn, sợ hãi, ngạc nhiên, mệt mỏi, cô đơn- ngay cả nụ cười hàm ẩn trong đôi
mắt đen như than và cái miệng rồng.
“Ông ta cũng
chẳng trơn tru gì!” Himiko lên tiếng.
“Em thích
người có vảy à?”
“Chắc chắn
rồi. Và em thích tưởng tượng mình sẽ có cảm giác như thế nào nếu chính mình là
linh hồn của thần Plague”.
“Có lẽ nói không
ngoa, mắt và miệng em bắt đầu giống ông ta rồi đó”. Điểu liếc nhìn miệng của
Himiko”.
“Thật là
đáng sợ, phải thế không anh? Bất cứ khi nào em có cảm giác sợ hãi, em lại nghĩ
rằng thật là tồi tệ làm sao nếu em làm cho một ai đó phải sợ - đó là cách đền
bù về mặt tâm lý mà em có được. Anh có nghĩ rằng anh đã làm người khác sợ như
anh đã từng sợ trong đời anh không?
“Anh đang tự
hỏi như thế. Anh phải nghĩ về điều này đã”.
“Anh phải
biết rằng có lẽ đó không phải là điều mà anh có thể nghĩ đến được”.
“Thế thì anh
nghĩ rằng thực sự mình chẳng bao giờ làm ai sợ”.
“Em tin chắc
anh chưa thi đúng hơn. Nhưng anh không nghĩ đó là một kinh nghiệm mà sớm muộn
gì anh cũng sẽ trải qua sao?” Giọng nói của Himiko dè dặt, nhưng ẩn chứa một
lời tiên đoán.
“Anh nghĩ
giết một đứa bé trong nôi sẽ làm cho em cũng như mọi người đều khiếp sợ”. Điểu
rót rượu cho mình và Himiko. Anh nốc một hớp cạn ly rồi rót đầy trở lại.Himiko
thì uống một cách từ tốn.
“Em không
muốn uống à?” Điểu hỏi.
“Vì em còn
lái xe. Em chưa bao giờ chở anh đi phải không?”.
“Anh không
nghĩ thế. Chúng mình sẽ cùng đi vào một ngày gần đây”.
“Em sẽ chở
anh đi bất cứ đêm nào cũng được. Ban ngày thì nguy hiểm vì xe cộ quá nhiều,
phản xạ của em nhanh hơn khi trời tối”.
“Đó có phải
là lý do mà em tự giam mình suốt ngày và nghĩ ngợi không? Anh muốn nói đến cuộc
sống của một triết gia thực sự - một triết gia lái chiếc xe MGC đỏ chạy như bay
trong đêm tối – không phải là xấu. Thế giới đa nguyên này là gì?”.
Điểu để ý
đến khuôn mặt của Himiko khi nó bừng lên niềm khoái cảm với vẻ khoan khoái. Đây
là sự đền bù cho điều khiếm nhã vì cuộc viếng thăm đường đột của anh và cho
cuộc rượu mà anh đã dự định: chẳng ai ngoài anh ra chịu khó ngồi nghe những
điều mơ tưởng của Himiko.
“Ngay lúc
này anh và em đang ngồi trò chuyện với nhau trong căn phòng là một phần của cái
mà chúng ta gọi là thế giới thực sự”, Himiko bắt đầu, Điểu ổn định tinh thần để
lắng nghe, bàn tay giữ cần bằng ly nước một cách cẩn thận. “Cũng ngẫu nhiên mà
anh và em cùng tồn tại dưới những hình thái khác trong vô số thế giới khác. Bây
giờ cả hai chúng ta nhớ lại những thời kỳ trong quá khứ khi cơ hội sống hay
chết là 50 – 50. Chẳng hạn, hồi em còn nhỏ, em bị sốt thương hàn và gần chết.
Và em vẫn còn nhớ không sót một chi tiết rằng lúc đó em đứng giữa ngã ba đường,
em có thể bước vào cõi chết hay trèo lên dốc để hồi sinh. Đương nhiên, con
Himiko ngồi với anh trong căn phòng này chọn con đường hồi sinh. Nhưng trong
cùng một khoảnh khắc con Himiko khác lại chọn cáu chết! Và một thế giới người
sống với những hồi ức ngắn ngủi về con Himiko đã chết đi quanh ngọn lửa thiêu
đốt thi thể chết trẻ vì bệnh thương hàn của nó. Anh có hiểu thế không, anh
Điểu? Mỗi anh anh đứng trước cái sống và cái chết, anh có hai thế giới trước
mặt. Đối với anh một đằng là mất tất cả những người thân bởi vì anh chết. Đằng
khác là anh còn lại những người than bởi vì anh tồn tại trong đó. Chỉ khi nào
anh cởi áo quần, anh từ bỏ thế giới mà trong đó anh chỉ tồn tại như một cái xác
và di chuey63n đến một thế giới mà ở đó anh vẫn còn sống. Nói một cách khác,
những thế giới khác nhau hiện lên quanh mỗi chúng ta theo cách những cành cây
và nhánh lá lìa khỏi than cây.
Cách phân
chia tế bào thế giới này cũng đã xảy ra khi chồng em tự tử. Em bị bỏ lại phía
sau thế giới mà chồng em chết ở đó, nhưng ở bên kia bờ một thế giới khác, nơi
anh ta vẫn tiếp tục cuộc sống không tự tử, một Himiko khác đang cùng chung sống
với anh ta. Thế giới mà một người bỏ lại phía sau anh ta khi anh ta chết, phải
nói là chết ở tuổi còn rất trẻ, và thế giới ở đó anh ta thoát chết, vẫn tiếp
tục sống – những thế giới chứa đựng chúng ta đều không ngừng nhân lên. Đó là
tất cả những gì em muốn nói về thế giới đa nguyên.
“Và anh biết
không anh Điểu? Anh không nên buồn nhiều về cái chết của con anh. Bởi vì một vũ
trụ khác từ đứa bé tách ra, và trong thế giới đang phát triển ở vũ trụ đó, đứa
bé đang lớn lên và khỏe mạnh ngay từ giây phút này. Trong thế giới đó, anh là
một người cha trẻ say sưa vì hạnh phúc và em cảm thấy mình lạc hậu vì mới nghe
được những tin tốt lành và chúng ta cùng uống với nhau một cốc rượu mừng. Anh
Điểu, anh có hiểu thế không?”.
Nụ cười nở
trên khuôn mặt của Điểu là nụ cười bình yên. Rượu đã ngấm vào mao mạch xa nhất
trong cơ thể anh và nó đang gây hiệu quả mạnh: áp lực giữa màu đỏ tái trong
người anh và thế giới bên ngoài bằng nhau. Điểu biết khá rõ, không hẳn cái cảm
giác này sẽ kéo dài.
“Anh Điểu,
anh không thể hiểu một cách đầy đủ, nhưng ít ra anh cũng có được ý tưởng chung
chung chứ? Trong hai mươi bảy năm sống của anh cũng có những lúc anh đứng ở cái
gạch nối mơ hồ của cái sống và cái chết. Vậy thì, trong mỗi một lúc nào đó anh
tồn tại trong thế giới này và bỏ lại than xác mình trong thế giới khác. Anh
Điểu, anh phải nhớ những giây phút đó chứ?
“Đúng ra anh
có nhớ. Có phải em đang nói rằng anh bỏ lại thể xác của mình trong mỗi một dịp
may đó và thoát khỏi thế giới đó để sống trong thế giới này?”.
“Chính xác
là thế”.
Có thể nàng
có lý chăng? Điểu tự hỏi một cách uể oải. Phải chăng có một anh chàng Điểu khác
bỏ lại phía sau một thể xác ở mỗi phút giây nguy kịch đó? Và phải chăng có
những anh chàng Điểu đã chết trong hằng hà thế giới khác, một anh chàng Điểu là
cậu học trò bạc nhược, nhút nhát và một cậu học sinh trung học có tinh thần
nghèo nàn nhưng thể xác thì khỏe mạnh hơn thể xác của anh? Vậy thì ai trong số
những tên Điểu chết đó đang ao ước nhất? Có một điều chắc chắn: không phải
chính anh, không phải anh chàng Điểu trong thế giới này.
“Vậy thì có
một cái chết chung cuộc khi cái chết của em trong thế giới này cũng chính là
cái chết của em trong tất cả những thế giới khác?”.
“Về mặt nào
đó phải có. Anh phải sống đến vô tận ít nhất trong một thế giới. Em muốn nói
anh có thể chết vì tuổi già khi anh trên chin mươi. Vì vậy chúng ta đều sống
trong thế giới này hay thế giới khác cho đến khi chúng ta chết vì tuổi già
trong thế giới cuối cùng của chúng ta – điều đó nghe có vẻ hợp lý, phải thế
không anh Điểu?”.
Sự nhận thức
bất ngờ buộc Điểu ngắt lời: “Em vẫn còn tự giày vò mình về chuyện tự tử của
chồng em phải không? Và em đã bày tỏ toàn bộ sự lừa dối mang tính triết lý này
để cướp mất cái chết chung cuộc”.
“Anh muốn
nói gì thì nói, vai trò của em từ khi anh ta bỏ em ở lại thế giới này là không
ngừng tự vấn tại sao anh ta chết…”. Làn da xám quanh đôi mắt yếu ớt của Himiko
đổi màu nhanh chóng một cách đáng sợ”…bây giờ tuy đó là một vai trò đáng ghét
nhưng em chấp nhận nó, em không trốn tránh những trách nhiệm của em, ít nhất là
trong thế giới này”.
“Himiko,
đừng nghĩ anh phê bình em, vì anh không phê bình. Anh chỉ không thích nhìn thấy
em tự hành hạ mình…” Điểu mỉm cười, cốt làm cho lời lẽ của anh bớt cay độc,
nhưng nó vẫn thốt ra”. Em đang ố làm một điều gì đó mà nó vượt ra ngoài cái bất
biến có liên quan đến cái chết của chồng em bằng cách thừa nhận có một thế giới
khác mà anh ta vẫn sống. Nhưng em không thể tạo tính tuyệt đối của người thân
đã chết, không phải là vấn đề em dùng cách đánh lừa mang tính tâm lý nào”.
“Có lẽ anh
đúng, anh Điểu… xin rót cho em ly khác”. Giọng nói của Himiko khô khốc và thờ
ơ, Điểu rót đầy ly của cả hai người và cầu mong Himiko uống để quên đi những lời
phê bình tự phát của mình và ngày mai lại tiếp tục mơ về thế giới đa nguyên.
Giống như một nhà du hành vượt thời gian đang viếng thăm một thế giới mười ngàn
năm về trước, Điểu khiếp sợ phải chịu trách nhiệm cho bất cứ rủi ro nào xảy ra
trong thế giới hiện tại. Cái cảm giác đó đã chầm chậm lớn dần trong anh từ khi
anh biết được rằng con anh là một quái vật. Bây giờ anh muốn rời bỏ thế giới
này trong chốc lát, như một người bỏ một ván bài khi anh ta có nước bài xấu.
Trong im
lặng,Điểu cùng Himiko trao đổi nụ cười cao thượng và chủ tâm uống, giống như
con bọ hút nhựa cây. Những tiếng ồn từ con đường chiều mùa hạ đưa đến tai Điểu
như những tín hiệu từ một khoảng cách mênh mông, những tín hiệu không ai chú ý
đến. Điểu nhổm người lên trên ghế và ngáp, nhỏ một giọt nước mắt vô nghĩa như
nước bọt. Anh lại rót đầy ly và nốc cạn – để tin chắc rằng sự suy sụp của mình
từ thế giới này sẽ trôi chảy…
“Anh Điểu?”.
Điểu làm đổ
rượu lên đùi, mở to đôi mắt và bắt đầu cảm thấy khá say.
“Gì?”
“Cái áo
khoác da hoẵng ma anh lấy của bác anh – bây giờ nó ra sao rồi?” Himiko nói chậm
rãi bằng cách phát âm chính xác. Mặt nàng, giống như một quả cà chua lớn, tròn
và đỏ gấc.
“Đó là một
câu hỏi hay. Anh thường mặc nó trong năm đầu ở trường đại học”.
“Anh Điểu!
Anh vẫn mặc nó trong mùa đông của năm thứ hai?”.
Mùa đông –
từ này làm cho Điểu nhớ lại kỷ niệm của một đêm say mèm.
“Đúng thế -
Anh trải nó trên nền đất ướt trong bãi gỗ vào cái đêm mà chúng ta cùng ở bên
nhau. Sáng hôm sau nó giống như một cái bánh bằng bùn và dâm bào. Anh không bao
giờ mặc lại vì dạo đó những người thợ tẩy quần áo không nhận giặt tẩy áo khoác
da hoẵng. Anh nghĩ mình đã vo tròn cất vào nhà kho rồi sau này vứt đi”.
Điểu ném cái
nhìn tinh quái đến Himiko bằng đôo mắt đỏ ngầu, nhức nhối. Đầu óc anh căng
phồng vì máu. Khói thuốc lượn vòng trong phòng như đàn cá mòi mắc bẫy: Himiko
dường như đang trôi dạt trong biển khói. Himiko nhìn Điểu. Khuôn mặt nàng hiện
lên nụ cười là lạ, say mê, quá bình dị, nhưng đôi mắt nàng thì đang mơ màng.
Himiko đang thả hồn trong men rượu và thân thể nàng vừa mềm mại, vừa tròn trịa
hơn bao giờ hết, đặc biệt là khuôn mặt đỏ bừng, nóng bỏng của nàng. Giá mà,
Điểu nghĩ một cách buồn bã, tôi có thể lập lại cảnh hiếp dâm vào đêm đông đó
với Himiko. Điểu nốc ly rượu và anh run lên vì ghê sợ. Nếu anh muốn tái tạo tất
cả trạng thái căng thẳng kỳ diệu của phút giây ân ái mà anh đã làm hỏng trong
đêm đông đó, có lẽ anh sẽ không có sự chọn lựa nào ngoài việc bóp cổ người con
gái này cho đến chết. Một giọng nói vụt bay ra khỏi chỗ trú ngụ của lòng ham muốn
trong người anh: Giết nàng và ngủ với thi thể của nàng! Nhưng Điểu biết anh sẽ
không bao giờ dám làm chuyện mạo hiểm đó trong tình trạng hiện thời của mình.
Tôi chỉ có cảm giác thèm muốn và cướp đoạt bởi vì tôi biết Himiko còn trinh.
Điểu khinh miệt tâm trạng rối loạn của mình và anh cố chối bỏ một phần. Nhưng
con nhím biển của bất an và lòng ham muốn cháy bỏng hắc ám không chịu rời đi.
Nếu anh không thể giết nàng và hiếp dâm thi thể, thì hãy tìm một điều gì đó có
thể gợi lên một hoàn cảnh tốt đẹp hơn! Nhưng Điểu bất lực, anh chỉ có thể kinh
ngạc đứng trước sự ngu dốt về mối hiểm họa và sự đồi bại của mình, Điểu uống
cạn ly rượu giống như một cầu thù bóng rổ uống cạn ly nước au khi bị đuổi ra
sân vì phạm quá nhiều lỗi: cáu kỉnh, tự cao và chán ngán. Lúc này rượu mất hết
cả hương vị, nó không còn đắng nữa.
“Anh Điểu,
lúc nào anh cũng nốc rượu như nốc nước trà vậy phải không? Ngay cả nước trà em
cũng không thể uống nhanh như thế khi nó còn nóng”.
“Đúng vậy.
Khi nào anh cũng uống kiểu này cả”. Điểu lầm bầm.
“Cả những
lúc có vơ anh bên cạnh?”.
“Em nói
sao?”.
“Anh không
thể làm vừa long một người đàn bà khi anh uống theo cách đ. Điểu quan trọng
hơn, em tự hỏi không biết rằng anh có thể từ bỏ nó được không, dù anh cố gắng
đến như thế nào. Anh nên chấm dứt bằng cách phân sức từng đoạn một giống như
một vận động viên bơi sắp đường trường…”.
“Có phải em
đang nghĩ sẽ lên giường với anh bây giờ không?”.
“Em không
ngủ với anh khi anh quá say như thế, nó sẽ vô nghĩa với cả hai chúng ta”.
Điểu thọc
ngón tay qua cái lỗ rách trong túi quần, anh khám phá ra một cái gì đó ấm ấm và
mềm: một con chuột dại khờ và đờ đẫn. Không còn sinh khí, hoàn toàn trái ngược
với con nhím biển đang bốc lửa trong ngực anh.
“Chẳng làm
ăn được gì, phải thế không anh Điểu?” Một cách tự tin, Himiko khẽ cử động thách
thức.
“Anh không
còn khả năng, nhưng chắc chắn anh có thể thực hiện… để đưa em lên chín tầng
mây!”.
“Đối với em,
anh biết đó, để đạt đến cực khoái không đơn giản như thế đâu. Anh Điểu, hình
như anh không còn nhớ rõ cho lắm chuyện xảy ra khi chúng ta nằm trong bãi gỗ.
Đối với anh thì sao em không biết. Nhưng đối với em, đó là đêm động phòng hoa
chúc. Trời lạnh, nhớp nhúa, lố bịch và cũng lâm ly. Từ đó em đã tham dự một
cuộc đua đường dài và phải vật lộn suốt đường, anh Điểu!”.
“Anh đã làm
cho em cảm thấy nhạt nhẽo sao?”
“Nếu anh
muốn nói đến sự khoái lạc bình thường, em đã phát hiện điều đó cho chính mình
ngay tức thì. Em đã có được từ vài người bạn cùng lớp hầu như trước khi bùn
trong bãi gỗ dính vào móng tay em khô đi. Nhưng từ đó đến giờ, em không ngừng
săn đuổi một niềm cực khooa1i tốt hơn, và vẫn một niềm cực khoái hơn thế -
giống như leo lên một bậc cầu thang!”.
“Và em đã
thỏa mãn được từ khi em tốt nghiệp đại học?”.
“Từ trước
khi em tốt nghiệp. Bây giờ thì anh có thể biết đó là công việc chính của em khi
em òn là sinh viên”.
“Em là một
người bệnh hoạn trong chuyện đó rồi”.
“Không, đó
không phải là sự thực, anh Điểu. Một hôm nào em sẽ chứng tỏ cho anh thấy – trừ
khi anh muốn kỷ niệm tình dục cuối cùng của anh với em là sự cố trong bãi gỗ.
Anh nghĩ sao?”.
“Anh sẽ dạy
cho em cái mà anh chọn lựa trong suốt cuộc đua đường dài của anh”, Điểu lên
tiếng. “Chúng ta đừng bôi mặt nhau nữa, hãy lên giường nào!”.
“Anh say quá
rồi, anh Điểu”.
“Em đúng là
một người bộc trực”, Điểu co rúm người lại.
“Anh Điểu,
hơn nữa, hôm nay anh thật sự không phải đi tìm tình dục. Anh nhìn em như thể
chuyện làm chuyện sẽ khiến anh kinh tởm. Anh nói chúng ta cùng nhau lên giường,
nhưng rốt cuộc những gì anh có thể làm được là ngã gục và nôn mửa…”.
“Anh nghĩ
thỉnh thoảng chúng ta cũng học được kinh nghiệm, những nhận xét của em đều
đúng”. Điểu ngán ngẩm nói.
“Chẳng có gì
phải vội”, Himiko an ủi.
“Không.
Chẳng vội. Dường như đã quá lâu anh phải sống trong hoàn cảnh vội vàng. Khi còn
là một đứa bé, anh luôn luôn vội vội vàng vàng. Anh tự hỏi không biết tại
sao?”.
“Có lẽ vì
người ta có quá ít thời gian khi còn bé. Em muốn nói anh lớn quá nhanh”.
“Anh lớn
nhanh, đúng thế. Và bây giờ anh đủ già để làm một người cha. Anh chỉ không
chuẩn bị một cách tương xứng như một người cha nên không thể gặp được một đứa
con đích thực. Em có nghĩ anh sẽ trở thành người cha của một đứa con bình
thường không? Anh thì không tin”.
“Anh Điểu,
không ai tin điều đó. Khi đứa con kế tiếp của anh trở thành một đứa trẻ hoàn
toàn khỏe mạnh thì anh sẽ biết chắc rằng mình là một người cha bình thường, và
anh sẽ cảm thấy mình lấy lại được long tin”.
“Em thật sự
sành đời”. Điểu phấn chấn hẳn lên. “Himiko, anh muốn hỏi em – “Cơn buồn ngủ
nhận chìm anh trong những con sóng và Điểu biết anh không thể nào kháng cự lại
thêm một phút. Anh nhìn châm châm vào chiếc lý trống đang chập chờn trong ảo
giác và lắc đầu tự hỏi có nên uống thêm một ly nữa không, cuối cùng anh thừa
nhận rằng cơ thể mình không thể chấp nhận thêm một giọt rượu nào nữa. Chiếc ly
tuột khỏi những ngón tay của anh, va vào đùi rồi lăn xuống sàn nhà.
“Himiko, anh
muốn hỏi em thêm một điều nữa”, Điểu lên tiếng, cố giữ đôi chân đứng vững”, -
khi em chết như một đứa bé sơ sinh, em sẽ bước vào thế giới nào?”.
“Anh Điểu,
nếu có một thế giới như vậy, thì chuyện sẽ hết sức đơn giản. Nhưng anh đâu có
tin vào thế giới đa nguyên của em phải không? Con của anh sẽ sống cho đến lúc
cây già trái chin ở tuổi chin mươi trong thế giới cuối cùng của cháu?”.
“Thì ra
thế”, Điểu nói: “Tốt. Anh sẽ đi ngủ. Này Himiko! Trời tối chưa? Làm ơn kéo hé
màn giùm anh”.
“Mới giữa
ngày thôi anh Điểu. Nếu anh muốn ngủ, anh có thể ngủ trên giường em. Em sẽ ra
ngoài khi trời tối”.
“Em bỏ một
người bạn đáng thương vì chiếc xe thể thao màu đỏ à?”
“Khi một
người bạn đáng thương đã say, điều tốt nhất đề làm là để anh ta lại một mình.
Nếu không thì sau này cả hai chúng ta cùng tiết nuối”.
“Tuyệt đối
đúng! Em đã giữ tất cả túi khôn của nhân loại. Như thế em lái chiếc MG suốt đêm
sao? Cho đến sang sao?”.
“Đôi khi,
anh Điểu. Em có có những cuộc rong chơi để thực hiện – giống như buồn ngủ tìm
chiếu manh!”.
Cuối cùng
khi Điểu nhấc mình ra khỏi chiếc ghế mây, khuệnh khạng và nặng nề như mang thân
thể của một người khác, anh choàng tay ôm đôi vai chắc nịch của Himiko rồi đi
thằng vào phòng ngủ. Anh cảm thấy trong đầu mình như một mặt trời bốc cháy và
xung quanh có một thằng hề lùn đang nhảy múa và rắc những bụi sáng như trong
truyện thần tiên PeterPan mà anh đã xem. Điểu cười, bị kích thích vì ảo giấc.
Khi ngã quỵ trên giường, anh còn nói được một câu sảng khoái: “Himiko! Em giống
như một bà dì vĩ đại!”.
Điểu ngủ.
Trong giấc mơ của anh, ngang qua quảng trường tranh tối tranh sang, một người
đàn ông với đôi mắt đen buồn và cái miệng của con rồng lửa có vết thủng khủng
khiếp đang di động, nhưng chẳng bao lâu anh ta bị cuốn hút trong bóng tối hơi
ngả màu đỏ. Âm thanh của chiếc xe thể thao khuất dần, giấc ngủ sâu lắng.
Trong suốt
đêm, Điểu thức dậy hai lần, và không lần nào có Himiko ở đó. Anh bị đánh thức
bởi tiếng kêu giật ngược nhưng dai dẳng từ ngoài cửa sổ: “Himiko! Himiko!”.
Tiếng kêu
lần đầu vẫn có giọng của một thanh niên. Lần thứ hai Điểu mở mắt, anh nghe
tiếng của một gã trung niên. Anh ra khỏi giường, kéo màn cửa ngay chỗ mà Himiko
đã kéo để nhìn anh và anh nhìn xuống người khách trong đêm. Trong ánh trăng
nhợt nhạt, Điểu thấy một anh chàng quí phái nhỏ con mặc áo lễ phục bằng vải
lanh trông qua chật như thể chiếc áo đã rút lại. Cái đầu tròn như quả trứng nhô
lên cửa sổ, anh chàng nhỏ con gọi tên Himiko bằng một giọng phiền muộn, nghe có
vẻ như là một phức hợp của sự ngượng nghịu và hơi chán ngán. Điểu thả màn và
bước vào phòng bên cạnh để lấy chai rượu. Anh nốc một ngụm hết chỗ rượu còn
lại, đi mất hút vào giường của người tình va rơi ngay vào giấc ngủ.
5
Tiếng kêu ai
oán cứ xâm nhập vào giấc ngủ của Điểu cho tới khi anh miễn cưỡng thức giấc.
Thoạt tiên anh nghĩ rằng chính mình đang rên rỉ, kỳ thực, khi anh mở mắt ra thì
vô số lũ yêu tinh đang sinh sôi nảy nở trong bụng anh, bắn những mũi tên như
kim xuyên vào ruột anh, buộc anh phải thốt lên những tiếng kêu rên. Nhưng giờ
đây anh lại nghe tiếng rên rỉ không phải thoát ra từ miệng mình. Điểu thận
trong cất đầu dậy mà không thay đổi tư thế, nhìn xuống cạnh giường. Himiko đang
ngủ trên sàn nhà, chen giữa chiếc giường và cái tivi. Nàng đang rên hừ hự như
một con dã thú, những tiếng rên đến từ trong mơ. Dấu hiệu của sự sợ hãi.
Xuyên qua
màn không khí lờ mờ trong căn phòng. Điểu nhìn thấy khuôn mặt trẻ, tròn trịa,
tái xanh của Himiko hằn vẻ đau đớn, mệt mỏi. Tấm chăn tuột xuống ngang hông
nàng, Điểu chăm chăm nhìn bộ ngực và hai bên sườn nàng. Cặp vú của nàng có hình
thù cân đối nhưng lại thong xuống một cách thiếu tự nhiên về hai phía ngược
nhau. Vùng da thịt giữa đôi vú khoáng đạt, bằng phẳng và có một cái gì đó hơi
phớt lạnh, Điểu cảm thấy thân quen với bộ ngực chưa chin muồi này. Đêm đông ấy
đáng lẽ Điểu đã nhìn thấy nó trong trại gỗ. Nhưng hai bên sườn Himiko và cái
bụng phệ của nàng che khuất gần hết dưới tấm chăn, đã không gợi lên được nỗi
luyến tiếc quá khứ. Ở đó, gợi lên lớp mỡ mà tuổi tác bắt đầu hằn lên than thể
nàng. Và cái dấu vết nhũn nhão ấy là một phần cuộc sống mới của Himiko, chẳng
can dự gì đến Điểu. Những lớp mỡ dưới làn da của nàng có lẽ lan nhanh như một
ngọn lửa, làm thay đổi hoàn toàn đường nét trên cơ thể nàng. Cả hai bầu vú của
nàng rồi cũng sẽ mất đi vẻ thanh xuân tươi mát vẫn có.
Himiko lại
rên rỉ và cặp mắt chớp chớp của nàng mở ra như thể nàng bị giật mình, Điểu vờ
ngủ. Một phút sau anh mở mắt ra thì Himiko đã rơi vào giấc ngủ lại rồi. Giờ đây
nàng nằm im như một bà mẹ, cuộn tấm chăn lên tận cổ, chìm trong giấc ngủ yên
lặng ngây ngô của loài giun dế. Nàng đã đạt được sự thỏa thuận với lũ yêu quái
trong giấc mơ. Điểu thanh thản nhắm mắt lại và quay về với cái bao tử đầy đe
dọa của mình. Bỗng nhiên cái bao tử của anh phồng lên cho đến khi nó lấp kín cơ
thể và choán hết thế giới ý thức của anh. Anh cố tập trung tư tưởng Himiko quay
về khi nào? Không biết đứa bé đã được mang lên bàn mổ với cái đầu quấn băng như
Apollinaire chưa? Liệu hôm nay anh có lên lớp mà không gặp bao tử đẩy lùi từng
bước, Điểu biết anh sẽ nôn ra bất cứ lúc nào và nỗi sợ đó làm da mặt anh lạnh
toát.
Nàng sẽ nghĩ
gì về tôi nếu tôi nôn bẩn chiếc giường này? Khi sinh lực tôi dồi dào mặc dù
say, tôi đã lấy đi trinh tiết của nàng giữa trời đông giá, chẳng khác nào một
cuộc cưỡng hiếp, và tôi cũng không hề nhận ra mình đang làm gì! Rồi nhiều năm
sau đó, khi tôi ngủ lại đêm trong phòng nàng, tôi lại say be bét để rồi khi
thức dậy sẵn sàng, nôn thốc nôn tháo. Làm sao anh có thể đê tiện đến thế! Điểu
chợt ợ lên hàng chục cái nồng nặc mùi hôi và ngồi dậy ngay trên giường, rên rỉ
với cơn đau trong đầu. Anh khó khăn bước ra khỏi giường nhưng cuối cùng cũng
đến được phòng tắm.
Khi Điểu
đóng cánh cửa gương xộc xệch lại và nhận ra mình cô lập trong phòng tắm, anh
cảm nhận mình có thể hưởng được niềm vui bất ngờ, anh tha hồ nôn mửa mà không
bị Himiko bắt gặp. Giá mà anh có thể nôn ra một cách thỏa thích như đứa bé nôn
sữa mẹ…
Điểu quì
gối, tì khủy tay lên bồn vệ sinh hiện đại, cúi đầu xuống với thái độ của một
con chiên ngoan đạo và chờ cho áp lực trong bao tử bùng nổ. Khuôn mặt vừa mới
hoàn toàn giá lạnh của anh, giờ đây lại đỏ ửng lên với hơi nóng bất thường, rồi
đột ngột tê cóng lại. Từ thế nhìn xuống của mình, Điểu thấy bồn vệ sinh trông
giống như cái cổ họng màu trắng, rộng lớn, càng giống hơn nữa khi đáy bồn nhô
lên lớp nước sạch.
Đợt nôn ọe
đầu tiên ào đến, Điểu ho rũ rượi, cổ anh khô quánh lại, bụng phập phồng. Nước
mắt nước mũi chảy tràn lên những miếng thức ăn bị anh nôn ra còn dính chặt ở
môi trên, Điểu lại yếu ớt nôn ra hết những thứ còn sót lại trong ruột. Đầu óc
anh quay mòng mòng, Điểu đứng thẳng người lên như một anh thợ hàn vừa hoàn
thành nhiệm vụ, anh dung giấy vệ sinh chùi mặt và hỉ mũi thật mạnh. Anh thở hắt
ra. Nhưng chưa phải đã xong, cứ mỗi lần quặn bụng, anh lại phải nôn ít nhất là hai lần. Luôn luôn như vậy. Và anh
muốn nôn ra được lần thứ hai cho nhẹ bụng, anh phải dung ngón tay móc họng,
Điểu lại thở dài âu lo, cúi thấp đầu xuống, mặt bên trong bồn cầu giờ đây nhớp
nhúa, trông thật thảm hại, Điểu nhắm mắt lại với vẻ kinh tởm cực độ, đưa tay sờ
soạng trên đầu mình, tìm dây kéo nước. Dòng nước ào xuống như lũ phả hơi mát
lạnh cuốn qua đầu Điểu. Khi mở mắt ra, anh thấy cái cổ họng trắng toát kia lại
há ra nhìn anh như trước, Điểu thọc ngón tay vào cổ họng tì tiện đỏ ửng của
mình để bắt nó phải nôn. Tiếng rên rỉ và những giọt nước mắt vô nghĩa, những
tia chớp quay cuồng trong đầu, dòng nước mũi long thong cứ tuôn ra. Xong xuôi,
anh vừa chùi miệng vừa chùi những ngón tay bẩn và hai gò má lem luốc nước mắt
rồi lại sụp xuống bồn cầu. Có phải tất cả điều này ít nhất mang ý nghĩa đền bù
một phần cho nỗi đau đớn của đứa bé? Điểu tự hỏi nhưng rồi lại đỏ mặt lên vì
thái độ vô liêm sỉ của mình.
Tôi không
thể tự cho mình khuây khỏa với sự đền bù giả tạo này, dù là một mảy may trong
trí, Điểu tự khuyên mình như một nhà đạo đức chân chính. Dầu sao sau khi nôn
được, người nhẹ nhõm và bụng êm, dẫu không kéo dài, cũng giúp cho Điểu thấy dễ
chịu chút ít kể từ lúc anh mở mắt ra. Hôm nay anh phải lên lớp, và còn những
thủ tục phải hoàn tất ở bệnh viện cho đứa con mà có thể giờ này đã chết rồi!
Điểu phải lien hệ với mẹ vợ để biết về cái chết của đứa con và phải bàn với bà
chuyện báo tin cho vợ anh. Thật là một thời gian biểu khủng khiếp. Và tôi ở lại
đây, trong phòng tắm của người tình, gục đầu vào cái bồn vệ sinh trong tình
trạng mê mụ với tất cả sức mạnh bị nôn hết ra ngoài. Thật trái khoáy, Điểu
không còn sợ sệt gì nữa, thực tế, những giờ khắc bất lực và hoàn toàn vô trách
nhiệm đã tạo cho anh hương vị ngọt ngào của sự tự cứu rỗi. Điểu ngã quỵ xuống
sàn nhà, chỉ òn biết đến nổi nhức nhối
trong mũi và cổ họng, trông anh cũng chẳng khác gì đứa bé đang đứng trên bờ vực
của cái chết. Thái độ khác biệt duy nhất là tôi không gào toáng lên như đứa bé.
Nhưng không phải vì thế mà hành vi của tôi tránh được bội phần ô nhục hơn…
Giá như có
thể được, Điểu đã lao mình vào bồn vệ sinh khi anh kéo dây giội nước cho sạch
cầu và để cho going nước gầm réo cuốn trôi vào cống rãnh tăm tối như địa ngục.
Nhưng thay vì làm vậy, anh lại khạc ra một lần nữa, rồi miễn cưỡng rời khỏi bồn
vệ sinh và mở cánh cửa gương. Lúc bấy giờ, có phần nào anh quên mất Himiko,
nhưng ngay khi đặt bàn chân trần vào phòng ngủ, anh biết nàng đã tỉnh giấc và
đã tưởng tượng ra tấm thảm kịch nhỏ trong phòng vệ sinh cùng với sự im lặng
khác thường để theo dõi anh. Người bạn tình vẫn còn nằm trên sàn nhà, nhưng
xuyên qua luồng ánh sáng mỏng manh từ khe hở của những tấm màn cửa sổ. Điểu dò
dẫm đi từ góc này sang góc khác và nhìn thấy đôi mắt nàng mở to. Anh không còn
cách lựa chọn nào khác hơn là lò dò quanh chân nàng giống như một chú chuột để
đến chỗ anh để quần áo ở chân giường. Trong lúc ấy, Himiko có thể là đang mở
rộng đôi mắt như ống kính máy quay phim để chăm chăm nhìn cái bụng mềm nhũn và
cặp đùi gân guốc của anh.
“Em có nghe
anh nôn như một con chó trong phòng vệ sinh không?” Điểu ngượng ngùng hỏi.
“Như một con
chó ư? Chẳng có giống chó nào lại rống khủng khiếp như thế”. Giọng Himiko vẫn
còn ngái ngủ. Đôi mắt nàng mở to, chăm chú nhìn Điểu dò xét.
“Đây là giống cho St. Bernard to con như bò”. Điểu chán ngán
nói.
“Nghe có vẻ tồi tệ nhỉ. Anh thấy khỏe chưa?”.
“Giờ thì khỏe rồi”. Điểu loạng choạng bước về phía giường,
giẫm phải chân Himiko mạnh đến nỗi nàng hét toáng lên, cuối cùng anh cũng với
được chiếc quần dài. “Nhưng thế nào sáng nay anh cũng đờ đẫn trở lại, thường là
như thế. Lâu rồi anh không uống và cái dư vị sau cơn say đã biến mất, vì vậy
đây có thể là lần tồi tệ nhất trong đời anh. Bây giờ nghĩ đến nó, nah muốn uống
một ly để giải nghể”. Điểu cố pha trò bằng cách lên giọng than van, nhưng lại
kết thúc câu nói với nét mặt đăm chiêu, cay đắng.
“Sao anh không thử lại xem?”.
“Anh không thể say sưa trong ngày hôm nay”.
“Nước chanh sẽ giúp anh tỉnh táo lại đấy, có vài trái chanh
trong bếp”.
Điểu ngoan ngoãn nhìn vào bếp. Nhờ ánh đèn từ trường Flemish rọi qua ô cửa kính mờ, Điểu
thấy trong cái rổ có một mớ chanh non khiến cái bao tử yếu đuối của anh cồn cào
ngay lập tức.
“Em vẫn thường mua nhiều chanh như thế này ư?”.
“Cái đó còn tùy”, Himiko trả lời bằng một thái độ hờ hửng đáng
kinh sợ, như thể nàng đang cô gây ấn tượng khó chịu lên câu hỏi của Điểu. Điểu
liến láu trở lại: “Em về lúc nào vậy? Có lái xe chạy long nhong cho tới rạng
sang không?” Thay vì trả lời, Himiko chỉ chòng chọc nhìn anh một cách chế nhạo,
vì thế Điểu phải vội vàng nói thêm như cốt để báo cáo: “Lúc nửa đêm có hai
người bạn em đến đây. Một người có vẻ
trai tơ còn người kia là một vị trung niên có cái đầu tròn như quả trứng. Anh
đứng sau bức màn cửa nhìn gã nhưng không chào”.
“Chào ư? Dĩ nhiên anh không cần phải làm như thế.”Himhiko
vẫn nằm yên như chết và nói. Điểu lấy chiếc đồng hồ đeo tay trong túi chiếc áo
khoác ra xem giờ- chin giờ sáng rồi. Buổi lên lớp của anh bắt đầu vào lúc 10
giờ. Anh thầy nào đủ dũng cảm nằm nhà mà không báo cho văn phòng biết hoặc đi
dạy trễ thì anh quả là một đấng trượng phu. Điểu thì không dũng cảm đến thế và
cũng không quá thiếu khôn ngoan. Anh thắt cà vạt bằng xúc giác.
“Em đã ngủ với cả hai vài lần và họ nghĩ chính điều đó cho
phép họ được quyền đến đây vào lúc nửa đêm. Tên trai tơ là một loại người đồng
bóng. Đặc biệt hắn ta không quan tâm đến việc hai chúng ta ngủ chung với nhau.
Ước mơ của hắn là lai vãng quanh đây khi em ngủ với người khác để khi có chuyện
gì thì hắn ra tay giúp đỡ. Hắn luôn luôn chờ cho đến khi một ai đó có mặt trong
phòng này với em thì hắn tạt và, cho dù là hắn ghen một cách điên cuồng!”
“Thế em có cho hắn một cơ hội nào chưa?”
“Chắc chắn là không rồi!” Himiko búng ngón tay. “Anh chàng
trai tơ ấy thích làm một việc gì đó cho những người lớn tuổi như anh. Nếu có
dịp hai người gặp nhau, hắn sẽ làm tất cả những gì để anh vui lòng. Anh Điểu,
em dám cá là nhiều lần anh đã được người khác phục vụ như thế. Chả phải là anh
đã có nhiều sinh viên đàn em tôn thờ anh ư? Và hẳn là phải có nhiều học sinh
hết lòng hết dạ phục vụ anh? Em luôn nghĩ đến anh như một mẫu người hùng đối
với bọn trẻ con có văn hóa kém hơn.”
Điểu lắc đầu phủ nhận điều đó và đi vào bếp. Khi gót chân
chân trần của anh chạm vào sàn gỗ lạnh ngắt,anh nhận ra mình không mang bít
tất, mà đó chẳng phải là việc không hệ trọng! Nếu anh phải thót bụng lại để cúi
người tìm bít tất, có thể anh lại nôn ra, Điểu rúm người sợ hãi. Nhưng cái cảm
giác giẫm chân trần lên sàn nhà lại hay, cả việc dùng những ngón tay ướt bóp
quả chanh trong khi dòng nước từ chiếc vòi chảy dồn lên hai tay anh cũng là
điều thú vị nốt. Điểu chọn một quả chanh lớn, cắt làm đôi và vắt nước vào
miệng. Một cảm giác hồi phục mà anh nhớ rất rõ đã rơi từng tiếng boong boong,
lạnh lẽo cùng với những giọt nước chanh từ cổ chui xuống cái bụng bị hành hạ
của anh, Điểu quay lại phòng ngủ tìm đôi bít tất, cẩn thận giữ cho người đứng
vững.
“Nước chanh thật là hiệu nghiệm”, anh nói với Himiko với vẻ
biết ơn.
“Có thể là anh còn nôn lại, nhưng lần này có mùi chanh sẽ dễ
chịu hơn”.
“Cám ơn em đã động viên anh”. Điểu cảm thấy hài lòng khi
biết những giọt nước chanh càng ngấm vào người anh càng khoan khoái.
“Anh đang tìm gì thế? Trông anh giống như con gà mắc tóc”.
“Đôi bít tất của anh”. Điểu thì thì thào, chính cái chân
trần khiến anh trông thật buồn cười.
“Trong giày anh đấy, như vậy khi đi về anh có thể mang cả vớ
lẫn giày”.
Điểu nhìn Himiko đang cuộn chăn nằm trên sàn nhà và ngờ rằng
đấy là một thói quen bất cứ khi nào một trong những tình nhân của nàng chon xác
trong giường. Có thể nàng đề phòng chuyện những người bạn của nàng chuồn ra
khỏi nhà với đôi chân trần, giày xách
trên tay nếu có một gã nhân tình to con và hung dữ hơn xuất hiện.
“Tốt hơn anh nên đi”, Điểu nói “Sáng nay anh có hai lớp. Cám
ơn em về buổi tối hôm qua và sang nay”.
“Anh trở lại không? Anh Điểu, có thể là chúng ta cần nhau
đấy”.
Điểu sững người như bất ngờ nghe một người câm lên tiếng
khóc than. Himiko nheo mắt nhíu mày nhìn anh.
“Có lẽ em nói đúng. Có lẽ chúng ta cần nhau”.
Giống như nhà thám hiểm đi xe điện băng qua vùng đầm lầy.
Anh tìm đường loạng choạng bước qua mớ hỗn độn trong phòng khách đầy bong tối.
Khi ra đến phòng ngoài, anh vội vã mang vớ, xỏ giày,sợ nôn trở lại.
“Tạm biệt”, Điểu nói vọng vào. “Ngủ ngon nhé!” Himiko vẫn
câm như hến.
Điểu bước ra ngoài. Buổi sáng mùa hè nắng gắt. Khi Điểu đi
ngang qua chiếc MG đỏ, anh để ý thấy chìa khóa xe còn nằm trong công tắc. Trong
những dịp như thế này, một tên trộm có thể cuỗm mất chiếc xe mà không gặp mảy
may rắc rối nào. Ý nghĩ đó làm anh buồn, Himiko! Làm sao một cô nữ sinh viên
đại học sắc sảo, cẩn thận, siêng năng như thế lại trở thành một con người sơ
sót như thế này? Người con gái đã kết hôn chỉ để cho chồng mình phải tự sát, và
giờ đây, sau sự phấn chấn được lao xe đi trong đêm tối, nàng đã gặp những giấc
mơ khiến cho nàng phải rên rỉ vì sợ hãi.
Điểu định lấy chìa khóa ra khỏi công tắc. Nhưng nếu anh quay
lại chỗ cô bạn mình nằm im lặng trong bóng tối với đôi mắt nhắm nghiền, thì khó
mà kìm long cất bước quay lui. Điểu để mặc chiếc chìa khóa ở đó, anh nhìn
quanh, tự trấn an là chẳng có tên đạo chích nào ẩn náu quanh đây, ít ra là ngay
lúc này. Trên nền đất, bên cạnh bánh xe có một mẩy xì gà. Hẳn là của anh chàng
nhỏ con có cái đầu quả trứng đã vứt nó ở đây vào tối hôm qua. Chắc là có nhiều
người tìm Himiko trong một ý nghĩa than thiện hơn cả Điểu.
Điểu lắc mạnh đầu, thở vài hơi thật sâu, cố chống lại cảm
giác buồn nản đầy đe dọa. Như anh không thể nào thoát khỏi cái cảm giác đau đớn
như bị ăn phải dùi cui, anh cúi đầu bước ra khỏi con đường nhỏ lấp lánh ánh
sang.
Dù gì chăng nữa, Điểu vẫn khéo kiềm chế để giữ mình vững
vàng trên đường đến trường. Anh đã trải qua một chặng đường, sân ga rồi tàu
hỏa. Tệ hại nhất là trên tàu hỏa, may mà anh còn sống sau khi nếm mùi tàu lắc
lư và mùi hôi của những người xung quanh mặc dù cổ họng anh khô rốc. Trên xe,
trong tất cả số hành khách, chỉ có Điểu là chảy mồ hôi, dường như tất cả sức
nóng của mùa hè chỉ vây bọc có mỗi mình anh. Kẻ nào chạm vào người anh cũng
quay lại nhìn một cách xét nét. Điểu chỉ còn biết co rúm người lại, giống như
một con heo ních đầy bụng chanh, bốc lên toàn mùi chua. Anh đưa cặp mắt nhìn
dọc theo xe, tìm sẵn một chỗ có thể lao đến ngay khi cần nôn mửa.
Cuối cùng khi đến được cổng trường mà không bị đau bụng,
Điểu giống như một người lính già kiệt sức sau một cuộc tháo chạy khỏi chiến
trường. Nhưng điều tồi tệ nhất vẫn chưa đến. Kẻ thù đã bao vây và nằm chờ phía
trước.
Điểu lôi từ trong tủ ra tập văn tuyển và hộp phấn.Anh liếc
nhìn cuốn tự điển Consise Oxford trên đầu kệ, nhưng hôm nay dường như nó có vẻ
quá nặng để mang đến lớp. Trong lớp anh lại có nhiều sinh viên có kiến thức về
thành ngữ và luật văn phạm còn vượt xa hơn cả anh. Nếu gặp một từ mới hoặc một
câu văn khó, anh chỉ cần gọi một người trong bọn họ lên. Cái đầu bọn sinh viên
của Điểu nhồi nhét quá nhiều kiến thức phức tạp như một món tạp-pí-lù, do đó
lúc họ lĩnh hội một vấn đề tổng thể, họ thường làm cho vấn đề trở nên rối rắm
và bị sa lầy. Việc của Điểu là tổng hợp và tóm được toàn đoạn văn. Vì vậy trong
đầu Điểu thường ngờ vực không biết giờ lên lớp của anh có ích gì cho kỳ thi vào
đại của họ hay không.
Hy vọng tránh được ông trưởng khoa, một người tốt nghiệp đại
học Michigan có gương mặt dễ nhìn và đôi mắt nghiêm nghị, một người đáng mặt là
tinh hoa của đám sinh viên ngoại quốc, Điểu bước ra ngoài qua cửa sau, tránh đi
thang máy trong phòng giáo viên và bước lên cầu thang xoắn ốc dính sát vào bức
tường bên ngoài. Không dám nhìn xuống cảnh tượng đang dần dần cuộn lại dưới
chân, anh chịu đựng sự đong đưa của chiếc cầu thang giống như con tàu đang rẽ
sóng vì những bước chân thình thịch của bọn học sinh chạy vượt qua mặt anh. Như
một người say sóng, trông anh xanh xao, bước chân trĩu nặng, hơi thở dồn dập,
Điểu lừ đừ leo lên cầu thang khiến bọn học sinh vượt qua mặt anh phải dừng lại
một lúc, nhìn anh chăm chăm, ngập ngừng, rồi lại lao lên khiến cho cầu thang
sắt rung lên bần bật. Điểu thở dài, đầu anh choáng váng, anh bám chặt vào tay
sắt vịn…
Đến được đầu cầu thang anh thấy nhẹ người hẳn! Có ai đó gọi
tên anh, Điểu khó chịu quay lại. Đó là người bạn đang giúp bảo trợ một nhóm
nghiên cứu ngôn ngữ Slave do Điểu và một vài thông dịch viên khác thành lập.
Nhưng từ khi người anh rã rời vì dư vị của hơi men, việc gặp một kẻ mà anh
không mong đợi trở thành mối phiền toái kinh khủng. Anh khép mình như một con
rùa rụt đầu và tứ chi vào mai để tự vệ trước sự tấn công.
“Chào Điểu!’ Người bạn lên tiếng: đối với bạn bè, cái tên
tục vẫn có giá trị trong bất kỳ hoàn cảnh nào. “Tôi điện thoại cho anh từ tối
qua nhưng không gặp. Vì thế, tôi nghĩ mình phải đến…”
“Có chuyện gì vậy?” Điểu hỏi, không mấy niềm nở.
“Anh đã nghe tin về ông Delchel chưa?”
“Tin gì?” Điểu hỏi lại, mơ hồ cảm thấy e ngại. ông Delchef
là tùy viên công sứ của một nước cộng hòa xã hội nhỏ miền Balkan và là trợ giáo của nhóm nghiên cứu.
“Cụ thể là ông ta đã ở với một cô gái Nhật và không trở lại
tòa công sứ. Họ nói đã một tuần nay rồi. Tòa công sứ muốn giữ kín nội bộ và tìm
ông Delchef về, nhưng họ chỉ mới đến đây một thời gian ngắn và lại thiếu người.
Cô gái sống trong khu ổ chuột tồi tàn nhất ở Shinjuku, vào đó giống như vào một
bát quái trận đồ, và chẳng có ai trong tòa công sứ rành đường sá đủ để đi tìm
người lạc trong đó. Chúng ta sẽ đến đó: tòa công sứ yêu cầu nhóm nghiên cứu
giúp đỡ. Dĩ nhiên là chúng ta phải giúp, dù sao chúng ta cũng chịu một phần
trách nhiệm cho tất cả những gì đã xảy ra…”.
“Trách nhiệm à?”.
“Ông Delchef gặp ả ở quán rượu mà chúng ta đưa tới sau buổi
họp, quán Pullman Car ấy mà”. Anh bạn của Điểu khúc khích cười. “Anh còn nhớ cô
nàng nhỏ con, kỳ lạ, mặt trát đầy phấn không?”.
Điểu nhớ ra cô gái ngay, một cô gái nhỏ con, kỳ lạ, mặt trát
đầy phấn. “Nhưng cô ả không nói được tiếng. Anh hay bất kỳ thứ ngôn ngữ Slave
nào, mà tiếng Nhật của ông Delchef thì cũng chẳng hơn gì, làm sao họ sống với
nhau được?”.
“Chỉ có trời biết. Thế anh nghĩ cả tuần họ câm như hến chắc
và chẳng làm gì chắc?” Anh bạn của Điểu lúng túng nói bong gió.
“Điểu gì sẽ xảy ra nếu ông Delchef không trở về tòa công sứ.
Ông ta sẽ trở thành kẻ đào nhiệm hay gì khác?”
“Anh có thể
cá như thế!”.
“Thật sự ông
ta đang gây rắc rối, ông Delchef…”Điểu cau có nói.
“Tôi định
triệu tập một buổi họp nhóm nghiên cứu để bàn về chuyện này. Tối nay anh có
rảnh không?”.
“Tối nay à?”
Điểu bối rối. “Tôi… tôi… tôi không thể họp tối nay được”.
“Nhưng anh
gần gũi ông Delchef hơn tất cả chúng tôi. Nếu chúng tôi quyết định gởi một phái
viên trong nhóm nghiên cứu đi, chúng tôi hy vọng nh đồng ý đi…”.
“Phái viên
à… Dù sao tôi cũng không thể làm được tối nay”. Điểu nói. Rồi anh tự buộc mình
nói thêm: “Chúng tôi mới có con, nhưng có điều không ổn. Đứa bé có thể đã chết
hoặc đang chết cũng nên”.
“Trời!” Anh
bạn của Điểu kêu lên, co rúm người lại. Trên đầu họ chuông bắt đầu reo.
“Thật là
khủng khiếp, khủng khiếp quá. Anh nghe đây, vậy thì tối nay chúng tôi sẽ lo
liệu mà không có anh. Anh cố giữ gìn sức khỏe nhé! Còn chị ấy có khỏe không?”.
“Khỏe,cám ơn
anh”.
“Khi nào
chúng tôi quyết định phải làm gì về chuyện ông Delchef, tôi sẽ liên hệ với anh.
Trời ơi, anh có vẻ suy sụp đấy – hãy bảo trọng nhé!”.
“Cám ơn”.
Điểu nhìn
theo anh bạn hối hả xuống cầu thang như đang tháo chạy, đâm ra giận chính mình
vì giữ kín chuyện váng vất sau cơn say, Điểu bước vào lớp. Trong nháy mắt, anh
đối đầu với một trăm bộ mặt có cái đầu tỉnh táo. Anh hạ ánh mắt đăm chiêu của
mình xuống như thể đang suy tư, sau đó lại ngẩng đầu lên và nhìn vào đám học
trò. Cầm lấy tập văn tuyển và hộp phấn ngang ngực giống như thứ vũ khí tự vệ,
anh bước tới bục giảng.
Giờ học!
Điểu mở tập văn tuyển ngay đoạn đã giảng xong tuần trước mà chẳng có khái niệm
gì về nó cả. Anh đọc lớn và nhận ran gay đó là một đoạn văn của Hemingway. Tập
văn tuyển này là một tập hợp lớn những đoạn văn ngắn của văn học Mỹ hiện đại,
được vị trưởng khoa chọn vì ngẫu nhiên ông ta thích chúng và cũng vì những đoạn
văn được khai thác bởi nhiều cái bẫy về văn phạm. Hemingway à! Điểu phấn chấn hẳn lên.
Anh thích Hemingway, đặc biệt là cuốn The Green Hills of Africa.
Đoạn văn từ tập văn tuyền này lấy từ tiểu thuyết The Sun Also Rises, đoạn gần
cuối, khi nhân vật chính bơi trong đại dương. Người kể chuyện bơi qua những con
song lớn, trồi lên hụp xuống, và khi anh ta bơi ra đến ngoài khơi, nơi sóng yên
biển lặng, anh ta nằm ngửa người nhìn bầu trời và có cảm giác dưới lưng mình gò
đống ngổn ngang…
Tận cùng cơ thể, Điểu cảm thấy manh nha một cơn khủng hoảng
gì đó và không thể kiềm chế được. Cổ họng anh khô khốc, lưỡi sưng phồng trong
miệng như của ai khác. Anh chìm ngập trong nỗi sợ hãi. Nhưng anh vẫn tiếp tục
đọc to, mắt liếc nhìn cánh cửa lớn giống như con chồn đau ốm ranh ma và yếu
đuối. Liệu anh có thể chạy kịp ra hướng đó để nôn đúng lúc không? Nhưng nếu
vượt được qua cơn nôn thì tốt hơn nhiều. Mong rằng cái bụng không làm cho cái
đầu phải nghĩ ngợi về nó, Điểu cố đặt đoạn văn anh đang đọc vào trong một ngữ
cảnh. Nhân vật chính nằm đâu đó trên bãi biển và rối bước vào một cuộc bơi
khác. Khi chàng quay về khách sạn thì nhận được một bức điện của người yêu – đã
chạy theo anh chàng đấu bò trẻ tuổi- mà chàng đang mong đợi, Điểu cố nhớ nội
dung bức điện: ANH CÓ THẾ ĐẾN KHÁCH SẠN MONTANA
Ở MADRID KHÔNG? EM ĐANG GẶP RẮC RỐI. BRETT.
Vâng, bức điện đó nghe ra có lý. Và anh nhớ lại nó một cách
dễ dàng. Đó là một điềm lành, vì trong tất cả những bức điện mà anh đã đọc, bức
điện này thống thiết nhất. Tôi sẽ vượt qua cơn buồn nôn – một lời cầu nguyên
hơn là một suy nghĩ, Điểu tiếp tục xây dựng lại ý nghĩ gián đoạn: nhân vật
chính lặn sâu vào long biển với đôi mắt mở to và trông thấy một cái gì đó màu
xanh đang rĩ ra theo đáy biển. Nếu nó nôn ra ở đoạn văn này, tôi sẽ kiềm nó
lại.Đó là một câu thần chú. Điểu tiếp tục: “Tôi” bước lên bờ, quay về khách sạn
và nhặt bức điện của anh ta. Lúc ấy Điểu nhớ lại bức điện: ANH CÓ THỂ ĐẾN KHÁCH
SẠN MONTANA Ở
MADRID KHÔNG? EM ĐANG GẶP RẮC RỐI. BRETT.
Nhưng nhân vật chính đã rời bãi biển, chẳng nói lấy một lời
về chuyện bơi dưới nước với đôi mắt mở to. Điểu ngạc nhiên, phải chăng anh đang
nghĩ về một quyển tiểu thuyết khác của Hemingway? Hay một cảnh trong tác phẩm
của một tác giả khác? Sự nghi ngờ khiến câu thần chú mất linh nghiệm và Điểu
lạc giọng. Một mớ bầy nhầy trào lên cổ họng anh, lưỡi anh phồng lên cho tới lúc
nó muốn bật ra khỏi miệng. Đối diện với hàng trăm cái đầu tỉnh táo, Điểu ngước
mắt lên cười. Sự lố bịch kéo dài năm giây, nỗi im lặng tuyệt vọng. Thế rồi Điểu
sụm xuông, mất ngón tay vươn ra như con chàng hiu cố bám lấy thân cây khi mắc
lụt, anh rên lên một tiếng và bắt đầu nôn. Điểu nôn như một con mèo mắc xương,
cổ vươn ra thẳng đuột. Ruột gan anh như đang bị vắt cho khô rốc: trông anh
giống như một con quỷ đói đang quằn quại dưới chân ông vua khổng lồ xứ Deva,
Điểu hy vọng ít nhất mình cũng đạt được chút khôi hài trong cách nôn mửa của
mình, nhưng thực tế thì nó chỉ là một trò cười. Có điều là khi cơn buồn nôn lên
tới miệng rồi lại dội ngược xuống cổ, anh đã cảm thấy toàn mùi chanh như Himiko
tiên đoán. Như những đóa hoa violet nở trong ngục tối, Điểu tự bong đùa để giữ
bình tĩnh. Nhưng những mưu mẹo tâm lý như thế tan biến ngay trên gương mặt
giống như ổ bánh mì gặp mưa đang ho rũ rượi. Điểu mở to miệng rên như sấm, cơ
thể anh cứng đờ. Một màn đen như hai miếng che mắt ngựa từ hai bên thái dương
của Điểu lớn dần, lớn dần, thu hẹp tầm nhìn của anh lại. Điểu ao ước được rơi
vào một nơi sâu hơn, âm u hơn và từ đó nhảy sang một thế giới khác.
Một giây sau, Điểu nhận ra mình còn trong thế giới hiện tại.
Những giọt nước mắt ướt hai bên mũi. Anh buồn rầu nhìn xuống vũng nước mà anh
nôn ra, một vũng nước màu đất đỏ nhợt nhạt, lác đác những bợn chanh màu vàng
tươi. Nếu từ trên chiếc máy baybay thấp, nhìn xuống Châu Phi vào thời điểm sau
vụ mùa, có lẽ người ta thấy cùng một thứ màu sắc như thế trên những vùng đồng
bằng: ẩn nấp dưới những bợn chanh kia là hà mã, thú ăn kiến và những con dê núi
hoang dã. Buột chặt dù, chắc tay súng, bước ra ngoài và lao xuống nhanh như con
chim bói cá.
Cơn buồn nôn đã giảm. Điểu đưa bàn tay xám xịt, nhớp nhúa
chùi miệng rồi đứng lên.
“Vì những chuyện ngoài ý muốn, hôm nay tôi cho lớp nghỉ
sớm”. Anh nói trong hơi thở hổn hển như người sắp chết. Cả lớp dường như hiểu
được tình thế. Điểu quay người nhặt tập văn tuyển và hộp phấn. Bất ngờ, một
trong những cái đầu tỉnh táo kia nhảy lên và la lớn. Đôi môi hồng của cậu run
lên và gương mặt nông dân tròn trịa, nhu nhược đỏ bừng bừng. Nhưng vì nghẹn
họng, phải nói lắp nên chẳng ai hiểu cậu nói gì. Dần dần mọi điều trở nên rõ
ràng. Ngay từ đầu, cậu ta đã phê bình thái độ của Điểu là không phù hợp với môt
giáo viên, nhưng đến khi cậu ta thấy phản ứng duy nhất của Điểu là bày tỏ một
sự bối rối, thì cậu ta lại hung hăng như con bọ xít. Cậu ta không ngừng to
tiếng về giá học phí cao, thời gian luyện thi ngắn, lòng tin của cậu đối với
trường, và bây giờ là tâm trạng giận dữ của họ khi lòng tin ấy đã bị phản bội.
Dần dần, khi tỉnh rượu, sự kinh ngạc của Điểu đã biến than nỗi sợ hãi và nó làm
anh nổ đôm đốm: anh cảm thấy mình biến thành một con khỉ độc nhãn sợ sệt. Không
bao lâu, sự căm phẫn của kẻ tấn công anh sẽ lây lan sang chín mươi chín cái đầu
tỉnh táo khác: Điểu sẽ bị bao vây bởi một trăm phản ứng dữ dội và không còn cơ
hội thoát than. Anh chợt nhận ra mình đã hiểu quá ít về những đứa học trò mà
mình từng dạy từ tuần này sang tuần khác. Một trăm kẻ địch mạnh mẽ khó lường đã
đẩy anh đến bước đường cùng, và anh nhận ra những cơn buồn nôn nối tiếp nhau
như song dốn đã xóa sạch sức lực của anh.
Sự khích động của kẻ buộc tội cứ tăng dần lên cho đến khi
hắn chực trào nước mắt. Nhưng dù có cố gắng Điểu cũng không thể nào trả lời cho
anh chàng đó được: Sauk hi nôn thốc nôn tháo, cổ họng anh cháy khô, đến một
giọt nước bọt cũng không còn. Anh cảm thấy điều lớn lao nhất mà anh có thể làm
được là thốt lên tiếng kêu lanh lảnh như chim. Ôi, anh rên rỉ không ra tiếng,
tôi phải làm gì đây? Thứ cạm bẫy đáng sợ này luôn luôn ẩn nắp trong cuộc đời
tôi, chờ cho tôi ngã xuống, Điểu này khác với cuộc khủng hoảng mà tôi ôm ấp làm
người thám hiểm châu Phi. Ngay như khi tôi rơi vào cái bẫy này, tôi cũng không
thể ngất đi hay chết tức tưởi được. Tôi chỉ có thể nhìn trăn trối vào tường
thành của cái bẫy suốt đời. Tôi là kẻ muốn gởi một bức điện: TÔI ĐANG GẶP RẮC
RỐI – nhưng gởi cho ai đây?
Lúc này, một cậu học sinh có cái nhìn thong minh đứng lên
khỏi chỗ ngồi giữa lớp và nói một cách bình tĩnh, chân thành: “Dẹp cái trò đó
đi tụi bay, đừng phàn nàn nữa!”.
Cơn giông tố mới bắt đầu bùng lên đã bất ngờ tan mất. Sự
khích động mua vui trào ra và cả lớp biến thành một trận cười. Đã đến lúc hành
động! Điểu bỏ quyển văn tuyển lên trên hộp phấn rồi bước ra cửa. Ra khỏi phòng,
anh lại nghe tiếng la hét và quay lại. Cậu học sinh vừa tấn công anh đang bắt
chước tư thế ngồi chống hai tay xuống đất như khi anh nôn và đang ngửi cái vũng
bầy nhầy của Điểu.Cậu ta la toáng lên: “Nghe toàn mùi rượu. Ma men còn bám lấy
thầy mà, chả ra cái giống gì cả! Tôi sẽ gặp thầy hiệu trưởng để cho thầy biết
tay!”.
Cho biết tay? Điểu tự hỏi và anh chợt hiểu ra – phải rồi, đó
là một lời thỉnh cầu thẳng thắn! Cậu học trò hớn hở đứng lên và nói vởi vẻ buồn
rầu gây cho cả lớp một trận cười “Đáng lẽ thầy không nên nốc những thứ này, nó
làm thầy nôn ra đấy”.
Thoát khỏi kẻ buộc tội mình, Điểu leo xuống cầu thang. Có
lẽ, đúng như Himiko nói, có một nhóm “ăng-ten” trẻ sẵn sang đá phăng cái chức
phụ giảng của anh khi anh vướng vào chuyện phiền toái. Anh mất hai ba phút để
leo xuống hết cầu thang. Dù cau có với cái mùi vị chua lè của những thứ nôn ra
còn vướng vất trên lưỡi hay sau cổ họng, trong ít phút ngắn ngủi đó, Điểu thật
sung sướng.
6
Điểu do dự đứng lại giữa ngã tư hành lang dẫn đến văn phòng
khoa nhi và khu chăm sóc đặc biệt. Một bệnh nhân trẻ ngồi trên chiếc xe lăn
chuệnh choạng tiến về phía anh, trừng mắt nhìn anh như muốn nói hãy tránh ra
cho anh ta đi qua. Trên hai chân anh là chiếc radio lớn và cổ lỗ sĩ. Đôi chân
này chẳng được thấy ở bất cứ nơi nào khác, Điểu lúng túng ép sát người vào
tường. Lại một lần nữa, anh chàng bệnh nhân nhìn Điểu bằng ánh mắt đe dọa, cứ
như anh là đại diện cánh đàn ông trút cả nỗi bất hạnh của cuộc đời lên đôi chân
anh ta, và rồi anh ta lăn xe phóng như bay trên hành lang. Nhìn chàng thanh
niên, Điểu thở dài, Điểu nghĩ con mình vẫn còn sống, anh bước thẳng đến khu
chăm sóc đặc biệt. Nhưng nếu đứa bé
chết, anh phải có mặt ở văn phòng khoa nhi để làm giấy tờ đồng ý mổ và thiêu
xác cháu. Đây là một ván bài. Điểu bắt đầu tiến đến văn phòng. Anh đã đặt tiền
cá cược vào cái chết của đứa bé, vì trong tận cùng tâm tưởng anh tin chắc con
mình đã chết. Lúc này, anh là kẻ thù đích thực của đứa bé, kẻ thù đầu tiên
trong cuộc đời của nó, kẻ thù xấu xa nhất, Điểu nghĩ, nếu cuộc sống vĩnh hằng
và nếu có một thượng đế phán xét, thì anh không thể giấu được tội lỗi của mình.
Nhưng tội lỗi của anh lúc này, giống như nỗi đau khổ đã dồn dập tấn công anh
trong xe cứu thương khi anh so sánh đứa bé với nhà thơ Apollinaire có cái đầu
quấn băng, trước tiên lại có vị ngọt ngào.
Điểu bước nhanh và tự tin, như thể đến chỗ hẹn với người
yêu. Anh nôn nóng đi tìm một lời thong báo về cái chết của đứa bé. Khi nhận
được những tin tức này, anh sẽ làm những thủ tục cần thiết (thu xếp cho việc mổ
tử thi thì dễ vì bệnh viện sẵn sàng hợp tác, còn việc thiêu xác có lẽ sẽ phiền
toái). Hôm nay, một mình tôi sẽ thương khóc đứa bé, ngày mai tôi sẽ cho vợ tôi
biết điều bất hạnh này. Đứa bé chết vì một vết thương trên đầu và bây giờ nó
trở thành mối dây liên kết máu thịt giữa chúng tôi – tôi sẽ nói đại khái như
thế. Chúng tôi sẽ thu xếp để ổn định lại cuộc sống gia đình. Và rồi, lại vượt
lên trên tất cả mọi chuyện, những điều không vừa long trước đó, những ước muốn
chưa thực hiện được, một châu Phi xa vời vợi…
Điểu nghiêng đầu, nhìn vào ô cửa phòng tiếp tân, giới thiệu
tên mình với cô y tá từ sau khung kính đang chăm chú nhìn lại anh, và giải
thích rằng con của anh được đưa đến đây vào ngày hôm qua.
“Ồ, anh muốn thăm đứa bé bị chứng thoát vị não phải không?”
Cô y tá nở nụ cười vui vẻ. Cô ta là một phụ nữ ở độ tuổi bốn mươi, quanh môi
lưa thưa vài sợi râu. “Anh cứ đến thẳng khu chăm sóc đặc biệt. Anh biết nó
chứ?”.
“Dạ, tôi biết”, Điểu trả lời bằng giọng khàn khàn, buồn tẻ,
“Thế có nghĩa là đứa bé vẫn còn sống sao?”.
“Dĩ nhiên là cháu còn sống! Cháu bú sữa rất tốt và tay chân
cháu rất khỏe mạnh. Xin chúc mừng anh!”
“Nhưng cháu bị thoát vị não mà”.
“Đúng rồi, chứng thoát vị não, “cô mỉm cười, không hề hay
biết về sự do dự của Điểu. “Cháu là con đầu lòng của anh phải không?”.
Điểu chỉ gật đầu, vội vàng lui bước xuống hành lang tiến về
khu chăm sóc đặc biệt. Như thể là anh đã mất tiền cá cược. Anh phải trả bao
nhiêu? Điểu lại gặp anh chàng bệnh nhân ngồi trên xe lăn ngay khúc ngoặt của
dãy hành lang, nhưng lần này anh đẩy xe chạy thẳng tới một mạch, không them để
ý đến anh ta và anh chàng tật nguyền phải cố tự điều khiển chiếc xe để tránh va
chạm. Ngoài cái nhìn đe dọa của chàng trai, Điểu chẳng biết gì về tai họa của anh
ta. Nếu anh ta có mất chân thì Điểu cũng không màn: lòng anh rỗng tuếch như một
nhà kho bỏ trống. Dư vị của cơn say vẫn còn ngâm nga bài ca độc hại ở ngay lõm
thượng vị và tận cùng sâu thẳm trong đầu anh. Hơi thở loạn xạ, nồng nặc mùi
rượu, Điểu bước vội xuống hành lang. Lối đi nối liền với mái hiên nhà chính và
khu điều trị cong vòng như một chiếc cầu treo khiến cho cảm giác mấy thăng bằng
của Điểu càng thêm tồi tệ. Dãy hành llang ngang qua khu điều trị, hai bên được
viền bởi những cánh cửa của phòng bệnh, giống như một đường hầm đen ngòm chạy
dài về phía ánh sáng lờ mờ, xa tít. Mặt xám nhợt màu tro, Điểu càng lúc càng
bước vội cho đến khi gần như chạy.
Cửa vào khu chăm sóc đặc biệt, trông giống như lối vào chiếc
máy đông lạnh, được che bằng một tấm thiếc. Điểu giới thiệu tên mình với người
y tá đứng bên trong cánh cửa như đang thì thào một điều gì đó thật đáng xấu hổ.
Anh lại cảm thấy ngượng nghịu với chính than xác của mình như ngày hôm qua, khi
lần đầu tiên biết được sự bất bình thường của đứa con. Cô y tá vồn vã đưa Điểu
vào trong. Trong khi cô đóng cửa, Điểu liếc nhìn vào cái gương soi mặt hình bầu
dục treo trên cột nhà ngay trong phòng và thấy những giọt mồ hôi nhờn lấp lánh
từ trán xuống mũi, đôi môi thí mấp máy theo hơi thở bồn chồn, đôi mắt vẩn đục
thì mất thần: đúng là khuôn mặt của một kẻ đồi trụy. Bị choáng váng vì nỗi kinh
tởm bất ngờ, Điểu nhanh mắt nhìn chỗ khác, nhưng khuôn mặt của anh đã khắc sâu
trong tâm khảm. Một linh cảm giống như lời hứa nghiêm trọng lướt qua cái đầu
nóng bỏng của anh: từ giờ phút này tôi sẽ luôn luôn đau khổ vì hình ảnh của
khuôn mặt này.
“Anh có thể cho tôi biết cháu nào là con anh?” Cô y tá đứng
bên cạnh Điểu lên tiếng như cô đang nói chuyện với cha của đứa bé xinh đẹp nhất
và mạnh nhất bệnh viện.Nhưng cô không cười, cô không để lộ một chút tình cảm
nào, Điểu cho rằng đây là một cuộc thi vấn đáp theo tiêu chuẩn của khu chăm sóc
đặc biệt. Không chỉ người y tá đã hỏi anh mà cả hai người y tá trẻ đang rửa
những bình sữa bên dưới lò đun nước nóng to đùng ở mảng tường phía xa, một cô y
tá lớn tuổi hơn đang đong sữa bột gần họ, một bác sĩ đang nghiên cứu những tấm
thẻ hồ sơ nơi chiếc bàn chật hẹp dựa vào bức tường đầy những tấm quảng cáo lộn
xộn và nhem nhuốc, một bác sĩ khác đứng cạnh ông này đang chuyện trò với một
người đàn ông vừa lùn, vừa mập có vẻ như là cha- giống như Điểu – của một trong
những hạt mầm tai ương đang tập trung ở đây – tất cả mọi người có mặt trong
phòng đều ngưng việc và im lặng quay nhìn Điểu như đang theo dõi.
Điểu đưa mắt nhìn về phía vách ngăn bằng kính trong căn
phòng rộng lớn để tránh những cặp mắt kia. Ý thức của anh về sự hiện diện của
những bác sĩ và y tá trong phòng chẳng mấy chốc biến mất. Giống như con gấu
trúc với đôi mắt khô khốc và hung dữ đang tìm con mồi yếu đuối trên đỉnh ụ gò
mối, Điểu quan sát những đứa bé nằm sau tấm kính.
Khu chăm sóc tràn ngập ánh sáng chói chang. Ở đây không còn
là đầu mùa hạ nữa mà chính lá mùa hạ: tia sang phản chiếu đang thiêu đốt vầng
trán của Điểu. Hai mươi chiếc giường trẻ con và năm cái lồng ấp đã bỏ những bộ
phận điện. Những đứa trẻ nằm trong lồng ấp chỉ hiện lên hình dáng lờ mờ như có một
lớp sương bao quanh chúng. Còn những đứa nằm trong giường thì trần truồng và lồ
lộ. Ánh sáng gay gắt độc hại đã làm
chúng khô héo, chúng giống như một đàn gia súc ngoan ngoãn nhất thế giới. Vài
đứa bé đang động đậy tay chân, nhưng ngay cả những đứa bé này, những tấm tã lót
và những chiếc áo ngủ bằng vải sợi của chúng trông cũng nặng như những bộ đồ
lặn bằng chì. Tất cả bọn chúng đều gây ấn tượng về những người bị xiềng xích.
Vài đứa bé bị buộc chặt cùm tay vào giường (cái cách để ngăn chúng khỏi làm xây
xát làm da mềm mại) hay mắt cá bị cột bằng sợi băng ga (cái cách để bảo vệ mũi
kim trong suốt thời gian truyền máu) và những đứa bé này trông càng giống những
tù nhân ốm yếu, nhỏ bé. Bọn chúng đều im lặng như tờ. Phải chăng tấm vách kính
ngăn tiếng ồn của chúng? Điểu tự hỏi. Không, giống như những con rùa đau khổ
không thèm ăn, tất cả chúng đều ngậm miệng, Điểu đưa mắt nhìn những cái đầu của
chúng. Anh đã quên mất khuôn mặt của con mình, nhưng con anh thì không thể nào
lẫn với những đứa khác được. Vị giám đốc bệnh viện đã mô tả, “Hình dạng ư? Hình
như là hai đầu! Có lần tôi nghe một bản nhạc của Wagner có tên là “Under the
Double Eagle” –“. Cái lão già dịch này quả là
một nhạc sĩ cổ điển.
Nhưng Điểu không thể tìm ra đứa bé có cái đầu như thế.Anh
cáu kỉnh lần lượt nhìn qua, nhìn lại các dãy giường. Đột nhiên, chẳng một tín
hiệu nào báo báo trước, những đứa bé đều mở miệng khóc ré lên như những chú bê
kêu be be và cựa quậy chân tay. Điểu nao núng. Sau đó anh quay lại chỗ cô y tá
như muốn hỏi “có chuyện gì thế?”. Nhưng cô y tá không chú ý đến những đứa bé
đang la khóc mà cũng chẳng chú ý đến ai khác trong phòng. Mọi người đang im
lặng, chăm chú nhìn Điểu và vẫn chơi trò đánh đố: “Anh đoán xem nào? Cháu nó
nằm trong lồng ấp. Giờ thì anh có biết cháu nằm trong lồng ấp nào không?”.
Một cách ngoan ngoãn, Điểu khụy chân xuống và nhìn vào cái
lồng ấp gần nhất như thể anh đang dán mắt vào một bể nuôi cá tối tăm đầy bùn
loãng và những sinh vật trôi nổi. Anh đã phát hiện ra một đứa bé nhỏ như một
chú gà bị vặt long với làn da nức nẻ, nhớp nhúa một cách kỳ quặc. Đứa bé trần
truồng, cái dương vật nhỏ như nhộng của nó được bọc kín bằng bao nhựa tẩm
ethelyn và lỗ rún được quấn băng ga. Giống như người tí hon trong những truyện
thần tiên bằng tranh, nó nhìn Điểu với vẻ thận trọng trên khuôn mặt như thể nó
cũng tham dự vào trò đánh đố của những cô y tá. Rõ ràng đứa bé không phải là
con của Điểu, nhưng cái nét già nua, điềm tĩnh và vô hại của nó đã gây cho Điểu
một cảm giác thân thuộc như với một người bạn vong niên, Điểu đứng lên, tránh
nhìn đôi mắt ướt lệ và hồn nhiên của đứa bé, rồi cương quyết quay lại nhìn
những người y tá, như muốn nói rằng anh không tham gia trò chơi này nữa. Những
tia sáng lung linh trong phòng chiếu vào các lồng ấp khác có thể nhìn thấy
những đứa bé nằm trong đó.
“Anh chưa
nhận ra đứa bé à? Tôi sẽ lăn cái lồng ấp phía sau, đối diện với cửa sổ, tới để
anh có thể nhận ra cháu nhé”.
Ngay lập
tức, Điểu điên tiết lên. Và rồi anh hiểu rằng trò chơi này là màn giáo đầu khi
bước vào khu chăm sóc đặc biệt, vì sau đó các bác sĩ và y tá đều trở lại công
việc riêng của họ.
Điểu kiên
nhẫn nhìn vào lồng ấp mà cô y tá đã chỉ. Từ
khi bước vào khu vực này, Điểu đã bị cô y tá “xỏ mũi”, dần dần anh mất
hết khả năng oán giận và nhu cầu kháng cự. Anh bây giờ như một người yếu đuối,
không tự vệ được, anh đã bị trói buộc bằng những sợi băng ga giống như những
đứa trẻ kia phải cam chịu số phận, chỉ biết cất lên tiếng khóc vô vọng. Điểu
thở hắt ra, hơi thở nóng ran. Anh quẹt đôi bàn tay ướt vào đủng quần và rồi lấy
tay chùi những giọt mồ hôi đọng trên long mày, mắt và gò má. Anh dụi mắt và
nhìn thấy những tia đôm đốm nhảy múa, khiến anh có cảm giác mình đang đâm đầu
xuống vực thẳm quay mồng mồng…
Khi Điểu mở
mắt, cô y tá, giống như một ai đó đang bước vào tấm kính, đã ở phía bên kia
vách kính và đang đẩy cái lồng ấp tiến về phía anh. Điểu tự trấn an, củng cố
tinh thần và nắm chặt bàn tay. Và rồi anh nhìn thấy con anh. Cái đầu của nó
không còn quấn băng như cái đầu bị thương của nhà thơ Apollinaire nữa. Không
giống như bất cứ đứa trẻ nào trong khu này, nước da của thằng bé đỏ như tôm
luộc và bóng láng một cách bất bình thường, khuôn mặt ửng đỏ như phủ bởi một mô
sợi phỏng sau khi chữa trị. Nhìn cách nhắm mắt của nó, Điểu nghĩ thằng bé co vẻ
đang chịu đựng một sự bực bội khủng khiếp. Và chắc chắn sự bực bội đó là vì cái
khối u nhô ra, không thể dứt bỏ được, giống như một cái đầu đỏ gấc mọc sau sọ
của nó. Có lẽ nó nặng trịch và phiền toái như mỏ neo buộc vào đầu đứa bé. Cái
đầu dài và nhọn như đầu cá trê! Chính nó đã gây cho Điểu một cơn chấn động tàn
bạo như búa đập vào đe hơn là khối u, đồng thời làm cho anh muốn nôn mửa nhưng
khác với cơn buồn nôn của cơn say, một cơn buồn nôn khủng khiếp đã tác động đến
tận gốc rễ sự hiện hữu của Điểu. Nhìn cô y tá đang quan sát những phản ứng của
mình từ phía sau lồng ấp, Điểu gật đầu, như anh muốn nói “thôi đủ rồi!” hay
đồng ý phục tùng một điều mà anh chẳng hiểu mô tê gì. Đứa bé sẽ không phát
triển với cái khối u của nó hay tiếp tục phát triển? Đứa bé không còn đừng trên
bờ cõi chết nữa, không còn những giọt nước mắt đưa đám ngọt ngào, thanh thản
làm cho nó chảy tan như một món nước quả đông lạnh xoàng. Đứa bé tiếp tục sống
và bắt đầu trở thành gánh nặng trên vai anh. Lớp da đỏ như tôm luộc sáng rực
lên với cái mô sẹo bóng lưởng được bọc trong tã lót, đứa bé khởi đầu cuộc sống
một cách tàn bạo, kéo rê khối u nặng trịch như chiếc neo của nó. Một đời sống
thực vật? Có lẽ thế, một cây xương rồng coi như đã chết.
Cô y tá gật đầu
như đã thỏa mãn khi nhìn thấy nét biểu hiện trên khuôn mặt Điểu và đẩy chiếc
lồng ấp trở lại cửa sổ. Tiếng khóc náo loạn của bọn trẻ lại nổi lên, lay động
căn phòng phía bên kia vách gương nơi ánh đèn sang rực như trong một lò nung.
Điểu ngồi rủ xuống. Tiếng kêu la nhồi nhét vào cái đầu ủ rũ của anh như thuốc
súng nhồi vào khẩu thần công đại bác. Anh ước gì có một cái giường bé xíu hay
một cái lồng ấp cho chính mình: cái lồng ấp đầy hơi nước bay lơ lửng như sương
mù là tốt nhất. Điểu sẽ nằm trong đó và thở bằng mang như một loài lưỡng cư yếu
đuối.
“Anh cẩn
thận phải hoàn tất thủ tục bệnh viện ngay bây giờ”, cô y tá quay sang Điểu và
nói”. Chúng tôi yêu cầu anh đóng 30 ngàn đồng yên tiền bảo đảm”.
Điểu gật
đầu.
“Đứa bé chịu
uống sữa và tay chân cháu hoạt động dữ lắm”.
Tại sao nó
uống sữa và tại sao nó hoạt động hở Trời? Điểu tự tra vấn và hầu như quở trách.
Cái tính càu nhàu đang trở thành một thói quen mới làm cho anh kinh tởm.
“Nếu anh chở
ở đây tôi sẽ mời bác sĩ trực”.
Điểu đứng
lại một mình như ông phỗng đá. Các cô y tá mang tã lót và khay sữa cho bọn trẻ
khuỳnh tay đụng vào người anh nhưng không một ai để mắt đến gương mặt của anh.
Và người mở miệng nói lời xin lỗi chính là Điểu. Ngay lúc này, khu vực phía bên
này vách kính nổi lên tiếng la ó củ amo65t người đàn ông nhỏ con, hình như ông
ta đang thách thức với một trong những vị bác sĩ.
“Làm sao ông
biết chắc là không có gan? Làm sao có chuyện như thế được? Tôi đã nghe giải
thích hàng trăm lần nhưng vẫn không thể nào hình dung được. Tôi muốn nói có phải
một đứa bé không có lá gan nào đúng là chuyện vớ vẩn phải không? Có đúng vậy
không, thưa bác sĩ?”.
Điểu tìm
cách chan vào chỗ các cô y tá đang lăng xăng với công việc và anh đứng đó rũ
rượi như cây liễu, nhìn xuống đôi tay đẫm mồ hôi của mình. Chúng giống như đôi
găng da thấm nước. Điểu nhớ đến đôi bàn tay của đứa con đưa lên sau hai tai của
nó. Đó là đôi bàn tay rộng giống như tay anh, với những ngón dài, Điểu giấu đôi
tay của mình vào túi quần, rồi nhìn người đàn ông nhỏ con tuổi trên 50 đang rán
gân cổ bảo vệ lập luận cố chấp của mình với vị bác sĩ. Ông ta mặc một chiếc
quần chẽn nâu và chiếc áo thể thao bạch ngực. Chiếc áo quá rộng so với tấm than
gầy nhom của ông, trông giống như một miếng vải tạm bọc xác chết khô. Đôi cánh
tay trần và cổ ông ta cháy đen như một miếng da trâu, càng tăng thêm vẻ gân
guốc. Làn da và thớ thịt này chỉ thấy ở những người lao động tay chân dãi gió
dầm sương quanh năm suốt tháng. Mái tóc xoắn của ông bám vào đỉnh đầu giống cái
đĩa sâu úp ngược trông thật thô bỉ, vầng trán quá rộng, đôi mắt lờ đờ, đôi môi
nhỏ và cái quai hàm đã phá hỏng nét cân đối trên khuôn mặt ông ta. Rõ ràng ông
ta làm việc bằng đôi tay, nhưng không phải là người lao động thuần túy. Có thể
ông vừa phải nai lưng làm những công việc nặng nhọc lại vừa vắt óc vì trách
nhiệm với một công việc kinh doanh tầm tầm. Chiếc thắt lưng bằng da của ông to
bản như một obi, nhưng nó đối trọng với sợi dây đồng hồ quá cỡ bằng da cá sấu
mà ông đang đeo trên cổ tay vung vẩy trước mặt vị bác sĩ cao hơn ông ta cả cái
đầu. Cách ứng xử của viên bác sĩ rõ ràng là cách của một viên chức nhỏ trong
bệnh viện, còn người đàn ông thì điên tiết cố giành phần thắng về mình bằng
cách cả vú lấp miệng em. Nhưng thỉnh thoảng ông quay lại nhìn các cô y tá và
Điểu, và đôi mắt của ông hàm chứa nét vô vọng của người theo chủ nghĩa thất
bại, như thể biết mình chẳng còn cách nào tìm lại được những gì đã mất. Một con
người nhỏ bé kỳ quặc.
“Chúng tôi
không biết nó xảy ra thế nào, tôi nghĩ anh phải xem đó là một tai nạn. Nhưng
thực tế là con anh không có lá gan. Phân trắng, thế đó! Trắng tinh! Anh có bao
giờ thấy một đứa trẻ có phân như thế chưa?” Viên bác sĩ nói một cách trịch
thượng, cố trấn áp ý tưởng ngoan cố của người đàn ông.
“Tôi đã thấy
những chú gà con ỉa cứt trắng. Và hầu hết gà đều có gan, đúng không? Như món
gan gà chiên và trứng chiên đúng không? Hầu hết gà đều có gan nhưng thỉnh
thoảng những chú gà con vẫn ỉa cứt trắng!”.
“Tôi biết
điều đó, nhưng chúng ta không nói về gà con – đây là một bé con”.
“Nhưng một
đứa bé ỉa cứt trắng thật sự là không bình thường phải không?”.
“Cứt trắng
hả?” Viên bác sĩ giận dữ cắt ngang. “Một đứa bé ỉa cứt trắng là không bình
thường cho lắm, đúng thế. Có phải anh muốn nói đến cứt trắng phải không?”.
“Phải rồi,
một cục cứt trắng. Tất cả những đứa bé không gan đều có phân trắng, tôi biết
thế, nhưng thưa bác sĩ, phải chăng tất cả những đứa bé ỉa cứt trắng đều không
có gan?”.
“Tôi đã giải
thích điều này ít nhất là cả trăm lần rồi!” Giọng nói hằn học của viên bác sĩ
nghe như một tiếng kêu than. Ông có ý
cười người đàn ông, nhưng khuôn mặt rộng nằm sau đôi kính dày gọng sừng của ông
lại méo xẹo, còn đôi môi thì đang rung lên.
“Tôi có thể
nghe lại một lần nữa thôi được không, thưa bác sĩ?” Lúc này giọng nói của người
đàn ông bình tĩnh và dịu dàng lại. “Thằng bé không có gan chẳng phải là chuyện
đáng buồn cười cho nó hay cho tôi. Tôi muốn nói đây là một vấn đề nghiêm trọng,
đúng thế không thưa bác sĩ?”.
Cuối cùng
viên bác sĩ nhượng bộ, rút tấm thẻ y tế ra và giải thích cho người đàn ông đang
ngồi cạnh bàn. Hai người trò chuyện thì thầm với nhau cốt không cho Điểu
nghe.Trong khi anh đang cố vểnh tai nghe lén thì một viên bác sĩ trạc bằng tuổi
anh nhảy xổ vào phòng và tiến thẳng tới sau lưng anh.
“Anh là than
nhân của đứa bé bị chứng thoát vị não phải không?” Với giọng lanh lảnh như
tiếng sáo tây, viên bác sĩ thốt lên.
“Dạ phải”,
Điểu quay lại trả lời. “Tôi là cha…”.
Viên bác sĩ
dò xét Điểu bằng đôi mắt khiến anh nghĩ đến một con rùa. Và con rùa mở thao láo
đôi mắt. Cái cằm lẹm và cổ họng nhăn nheo lệch sang một bên của anh ta càng
khiến cho người ta nghĩ đến một con rùa – một con rùa háu ăn. Nhưng trong đôi
mắt kia có màu trắng dã, bởi vì hai con ngươi có vẻ nghiêm khắc hơn là vẻ diễn
cảm, cũng có một chút gì xuề xòa và nhân hậu.
“Cháu là con
đầu lòng của anh phải không?” Viên bác sĩ lên tiếng và cứ nghi ngờ tra hỏi
Điểu. “Anh hẳn sống phóng túng lắm”.
“Dạ…”.
“Hôm nay
cũng chưa có gì tiến triển để đề cập.Trong bốn hay năm ngày nữa, chúng tôi mới
có người từ khoa phẫu thuật não khám xét đứa bé. Viên bác sĩ phụ tá giám đốc
của chúng tôi là một trong những người đứng hàng đầu trong lãnh vực này. Dĩ
nhiên là đứa bẻ sẽ khỏe mạnh hơn nhiều trước khi chúng ta có thể giải phẫu hoặc
là không có ý kiến gì. Khoa giải phẫu nào ở đây đông bệnh nhân khủng khiếp đến
nỗi các bác sĩ cố tránh để khỏi phí thời gian”.
“Vậy thì… sẽ
giải phẫu chứ?” “Vâng, nếu đứa bé đủ sức chịu đựng”. Viên bác sĩ trả lời nhưng
hiểu sai ý của Điểu.
“Đứa bé có
khả năng phát triển bình thường nếu được giải phẫu không? Ở bệnh viện nơi cháu
sinh ngày hôm qua họ quả quyết bảo nếu giải phẫu được thì cháu cũng chỉ là một
sinh vật có đời sống thực vật”.
“Một đời
sống thực vật – Tôi không…” Viên bác sĩ không trả lời thẳng câu hỏi của Điểu,
im lặng Điểu nhìn vào khuôn mặt anh ta, chờ đợi. Và bất ngờ anh cảm thấy một
ước muốn nhục nhã trói buộc mình. Nó nổi lên trong sâu thẳm của tâm trí giống
như một viên đạn đen mà anh đã cảm nhận được ở ô cửa phòng tiếp tân khi biết
rằng đứa bé vẫn còn sống, và dần dần nó càng hiện rõ ý nghĩa với một sức mạnh
khủng khiếp như một cơn lũ. Điểu lại cố vớt vát một câu hỏi nổi lên trên bề mặt
ý thức: làm sao chúng tôi, vợ tôi và tôi, có thể sống chuỗi đời còn lại với một
quái thai cỡi trên lưng? Bằng cách này hay cách khác, tôi cũng phải trốn thoát
đứa con quái dị. Nếu tôi không trốn thoát, trời ơi, cuộc du hành của tôi đến
châu Phi rồi sẽ ra sao? Bằng mọi giá để bảo vệ lấy bản than, như thể anh đang
bị con quái vật trong lồng ấp đuổi theo qua vách kính ngăn, Điểu gắng hết sức
mình cho cuộc chiến đấu. Cùng lúc này, anh thẹn đỏ mặt và bắt đầu toát mồ hôi,
xấu hổ vì cái vòng kim cô của tính đê hèn đã dính chặt vào mình. Một lỗ tai của
anh bị ù vì tiếng gầm réo của going máu chạy ngang qua và đôi mắt anh từ từ đỏ
lên như vừa bị ăn một nắm đắm thôi sơn, vô hình. Cái cảm giác xấu hổ thêm dầu
vào ngọn lửa đỏ trên khuôn mặt anh và những giọt nước mắt thắm qua đôi mắt –
trời ơi, Điểu mong ước, giá mà tôi có thể tự san sẻ được gánh nặng của một đứa
con quái dị sống đời sống thực vật. Nhưng lời khẩn cầu trong thâm tâm anh với
viên bác sĩ không thể thốt lên được, bởi vì gánh nặng của sự xấu hổ quá lớn.
Thất vọng, mặt anh đỏ như quả gấc, anh gục đầu.
“Anh không
muốn đứa bé được giải phẫu và bình phục, bình phục được chừng nào hay chừng đó
à?”
Điểu rùng
mình anh cảm thấy như có một ngón tay ranh mãnh vừa thọc vào bộ phận xấu xa
nhất trên cơ thể mình và t5ao ra cảm giác sung sướng đến rợn tóc gáy. Điểu bật
ra lời khẩn cầu như muốn chứng tỏ rằng anh không thể tự mình cưu mang nó được.
“Thì cứ cho
là giải phẫu đi, nếu có những cơ hội rất mỏng manh, mà đứa bé sẽ phát triển một
cách bình thường…”.
Điểu cảm
thấy mình đã đặt bước chân đầu tiên xuống con dốc của tính đê tiện. Có khả năng
là anh khi đâm đầu xuống dốc hết tốc lực, thì tính đê tiện của anh sẽ bật ra ngay
trước mũi anh. Điểu lại rung mình, nhận biết tính chất chạy trời không khỏi
nắng của nó. Và ngay lúc này, như trước đó, đôi mắt đẫm lệ, đỏ ngầu như hai đốm
lửa của anh đang cầu khẩn viên bác sĩ.
“Tôi thiết
nghĩ anh cũng nhận ra rằng tôi không thể trực tiếp bước theo đứa bé đến tận
cuối đời nó!” Viên bác sĩ ngạo mạn quay lại nhìn đôi mắt chứa đầy nỗi thống khổ
của Điểu.
Dĩ nhiên là
không…” Điểu vội vàng trả lời, như thể anh vừa nghe một điều gì đó hết sức bất
thường. Sau đó, anh nhận ra rằng viên bác sĩ không bị mắc lừa cái tính loanh
quanh của anh. Điều đó càng làm cho anh bẽ mặt, và trong cơn oán giân Điểu không
cố bào chữa cho mình.
“Quả thực
anh là một người cha trẻ- à, cỡ bằng tuổi tôi không?” Viên bác sĩ quay cái đầu
rùa của anh ta nhìn những đồng sự ở bên này vách kính. Điểu ngỡ rằng anh ta có ý muốn chế nhạo anh, và anh bị một
cú đòn trời giáng. Nếu anh ta muốn bày trò chơi tôi, anh mất bình tĩnh lấy hơi
thở, tôi sẽ giết anh ta! Nhưng viên
bác sĩ có ý định hùa vào cai mưu đồ ô nhục của Điểu, anh ta nói thì thầm với
Điểu cốt không cho những người trong phòng nghe:
“Chúng tôi
đang cố gắng điều chỉnh sữa của đứa bé. Chúng tôi có thể cho cháu uống cả nước
đường. Trong giây lát chúng ta sẽ biết cháu
có chịu được hay không, nhưng nếu cháu vẫn không có vẻ gì yếu, chúng tôi
sẽ không có cách chọn lựa nào ngoài việc giải phẫu.”
“Cảm ơn bác
sĩ.” Điểu nói qua hơi thở mơ hồ.
“Không có
gì.” Giọng nói của viên bác sĩ khiến Điểu lại tự hỏi chẳng biết mình có bị chế
nhạo không. Sau đó, anh ta lại xuống giọng như để xoa dịu, “Phải mất bốn hay
năm ngày. Anh không thể hy vọng có một sự thay đổi quan trọng ngay được và
chẳng có cơ sở nào để xác định sự việc tốt hay xấu.” Nói xong, anh ta ngậm
miệng như thóc.
Điểu ngoảnh
mặt tránh viên bác sĩ, cúi đầu và đi thẳng ra cửa. Giọng nói của cô y tá đuổi
theo chân Điểu trước khi anh bước ra ngoài:
“Làm ơn làm
thủ tục bệnh viện càng sớm càng tốt!”.
Điểu vội vã
bước xuống hành lang tối tăm như đang trốn chạy khỏi cảnh tội lỗi. Trời nóng.
Lúc này lần đầu tiên, anh nhận ra rằng khu chăm sóc có máy điều hòa không khí,
sự điều hòa không khí mùa hè đầu tiên của anh, Điểu xấu hổ lén chùi những giọt
nước mắt nóng hổi. Nhưng lòng Điểu nóng hơn không khí xung quanh và càng nóng
hơn những giọt nước mắt của anh. Run rẩy, anh di chuyển xuống hành lang bằng
bước chân bấp bênh của người bệnh mới hồi phục. Khi anh đi qua vuông cửa sổ mở
của phòng bệnh, vẫn còn tiếng khóc, những bệnh nhân như những con vật nhớp nhúa
đang nằm ngửa hay ngồi trên giường nhìn anh bằng đôi mắt lạnh như tiền. Những
giọt nước mắt đã chìm xuống khi anh buộc tới dãy hành lang nối liền với những
phòng riêng, nhưng cảm giác xấu hổ đã trở thành một hạt cườm nằm sau đôi mắt
anh giống như người mắc bệnh tăng nhãn áp. Và không chỉ nằm sau đôi mắt anh, nó
đang làm chai cứng nhiều phần sâu thẳm trong thân thể anh. Cái cảm giác xấu hổ:
một căn bệnh ung thư. Điểu nhận ra một thân thể xa lạ, nhưng anh không ý thức
được nó. Đầu óc anh cháy bùng lên, rồi tắt.
Khi Điểu tới
được lối đi dẫn đến dãy nhà chính của bệnh viện thì nhà logic nhỏ con có sợi
dây nịt bằng da và sợi dây đồng hồ cá sấu đuổi theo kịp anh. Anh ta đi sóng đôi
bên Điểu, vẫn còn mang vẻ cố chấp y như đã có trong khu chăm sóc đặc biệt,nhún
nha nhún nhẩy đôi chân cốt để khỏa lấp sự chênh lệch chiều cao giữa hai người.
Anh ta nhìn thẳng vào mặt Điểu và bắt đầu mở miệng, giọng nói oang oang của một
người đã có sẵn những quyết định trong đầu. Điểu im lặng lắng nghe.
“Anh phải
cho họ một trận, anh biết đó, phải đấu tranh! Đấu tranh! Đấu tranh!” anh ta nói
“Đó là một cuộc đấu tranh với bệnh viện, đặc biệt với các bác sĩ! Quả là hôm
nay, tôi thật sự cho họ một trận, anh phải nghe tôi mới được”.
Điểu gật đầu
, nhớ lại chuyện “phân trắng” của anh
chàng. Tháu cáy một cách điên cuồng để đạt được thuận lợi trong cuộc đấu tranh
của anh ta với bệnh viện, anh ta phải mất nhiều công sức.
“Con tôi
không có gan, anh biết đó, vì vậy tôi phải chiến đấu, và tiếp tục đấu tranh còn
không thì họ cướp mất sự sống của cháu. Không, đó là chân lý của Thượng đế! Anh
muốn mọi việc đều đi đến lẽ phải trong một bệnh viện lớn, điều trước tiên là
anh phải biết được cách đấu tranh! Chẳng hay ho gì với cách xử sự dễ thương, im
lặng và cố làm cho họ thương mến anh. Tôi lấy thí dụ có một bệnh nhân sắp chết,
anh ta nằm yên lặng. Nhưng chúng ta, những người than của bệnh nhân thì không
thể nào chịu im lặng được. Đấu tranh! Tôi xin nói với anh, đó là một cuộc đấu
tranh. Giống như mấy hôm trước, tôi đã nói với họ y như vậy, nếu đứa bé không
có lá gan thì anh cứ đấu tranh để cho nó có một lá gan chứ! Anh phải biết một
vài sách lược nếu anh muốn đấu tranh, vì vậy tôi đang nghiên cứu kỹ lưỡng.Và
tôi nói với họ, tôi nói những đứa trẻ không có ruột thì được lắp ruột nhân tạo
vì vậy mấy ông cũng có thể tính đến chuyện lắp một lá gan nhân tạo chứ!”.
Hai người
đứng trên con đường chính vào bệnh viện. Điểu có cảm giác rằng anh chàng này
đang cố làm cho anh bật cười, nhưng dĩ nhiên là anh ta không có vẻ gì đáng
cười. “Đến mùa thu cháu hồi phục được không?” Anh hỏi thay cho lời xin lỗi vì
bộ mặt chế giễu của mình.
Hồi phục ư?
Con tôi không có gan, thật là xui tận mạng! Tôi đang đấu tranh với tất cả hai
ngàn công nhân viên trong cái bệnh viện vô cùng lớn lao này”.
Một chút đau
buồn kỳ lạ và một chút phẩm chất mềm yếu trong câu trả lời của con người nhỏ bé
này đủ làm cho Điểu kích động. Từ chối lời mời đến ga bằng chiếc xe tải ba bánh
của anh ta, Điểu đi bộ đến trạm xe buýt một mình. Anh nghĩ đến món tiền ba mươi
ngàn yên mà anh phải trả cho bệnh viện. Anh đã quyết định kiếm được món tiền đó
ở chỗ nào rồi, và đúng vào lúc cần phải quyết định thì cảm giác xấu hổ được
thay thế bằng một cơn giận dữ tuyệt vọng mà không có nguyên do cụ thể làm cho
Điểu run bắn người. Anh có hơn ba mươi ngàn yên trong nhà băng, nhưng đây là số
tiền mà ngay từ đầu anh đã ký gởi vào quỹ tiết kiệm cho việc du lịch sang châu
Phi. Hiện tại ba mươi ngàn yên thừa đó phải dung vào việc chữa trị não bộ cho
con anh. Bây giờ, ngoài hai tấm bản đồ chỉ đường, Điểu chẳng còn thứ gì có quan
hệ trực tiếp đến một chuyến du hành sang châu Phi. Khắp người anh toát mồ hôi,
Điểu cảm thấy ẩm ướt, ớn lạnh một cách khó chịu trên đôi môi, tai và những đầu
ngón tay. Anh đứng cuối hàng ở trạm xe buýt, và bằng giọng nói như tiếng kêu vo
ve của muỗi anh thốt lên lời nguyền rủa: “Châu Phi hả? Đáng nực cười thay!” Cụ
già đứng ngay trước mặt Điểu đưa mắt nhìn quanh, ngạc nhiên, chầm chậm ngẩng
cao cái đầu to, hói của ông ta lên. Cái nóng mùa hè đang vội vã thiêu đốt thành
phố làm cho mọi người muốn ngất xỉu.
Điểu cũng
vậy, nhắm mắt một cách yếu ớt và run rẩy vì ớn lạnh, mồ hôi toát ra. Chẳng bao
lâu, anh nghe da thịt của mình tứa ra một mùi hôi khó chịu. Xe buýt không đến;
trời nóng. Ôm trong lòng nỗi sợ hãi và tất cả cơn thịnh nộ xoáy lên trong đầu
Điểu, một cái bóng đen lờ mờ nổi gân đỏ căng ra. Và rồi cái mầm khát khao tình
dục đã nhú lên xuyên qua đêm tối và lớn lên trước đôi mắt của Điểu như cây cao
su non. Đôi mắt vẫn nhắm, Điểu mò mẩm xuống quần và cảm thấy dương vật của mình
dựng đứng qua lớp vải. Anh thấy đáng ghét, sai lầm, tội nghiệp. Anh hết lòng ao
ước một thứ tình dục chống lại xã hội. Một cách giao cấu mà nó phơi bày hết ra
ánh sáng nỗi sợ hãi đang chui vào người anh. Điểu tách ra khỏi hàng và tìm
chiếc taxi bằng đôi mắt đỏ ngầu, nhìn thấy quảng trường như một tấm phim âm
bản, màu đen và màu trắng tương phản nhau. Anh định trở lại phòng của Himiko, ở
đó ánh sáng ban ngày không lọt vào. Nếu nàng đè tôi xuống, anh cáu kỉnh nghĩ,
như thử tự quất mình, tôi sẽ đánh nàng bất tỉnh rồi giao cấu với nàng.
7
Himiko thở
dài, “Điểu ạ, anh biết đó, anh luôn ở trong tình
cảnh thậm tệ khi cố kéo em lên
giường với anh,. Ngay lúc này, anh chẳng hấp dẫn tí ti nào như anh chàng Điểu
mà em từng gặp”.
Điểu tiếp
tục im lặng.
“Nhưng em
cũng sẽ ngủ với anh thôi. Em đã không còn quá nghiêm túc với giá trị đạo đức từ
khi chồng em tự sát. Vả lại, cho dù anh có ý định thực hiện kiểu tình dục kinh
tởm nhất với em thì em vẫn chắc rằng em sẽ khám phá ra một điều xác thật nào đó bất kể chúng ta làm gì”.
Xác thật –đích thật, chính xác, có thật, thanh
khiết, bẩm sinh, chân thật, nghiêm chỉnh; vị phụ giảng tiếng Anh trường
luyện thi sắp xếp những từ để dịch trong đầu. Điểu nghĩ, không có nghĩa nào
trong những nghĩa trên gần sát với tình trạng của anh hiện tại.
“Điểu, anh
lên giường trước đi. Em muốn đi tắm.”
Điểu chầm
chậm cởi bỏ bộ quần áo đầy mồ hôi của mình và ngã lưng lên tấm chăn cũ. Hai tay
chống đầu, anh liếc nhìn xuống phần bụng và dương vật trắng nhợt, ỉu xìu của
mình. Cửa kính phòng tắm mở rộng, Himiko ngồi thấp xuống theo hướng bồn cầu,
dạng chân ra để rửa cơ quan sinh dục với một ấm nước lớn cầm trên tay. Ngồi
trên giường, Điểu nhìn nàng một lúc và cho rằng đó là sự từng trải mà nàng có
được từ những mối quan hệ tình dục với những người đàn ông nước ngoài. Rồi anh
lại lặng lẽ nhìn xuống bụng và dương vật của mình, chờ đợi.
“Anh Điểu…”,
Himiko gọi, tay cầm cái khăn lớn lau mạnh làm cho nước bắn tung lên ngực nàng.
“…Hôm nay có nguy cơ mang thai đấy; anh có chuẩn bị gì không?”
“Không”.
Có thai! Từ
ấy khiến cho Điểu như bị những chiếc kim nhọn nung lửa đâm vào chỗ thịt da mềm
nhất làm bật ra tiếng rên rỉ, khổ sở. Những chiếc kim ấy thọc sâu vào những bộ
phận đầy sinh lực của anh và tiếp tục đốt cháy chúng.
“Mình phải
nghĩ ra một điều gì đó, anh Điểu ạ”. Himiko đặt mạnh ấm nước xuống sàn gây một
tiếng động lớn như tiếng súng nổ, rồi quay lại ngồi cạnh Điểu trong lúc cọ xát
người nàng bằng tấm khăn tắm. Bằng một tay, Điểu bối rối vò xiết dương vật mềm
oặt của mình.
Anh nói, “Tự
dưng anh mất hứng. Himiko! Lúc này anh chẳng thoải mái tí nào”. Thở mạnh, đầy
sinh lực, Himiko chòng chọc nhìn Điểu, tiếp tục lau khô hai bên hông và phần
ngực giữa đôi vú của nàng. Nàng có vẻ đang suy xét ý nghĩa ẩn chứa trong lời
nói của Điểu. Mùi da thịt của nàng dậy lên những kỷ niệm sâu sắc vào những dịp
hè thời đại học làm Điểu nín thở: làn da sưởi ấm dưới ánh mặt trời. Himiko nhăn
mũi như một chú chó con, phá lên cười vô tư, hồn nhiên. Điểu chín cả người.
“Anh vừa nói
anh không được thoải mái”, Himiko nói không suy nghĩ rồi thả rơi cái khăn xuống
chân, tiến đến nằm đè thân thể của nàng lên người anh, bầu vú nhỏ của nàng ấn
mạnh vào da thịt anh như hai cái răng nanh. Điểu, giống như một đứa con nít,
hành động theo bản năng tự vệ, vẫn một tay giữ chặt của quí của mình, tay kia
đẩy thẳng lên bụng Himiko. Tay anh thấm sâu vào da thịt mềm mại của nàng khiến
anh nổi da gà.
”Em mới hét
toáng lên “mang thai” đó mà”, Điểu vội bào chữa.
“Em không
hét toáng,” Himiko phản đối với vẻ mặt giận dữ. “Nó làm em căng lên khó chịu
đây. Mang thai là một từ mà em không thể chấp nhận được!”
Himiko lấy
hai tay che bụng và đôi vú của mình, có lẽ vì Điểu quyết chí giấu kín dương vật
của anh. Giống như hai đô vật thời cổ trần truồng vật nhau, thoạt đầu họ bảo vệ
những phần có thể bị tấn công nhất bằng đôi tay trần, rồi đứng tấn, nhìn nhau
cảnh giác.
“Có gì không
ổn sao Điểu?” Himiko dịu dàng nói, dần dần nàng nhận ra tình hình nghiêm trọng.
“Em nghĩ về
chuyện mang thai và – thất bại.”
Himiko khép
hai chân lại rồi ngồi xuống cạnh đùi của Điểu. Điểu xoay người trên chiếc
giường hẹp để nhường chỗ cho nàng. Himiko đưa cánh tay giữ đôi vú xuống, chạm
nhẹ vào bàn tay của Điểu vẫn còn nắm chặt dương vật.
“Điểu, em có
thể làm cho anh cứng lên”, nàng trầm tĩnh nói nhưng với giọng thuyết phục. “Đã
qua một thời gian dài từ hôm ở bãi chứa gỗ.”
Điểu chìm
sâu trong cảm giác vô vọng ẩm ướt, tối tăm, và chịu đựng những ngón tay của
Himiko đang chơi trò tế nhị trên bàn tay anh. Anh có nên bày tỏ trường hợp
riêng tư của mình một cách thuyết phục không nhỉ? Anh đã có nhiều nghi ngờ.
Nhưng anh phải giải thích, để vượt qua khỏi tình huống khó xử của mình.
“Đó không
phải vấn đề kỹ thuật”, anh nói, tránh nhìn bộ ngực lộ vẻ âu sầu, tha thiết của
Himiko. “Vấn đề là sợ hãi.”
“Sợ hãi ư?”
Himiko nảy ra ý định lật ngược từ này trong đầu với hy vọng tìm ra một câu nói
bông đùa.
“Anh sợ
những hốc tối nơi mà đứa bé quái dị đó được tạo ra”, Điểu thử giải thích trong
cách nói bông đùa, chẳng mang lại ý nghĩa gì, nhưng đã nhấn anh chìm sâu hơn
vào nỗi u sầu. “Khi anh nhìn thấy đứa bé với cái đầu quấn băng, anh nghĩ đến
nhà thơ Apollinaire. Nghe có vẻ đa cảm, nhưng anh cảm thấy như đứa bé đã bị
thương trên đầu trong một trận chiến
giống như Apollinaire. Con anh bị ném vào trận chiến đơn độc trong một
hang sâu tăm tối, kín bưng mà anh chưa
bao giờ thấy…” Khi lên tiếng, Điểu nhớ
lại những giọt nước mắt chuộc lỗi, ngọt ngào của anh đã trào ra trong xe cứu
thương – nhưng những giọt nước mắt hổ thẹn ở hành lang bệnh viện hôm nay đã
vượt qua sự chuộc lỗi. ”… Anh không thể đưa dương vật yếu xìu của mình vào
chiến trường đó!”
“Nhưng đó
chẳng phải là mặt hạn chế giữa anh và vợ anh sao? Em muốn nói nó chẳng phải nỗi
sợ hãi mà anh phải trải qua khi chị ta đến với anh trước tiên vì chuyện tình
dục sau khi bình phục sao?”
“Thôi chúng
ta cứ làm lại xem sao –“ Điểu ấp úng nói, vẫn còn bị đè nén bởi khoảng thời
gian kinh hoàng nhiều tuần lễ qua, “- anh biết anh cảm thấy như mình đang mắc
tội loạn luân với con anh ngay trên đỉnh nỗi sợ này của anh. Chẳng phải điều đó
đã khiến cho cái của quí cứng như thế đã mềm xìu sao?”
“Anh Điểu
đáng thương ơi! Nếu em cho anh đủ thời gian, anh sẽ tính đến một trăm lẻ một
cái phức tạp để bảo vệ cái bất lực của chính anh.”
Thỏa mãn với
câu nói bông đùa của mình, Himiko nằm úp mặt xuống khoảng không gian chật hẹp
dọc theo người Điểu. Điểu cố thu mình lại trên chiếc giường lõm xuống như võng
vì thêm trọng lượng, khiếp đảm nghe tiếng thở khò khè của Himiko kề cận tai
mình. Nếu nỗi thèm khát của nàng không cách nào cưỡng lại được, bắt buộc anh
phải làm một điều gì đó với nàng. Nhưng để đưa chú chuột chũi yếu xìu của anh
vào cái cống nước tối đen, kín bưng ngoài những chỗ lồi lõm đầy âm khí và không
thể giải thích được đó – anh không thể làm được. Vành tai Himiko chạm nhẹ thái
dương nóng bỏng của Điểu. Mặc dù nằm im như con bún, nhưng thân thể nàng hình
như đang bị hàng triệu con mòng thèm khát nhục dục tấn công. Điểu cân nhắc xem
vào một thời điểm nào đó có thể thoả mãn nhu cầu của nàng bằng tay, hoặc môi
hoặc lưỡi. Nhưng tối hôm trước nàng đã lên tiếng không thích chuyện này vì nó
giống như hành động thủ dâm. Dù anh làm lại lần nữa thì cũng bị từ chối bằng giọng điệu cũ, cả hai đều cảm thấy như
thế, vì họ đã cự tuyệt nhau một cách tàn
nhẫn rồi. Điểu chợt nghĩ ra rằng có một cái gì đó sẽ xoay sở được nếu Himiko chỉ có chút ít máu bạo dâm trong người
. Anh cố thử, miễn là nó chẳng liên quan gì đến cái lỗ đen mà từ đó đã phun ra
tai họa. Nàng có thể đánh, đá hay đạp anh và anh sẽ im lặng chịu đựng; anh
không hề do dự uống nước tiểu của nàng. Giờ đây, lần đầu tiên trong đời, anh
phát hiện ra mình mắc chứng khổ dâm. Và điều này xảy ra sau khi anh đã sa vào đáy đầm lầy của sợ hãi, ngay khi anh cảm thấy
mình bị lôi cuốn vào con đường thủ dâm dẫn đến những nỗi ô nhục thấp hèn và mới
mẻ này. Đúng như trong kiểu cách này, anh tin rằng, con người có khuynh hướng
khổ dâm. Nhưng tại sao không nói thẳng là chính
anh! Tính đến nay đã qua nhiều năm, như một người khổ dâm bốn mươi tuổi,
Điểu phải nhớ ngày hôm nay như ngày kỷ niệm sự chuyển đổi tính dục của anh
thành nghi lễ thờ cúng. Điểu đuổi theo nỗi ám ảnh: sự suy đồi của anh đúng là
bản chất, ngoài ra không có gì khác.
“Anh Điểu?”
“Gì em?”
Điểu nhẫn nhục nói, cuối cùng thì cuộc tấn công cũng bắt đầu!
“Anh đã hủy
hoại những điều kiêng kỵ về tình dục mà chính anh đã tạo ra. Mặt khác, thế giới
tình dục của anh sẽ méo mó một cách kinh khủng!”
“Anh biết,
anh vừa mới nghĩ đến khổ dâm”, Điểu lên tiếng.
Đáng bị
khinh miệt, anh trông đợi Himiko vượt qua cái bẫy mà anh đã giăng và để kéo dài
sự thăm dò có cơ sở của chính nàng bằng một lời đáp có vẻ thèm muốn rằng, về
phần nàng, thường nghĩ về bạo dâm. Ngay cả tính chân thật liều lĩnh của một kẻ
khát khao đồi trụy Điểu cũng thiếu. Rõ ràng những chất độc của sợ hãi đã mang
anh đến một thái cực bị hạ thấp giá trị.
Nhưng Himiko
lại lên tiếng sau một chút bối rối, chẳng phải để truy đuổi điều bí ẩn của Điểu:
“Điểu, nếu
anh đang chinh phục nỗi sợ hãi của anh, anh sẽ phải cô lập nó bằng cách xác
định vật thể của nó một cách chính xác.
Ngập ngừng
một chút về điều Himiko muốn nói, Điểu im lặng.
“Nỗi sợ hãi
của anh hạn chế giữa âm đạo và tử cung phải không? Hay anh sợ những gì liên
quan đến đàn bà, sợ toàn bộ cuộc sống của em như một phụ nữ chẳng hạn?”
Điểu suy
nghĩ trong giây lát. “ Anh cho là âm đạo và tử cung. Vì bản thân em chẳng làm
được gì với nỗi bất hạnh của anh, lý do duy nhất em không thể đương đầu với anh
khi anh trần truồng đó là em được trang bị một âm đạo và một tử cung!”
“Trong
trường hợp này, chỉ có cách đơn giản là anh đừng nghĩ đến âm đạo và tử cung thủ
xem?” Himiko nói vô tư nhưng có vẻ thận trọng. “Nếu anh cứ giam hãm nỗi sợ hãi
giữa âm đạo và tử cung, thì khi đó kẻ thù mà anh phải chiến đấu để sống cứ nằm
trong giới hạn đó thôi. Điểu! Những thuộc tính của âm đạo và tử cung là cái gì
mà làm anh sợ?”
“Đó là điều
mà anh đang nói đến. Anh có cảm giác có một cái gì đó mà anh gọi là vũ trụ khác
ở phía sau đó. Nó tối tăm, nó vô tận, nó đầy rẫy mọi thứ chống lại loài người:
một vũ trụ kỳ cục. Và anh sợ rằng nếu anh bước vào đó, anh sẽ bị mắc bẫy trong
một hệ thống giờ giấc của chiều không gian khác và không thể quay về được – nỗi
sợ của anh chắc chắn giống như chứng sợ độ cao tưởng tưởng của nhà du hành vũ
trụ!”
Điểu cảm
thấy lập luận của Himiko sẽ dẫn tới một điều gì đó làm tăng cảm giác hổ thẹn
của anh, và anh đang trốn sau bức màn
ngôn ngữ vì anh muốn tránh bất cứ điều gì có thể xảy ra. Nhưng Himiko không
chịu bỏ qua: “Anh có nghĩ rằng anh sẽ đặc biệt không sợ cơ thể phụ nữ nếu âm
đạo và tử cung của họ bị loại bỏ?”
Điểu ngần
ngừ. Rồi anh nói, mặt đỏ lên, “Không cực kỳ quan trọng đâu, nhưng còn bộ ngực -
”
“Như vậy
điều anh nói có nghĩa là anh sẽ không sợ nữa nếu tiếp cận em từ phía sau”.
“Nhưng –“
“Anh Điểu này!” Himiko không buông tha. “Em vẫn nghĩ anh là típ đàn ông mà những chàng trai trẻ thường mê mẩn. Anh đã bao giờ lên giường với chàng trai nào chưa?”
“Anh Điểu này!” Himiko không buông tha. “Em vẫn nghĩ anh là típ đàn ông mà những chàng trai trẻ thường mê mẩn. Anh đã bao giờ lên giường với chàng trai nào chưa?”
Kế hoạch mà
Himiko vạch ra có vẻ đã chế ngự được sự khó khăn của Điểu về mặt đạo đức tính
dục. Điểu ngây người. Đừng quan tâm sẽ như thế nào đối với tôi, anh nghĩ, và
thả lỏng trong chốc lát mối bận tâm của mình. Himiko có thể phải chịu đựng nỗi
đau lớn lao, có thể cơ thể nàng sẽ bị xé toạc ra và chảy máu, cả hai chúng tôi
có thể bị vấy bẩn trong đống nhớp nhúa! Hốt nhiên, như có sợi dây dài quấn chặt
lầy nỗi ghê tởm của mình, Điểu lại cảm thấy lòng trào dâng một khao khát mới .
“Rồi sau đó
em không thấy nhục sao?” Điểu thì thào bằng cái giọng khàn khàn đầy ham muốn,
đó là biểu hiện cuối cùng của sự miễn cưỡng.
“Em chẳng
thấy nhục nhã gì ngay cả khi người em dính máu lẫn với bùn và dăm bào vào cái
đêm mùa đông trong chỗ chứa gỗ ấy”.
“Nhưng anh
tự hỏi”, Điểu nói, “em có cảm thấy bất cứ lạc thú nào với nó không?”
“Lúc này em
chỉ quan tâm đến chuyện làm được gì cho anh thôi, Điểu ạ”, Himiko nói. Rồi nàng
nói thêm với một vẻ dịu dàng hết mực như để làm cho Điểu an lòng, “ngoài ra,
như lúc nãy em đã nói, có thể em sẽ tìm ra một điều gì đó rất xác thật
trong bất cứ kiểu làm tình nào mà anh có thể nghĩ ra”.
Điểu yên
lặng. Nằm im trên giường, anh chăm chú nhìn Himiko chọn một chiếc lọ nhỏ trên
chiếc tủ gương trang điểm, đi vào phòng tắm, lấy từ ngăn kéo ra một chiếc khăn
lau lớn. Những làn sóng mỏi mệt dậy lên, cố nhấn chìm anh xuống. Điểu vụt ngồi
dậy, với lấy chai rượu lăn bên thành giường, tu một hớp. Anh nhớ đã ao ước đến
thế nào một cuộc mây mưa xấu xa đê tiện ở trạm dừng xe buýt trước cổng bệnh
viện dưới ánh nắng ban trưa. Và đây là lúc anh có thể thực hiện nó. Điểu tu
thêm một ngụm rượu nữa rồi nằm xuống giường. Dương vật của anh căng cứng, nóng
rần rật. Himiko tránh nhìn mắt anh khi nàng trở lại giường, vẻ mặt nặng nề sầu
thảm. Phải chăng nàng cũng đang có một ham muốn kỳ dị nào đó? Điểu cảm thấy
mình đang cười toe toét. Trước tiên tôi đã nhảy qua được bức tường cao nhất,
giờ thì tôi đã có thể giải quyết hàng trăm nỗi hổ thẹn một cách rõ ràng, giống
như một vận động viên nhảy rào trong thời gian vô tận.
“Anh Điểu à,
không có gì quá khó khăn đâu”, Himiko nói, ngược với sự nhận thức của chính
Điểu. “Nhiều cơ may là chẳng sao đâu”.
… Lúc đầu,
anh hết sức quan tâm đến Himiko. Nhưng sau thất bại này đến thất bại khác, anh
bắt đầu cảm thấy rằng một tiếng ồn khác thường hay một mùi hương lạ cũng đều là
sự chế giễu, và nỗi oán hận dần dần tước đi mọi cảm giác của anh ngoài tính tự
cao ngự trị trong anh. Từ lâu trước đó, Điểu đã quên mất Himiko, nhưng từ khi
anh tự cảm thấy mình đang thành công, anh lại trở nên hăng hái một cách cuồng
nhiệt. Những suy nghĩ vụn vặt – ghét những bầu vú mềm và những bộ phận sinh dục ngoài thô ráp đặc
trưng của loài động vật, khao khát một mình đạt cực khoái, tránh cặp mắt phụ nữ
nhìn chòng chọc vào mặt mình – nổ tung như những mảnh bom lướt qua trí não
Điểu: đó là khúc dạo đầu của khoái lạc. Băn khoăn về chuyện cực khoái của người
nữ khi giao cấu, nẩy lên trong đầu bạn cảm giác trách nhiệm đối với nàng khi
hay tin nàng mang thai là cuộc chiến đấu với phần cuối đáng rùng mình sợ hãi
của việc mang gông vào cổ. Đầu óc Điểu nổi lên tiếng hô xung trận: giờ đây tôi
đang chà đạp một người đàn bà theo cách kinh tởm nhất! Tôi có khả năng thực
hiện những điều đó một cách đê tiện nhất, tôi hổ thẹn vì nó, của quí giờ đây
đang cương cứng, nóng hổi, mới chính thật là tôi, người anh phừng phừng nỗi ám
ảnh về sự cục khoái khiến cho đầu óc anh quay cuồng.
Điểu co giật
trong khoái lạc, và cứ mỗi cơn co giật lại kéo theo tiếng kêu đau đớn của
Himiko. Nửa tỉnh nửa mê, Điểu nghe tiếng thét của nàng. Đột nhiên, như bị lòng
căm ghét xâm chiếm, Điểu cắn vào cổ Himiko, chỗ tiếp giáp với vai. Nàng lại kêu
thét lên lần nữa. Mở mắt ra, Điểu nhìn thấy một giọt máu nhỏ chảy qua vành tai
tái nhợt của Himiko rồi rơi lên má nàng. Anh lại rên rỉ.
Điểu cảm
thấy nỗi sợ hãi về những gì anh đã làm chỉ sau khi cơn cực khoái qua đi, và anh
có cảm giác mình cứng như đá. Anh tự hỏi liệu tính nhân bản trong mối quan hệ
của họ có được phục hồi sau cuộc giao cấu dã man như thế này. Anh nằm sấp lại,
thở hào hển, ước ao giá như mình có thể hủy diệt chính mình. Nhưng Himiko đã
thì thầm bằng giọng nói thật dịu dàng với vẻ bình thường hàng ngày:
“Vào phòng
tắm đi, mà đừng tự làm. Em sẽ làm nốt cho”.
Một cuộc cứu
viện và giải phóng đáng kinh ngạc. Himiko dùng tay điều khiển Điểu như thử anh
là người hoàn toàn bại liệt trong khi anh quay nhìn chỗ khác với bộ mặt phừng
phừng. Dần dần Điểu chìm sâu trong sự ngạc nhiên. Không còn nghi ngờ gì nữa,
anh đang nằm trong tay một chuyên gia tình dục. Bằng cách nào mà người tình của
anh băng qua được một chặng đường dài kể từ cái đêm mùa đông ấy? Điểu chỉ khiến
Himiko chú ý đến khi anh dùng thuốc tẩy trùng để rửa vết thương do dấu răng của
anh để lại ba nơi cách khoảng trên vai nàng. Anh làm việc này vụng về như một
đứa trẻ nhút nhác. Cảm thấy khuây khỏa, anh yên lặng nhìn đôi má và mí mắt của
Himiko hồng hào dần lên. Tấm chăn phủ đã được thay mới. Điểu và người tình nằm
cạnh nhau trên giường. Hơi thở họ đều đều. Sự im lặng của Himiko khiến Điểu lo
lắng, nhưng anh lại cảm thấy yên tâm khi nghe hơi thở nhẹ của nàng và sự thanh
thản trong đôi mắt đang chăm chú nhìn vào bóng tối của nàng. Vả lại, chính Điểu
cũng đang chìm sâu vào cảm giác bình yên lạ lùng, khác xa với những chao đảo
tâm lý trước đó. Anh đang nhấm nháp sự khoan khoái dễ chịu. Sự bình yên dễ chịu
ngắn ngủi mà anh vừa tìm thấy không phải do Himiko mà là do không còn những cơn
sự rối loạn quay cuồng trong đầu óc anh với những cái bẫy nguy hiểm của nó. Dĩ
nhiên chuỗi ô nhục vây bọc anh vẫn còn kéo dài đến tận lúc này, mà biểu tượng
của sự ô nhục đó đang được cất giữ trong khu chăm sóc đặc biệt của bệnh viện xa
xôi kia. Nhưng Điểu đang tựa vào chiếc xuồng bình yên. Anh nhận ra anh đã vượt
qua cái chướng ngại nội tâm, nó đã biến mất.
“Mình thử
lại không em, theo kiểu bình thường? Điểu nói. “Anh nghĩ là anh đã hết sợ hãi
rồi”.
“Cám ơn anh.
Sao anh không dùng vài viên thuốc ngủ để ngủ một giấc. Nếu đến lúc thức dậy,
anh vẫn không còn thấy sợ thì…”.
Điểu đồng ý.
Anh cảm thấy trong tình trạng này, anh không cần đến thuốc ngủ.
“Em là niềm an ủi của anh”. Anh
nói một cách hồn nhiên.
“Em cũng muốn thế. Em cá là từ
khi mọi chuyện bắt đầu, anh chưa hề được an ủi. Mà thế không tốt đâu anh ạ. Vào
lúc như thế này, nhất thiết anh phải có ai đó an ủi nhiều hơn cả khi anh cần,
ít nhất là một lần. Mặt khác, anh sẽ thấy mình không tự bảo vệ được khi có dịp
để tập trung can đảm và thoát ra khỏi mớ hỗn độn.
“Can đảm ư?” Điểu nói mà không
suy nghĩ gì về điều Himiko muốn ám chỉ. “Khi nào anh phải mời gọi đến lòng can
đảm?”
“Ồ, anh sẽ có mà Điểu, nhiều lần
kể từ lúc này trở đi”, Himiko nói một cách bất cần, vẫn với giọng nghiêm nghị
đầy quyền uy của nàng.
Điểu nhận ra anh đang nhìn
Himiko như một chiến binh già đã được tôi luyện trong những trận mạc của cuộc
sống hàng ngày, nhiều kinh nghiệm hơn chính bản thân anh. Nàng không chỉ là một
chuyên gia tình dục mà năng lực của nàng còn quá sức dồi dào ở nhiều khía cạnh
khác của cuộc sống trong thế giới thực tại này. Điểu nhận ra chính mình chịu
ảnh hưởng của Himiko: nhờ nàng mà anh đã vượt qua một trong những nỗi sợ hãi
của mình. Phải chăng anh cảm thấy cuộc trò chuyện với một người phụ nữ chẳng có
gì quá phức tạp sau khi giao hợp? Anh không nghĩ vậy. Sau khi làm tình, ngay cả
với vợ anh, Điểu luôn luôn bị nhấn chìm trong cảm giác chán ghét và tự thương
xót mình. Anh đem chuyện này ra nói với Himiko mà không nói với vợ anh.
“Tự thương xót mình ư? Chán ghét
ư? Điểu, thế thì anh không thể nào trưởng thành về mặt tình dục được. Và những
phụ nữ ngủ với anh có lẽ họ cũng cảm thấy chán ghét và tư thương xót cho thân
phận của họ. Em cá là anh chẳng bao giờ thỏa mãn hoàn toàn, đúng thế không Điểu?”
Điểu thèm muốn và cả ghen tị
nữa. Chàng công tử bột trẻ trung và ít tuổi đó giống như con yêu tinh đội lốt
đã gọi Himiko từ bên ngoài cửa sổ nhà nàng giữa đêm khuya cũng phải thèm muốn
và ghen tị, anh cảm thấy chắc chắn như thế, để thỏa mãn chuyện mây mưa với nàng
một cách hoàn toàn. Trong khi Điểu hờn dỗi nằm lặng im, Himiko nói, vẫn giọng
bất cần, mặc dù rõ ràng là nàng không hài lòng: “Chẳng có gì ngạo mạn và đáng
khinh bằng làm tình với ai đó rồi lại cảm thấy hối tiếc cho chính anh. Anh Điểu
ạ, ngay cả sự kinh tởm còn đỡ hơn thế!”
“Em có lý. Nhưng loại người cảm
thấy tiếc cho họ sau khi làm tình thông thường không có sự giúp đỡ từ một
chuyên gia như em, họ đánh mất hết lòng tin của họ.”
Điểu cảm thấy như anh đang nằm
nghiêng trên chiếc trường kỷ của một nhà phân tâm học, và khi anh đã trút hết
tâm tư của mình trong một cuộc chuyện trò về đam mê lạc thú và không sợ hãi,
anh bắt đầu tỉnh táo, tự hỏi tại sao chàng thanh niên kết hôn với người phụ nữ
đáng quí này lại có thể tự tử. Xâm nhập vào sự trống vắng buồn nản, con vi-rút
buồn ngủ đã quậy trong đầu anh, một ý nghĩ mơ hồ hiện lên: phải chăng Himiko
không thể đền bù cho người chồng quá cố của nàng bằng cách tha thứ cho Điểu và
hai điều kia nữa? Anh ta đã tự treo cổ trong chính căn phòng này, thân treo lơ
lửng trên chiếc giường này, chính xác cũng trần truồng như Điểu lúc này. Hôm
đó, bằng một cú điện thoại từ Himiko, Điểu đã cấp bách đến và tháo nút thòng
lọng sợi dây buộc trên sà nhà ra khỏi cổ xác chết, hạ xuống sàn nhà, giống như
anh hàng thịt trong cửa hàng đông lạnh hạ một miếng sườn bò ra khỏi móc sắt.
Trong trạng thái mơ mơ màng màng, Điểu thấy mình và cái xác chết trẻ kia là
một. Phần tỉnh táo trong đầu anh có thể cảm nhận đôi bàn tay của Himiko lau khô
người anh, trong khi phần mơ màng lại cảm thấy rõ bàn tay run rẫy của nàng trên
cơ thể anh như rửa sạch tội lỗi cho người chết. Tôi là cái xác chết đó đây, Điểu nghĩ, và mùa hè đang bắt đầu sẽ chịu
đựng dễ dàng, vì cái xác của chàng thanh niên đông cứng như một thân cây mùa
đông! Run rẩy chống chọi với giấc mơ, Điểu thì thầm nhưng tôi không muốn tự tử! rồi chìm sâu vào giấc ngủ.
… Giấc mơ khơi gợi lại kỷ niệm
của Điểu thật khắc nghiệt, mặt đối nghịch của giấc mơ vô hại đã đưa anh vào
giấc ngủ, một kỷ niệm được vây bọc bởi lớp gai nhọn tạo nên cảm giác đau đớn.
Giấc ngủ đối với Điểu là một ống khói tàu mà anh chui vào qua một lối đi rộng
và dễ dàng, nhưng phải thoát ra bằng ngỏ hẹp. Trương phồng như một khinh khí
cầu, cơ thể anh chầm chậm trôi qua vùng không gian lờ mờ vô tận. Anh bị trát
đòi hầu tòa ở bên kia vùng bóng tối, và anh đang suy nghĩ cách qua mặt quan tòa
về trách nhiệm của anh đối với cái chết của con trai mình. Cuối cùng, anh biết
mình không thể lừa bịp các quan tòa, nhưng cùng lúc anh cảm thấy mình muốn
chống án – những kẻ trong bệnh viện đã làm như vậy! Không lẽ tôi không có cách
nào thoát khỏi sự trừng phạt? Nhưng sự đau khổ của anh lại càng ô nhục thêm khi
anh tiếp tục trôi nổi trong chiếc khinh khí cầu nhỏ bé của mình.
Điểu thức giấc. Khắp người anh
đau nhức cứ như anh đang nằm trong hang ổ của một sinh vật mà cấu tạo cơ thể
của nó thật khác anh. Anh có cảm giác như cơ thể mình bị quấn nhiều lớp thạch
cao. Tôi ở chỗ quái quỉ nào đây – vào thời điểm quyết định như thế này! Anh thì
thầm, những ý tưởng cảnh giác rời rạc chỉ len qua màn sương lờ mờ. Vào thời
điểm quyết định như thế này, khi anh đang cận chiến với một đứa bé giống như
một quái vật! Điểu nhớ lại cuộc trò chuyện với vị bác sĩ trong phòng chăm sóc
đặc biệt, và những cảm giác nguy hiểm nhường chỗ cho những cảm giác hổ thẹn. Những
cảm giác nguy hiểm đó chẳng biến mất đi, nó chỉ ẩn náu sau những cảm giác hổ
thẹn. Tôi ở chỗ quái quỉ nào đây – vào thời điểm quyết định như thế này!
Điểu hơi cao giọng một chút và
có thể nghe ra đó là âm thanh chua chát của nỗi sợ hãi. Điểu ngúc ngoắc đầu như
bị co giật – và trong lúc đang mò tìm manh mối tính chất của bóng đêm đầy cạm
bẫy mà anh bị mắc vào – anh rùng mình.
Anh trần truồng như một đứa nhỏ,
không thể tự vệ, và, tồi tệ hơn, có ai đó cũng trần truồng quấn lấy anh ngủ. Vợ
anh ư? Có phải anh đang trần truồng ngủ với vợ anh và vẫn chưa cho nàng biết bí
mật về đứa con dị dạng mà nàng vừa sinh? Ồ, không thể thế được! Điểu sợ hãi đưa
tay sờ lên đầu người phụ nữ trần truồng. Khi anh lướt tay kia từ đôi vai trần
của nàng xuống tới sườn (cái cơ thể to lớn, đẫy đà, mềm mại như con thú, những
tính chất đối nghịch với cơ thể của vợ anh), người phụ nữ trần truồng vừa chậm
vừa chắc quấn chặt lấy người anh. Nhận thức trở nên sắc bén hơn, và khi Điểu
phát hiện ra người yêu Himiko của mình anh cũng nhận ra sự thèm muốn của mình,
sự thèm muốn không còn bêu xấu những thuộc tính của phụ nữ nữa. Không màng đến
cánh tay và vai đau nhức, Điểu ôm Himiko như một con gấu ôm chặt kẻ thù. Cơ thể
còn ngái ngủ của nàng to lớn và nặng nề. Điểu từ từ xiết chặt cho đến khi cô
gái ép sát vào ngực và bụng anh còn đầu thì ngả rũ rượi trên vai anh. Điểu chăm
chú nhìn khuôn mặt hếch ngược lên của nàng, trắng bệch trong bóng tối, trông có
vẻ trẻ trung đau khổ. Bỗng nhiên Himiko thức giấc, nở nụ cười với Điểu, rồi khẽ
hôn anh bằng đôi môi khô, nóng bỏng. Vẫn giữ nguyên tư thế của hai cơ thể, họ
trôi vào cuộc mây mưa một cách êm ả.
“Điểu, anh có thể giữ trong khi em chủ động được không?” Giọng của
Himiko vẫn còn ngái ngủ. Nàng phải tính trước để tránh nguy cơ mang thai, vì
lúc này nàng không thể ngăn lại được cơn khoái lạc bước đầu của chính mình.
“Chắc chắn anh có thể giữ được,”
Điểu trả lời một cách kiên quyết, căng thẳng, như một nhà hàng hải vừa biết tin
có một cơn bão đang hướng về phía họ. Anh hành động thận trọng, quyết không để
tinh dịch thoát ra khỏi cơ thể mình. Anh hy vọng lúc này cải thiện được màn
trình diễn đáng khinh của mình lúc ở bãi chứa gỗ.
“Điểu!” Himiko thét lên một
tiếng thảm thương, hợp với khuôn mặt ngây ngô của nàng đang căng lên trong bóng
tối. Giống như một người lính hộ tống đồng đội có trang bị vũ khí bước vào trận
chiến riêng tư, Điểu tự kiềm chế mình trong khi Himiko cố giành hết điều gì đó xác thực
từ cuộc giao hoan của hai người làm của riêng cho mình. Thật lâu sau phút giây
hoan lạc, toàn thân Himiko run rẩy. Rồi nàng trở lại trạng thái vô cùng nữ tính
là mỏng manh, yếu đuối, mềm mại, và cuối cùng, buông tiếng thở dài trong cổ
họng giống như con thú con no căng bụng, nhanh chóng rơi vào giấc ngủ. Điểu có
cảm giác mình như gà trống trông con. Ngửi mùi mồ hôi từ mái đầu bi khuất một
nửa dưới ngực mình, anh nằm bất động, chống khủy tay đỡ sức nặng thân mình
tránh đè cô gái nằm dưới. Anh vẫn còn phấn khích kinh khủng, nhưng không muốn
cắt ngang giấc ngủ tự nhiên của Himiko. Điểu đã xua đuổi được tai ương về những
gì thuộc đàn bà đã xâm chiếm đầu óc anh vài tiếng đồng hồ trước, và, mặc dù
nàng như đàn bà hơn bao giờ hết, anh vẫn có thể chấp nhận Himiko hoàn toàn.
Người bạn tình ranh ma của anh cảm nhận được điều này: chẳng mấy chốc Điểu đã
nghe hơi thở đều đều của nàng và biết nàng đã ngủ say. Nhưng khi anh thận trọng
dịch ra khỏi người cô gái, anh cảm thấy có cái gì đó trên dương vật của mình
giống như một bàn tay ấm áp nhẹ nhàng nắm lấy nó. Himiko đang thử nghiệm bằng
một hành động giữ yếu ớt trong khi ngủ. Điểu nếm được mùi vị tính dục nhẹ nhàng
nhưng hoàn toàn an toàn. Anh mỉm cười sung sướng và ngay lập tức rơi vào giấc
ngủ.
Lại một lần nữa giấc ngủ giống
như một ống khói tàu. Điểu bước vào biển ngủ bằng một nụ cười, nhưng trên đường
quay lại bờ thực tại anh bị tóm lấy bởi một giấc mơ trong một không gian đầy âu
lo, ngột ngạt. Anh kêu khóc trốn khỏi giấc mơ. Khi anh mở mắt, Himiko cũng đã
thức dậy, lo lắng nhìn những giọt nước mắt của anh.
8
Khi Điểu bước lên cầu thang, tay
cầm giày, nách kẹp túi nho tươi, đến phòng bệnh của vợ anh thì viên bác sĩ trẻ
có con mắt giả cũng vừa đi xuống. Hai người gặp nhau giữa cầu thang. Viên bác
sĩ một mắt dừng lại, cách Điểu năm bảy bước, nói vọng xuống làm cho Điểu cảm
thấy có điều gì khẩn cấp lắm. Thực ra thì anh ta chỉ hỏi”Mọi chuyện ra sao
rồi?”.
“Cháu nó còn sống”, Điểu trả
lời.
“Còn chuyện giải phẫu thì thế
nào?”.
“Họ sợ cháu yếu và hết trước khi
có thể giải phẫu được”, Điểu lên tiếng, cảm thấy khuôn mặt mình đỏ lên vì thẹn.
“Tốt, có lẽ thế là tốt nhất!”.
Sắc mặt của Điểu càng đỏ thấy rõ
và hai khỏe miệng anh giật giật. Sự phản ứng của anh cũng làm cho viên bác sĩ
đỏ mặt.
“Vợ anh chưa biết chuyện bộ não
của cháu”. Anh ta nói trống không. “Chị ấy biết đứa bé có một bộ phận khuyết
tật. Dĩ nhiên não là một bộ phận, chẳng có gì là lừa bịp cả, vì vậy đó không
phải là lời nói dối. Anh đang có cơ sở để nói dối và anh chỉ phải nói dối th6m
một lần nữa khi mà sự thực phơi bày. Anh hiểu tôi muốn nói gì không?”
“Tôi hiểu.” Điểu trả lời.
“Thôi được, có chuyện gì tôi có
thể giúp được cứ cho tôi biết nhé, đừng ngại.” Điểu và viên bác sĩ cúi đầu chào
nhau một cách lịch sự rồi hai người bước qua mặt mà không nhìn nhau. Tốt, có lẽ
như thế là tốt nhất! Viên bác sĩ đã nói. Yếu đi và chết trước khi họ có thể
giải phẫu. Điều đó có nghĩa là thoát khỏi gánh nặng về một đứa con có đời sống
thực vật và không phải nhúng tay vào tội giết người. Tất cả mọi chuyện mà bạn
phải làm là chờ cho một đứa bé suy yếu và chết một cách hợp vệ sinh trong một
bệnh viện hiện đại. Cũng không thể nào không quên được trong những khi bạn chờ
đợi: điều đó sẽ là công việc của Điểu. Tốt, có lẽ như thế là tốt nhất! Cái cảm
giác xấu hổ sâu xa và tâm tối sống dậy trong người Điểu và anh cảm thấy cơ thể
cứng đờ. Giống như những bà mẹ gần ngày sanh nở và những phụ nữ mới sanh, mặc
những chiếc váy ngủ bằng tơ nhân tạo nhiều màu đi ngang qua mặt anh, giống như
những người bụng mang dạ chửa và những người chưa hoàn toàn thoát khỏi kỷ niệm
và thói quen về thời kỳ mang thai, Điểu bước chậm rãi và thận trọng. Chính anh
cũng mang thai, cái bào thai nằm trong não bộ của anh chính là khối cảm giác
xấu hổ to tướng. Chẳng hiểu lí do gì, người phụ nữ trên hành lang đưa mắt nhìn
anhmột cách hằn học khi họ đi qua, và trước mỗi cái nhìn Điểu chỉ biết cái đầu.
Họ là những phụ nữ đã thấy anh rời bệnh viện trong chiếc xe cứu thương cùng với
đứa con quái dị, cũng giống như những phụ nữ có mang đứng trên ban công ở phố.
Trong khoảnh khắc, anh tin chắc rằng họ biết được điều gì đã xảy ra cho con anh
ngay từ lúc đó. Và có lẽ giống như những người nói thầm, họ đang thì thầm trong
cổ họng rằng: “A! nếu đó chính là đứa trẻ mà anh muốn nói đến, nó đã được đặt
nằm trên hệ thống băng chuyển trong một lò giết thịt trẻ con và trong giờ phút
này đang thoi thóp trước khi chết, đúng vậy, điều đó có lẽ là tốt nhất!”.
Tiếng la khóc của nhiều đứa bé
bao vây Điểu như một cơn gió xoáy. Đôi mắt anh điên dại xoáy một vòng quanh
những dãy nôi trong khu chăm sóc, Điểu bước nhanh gần như chạy xuống hành lang:
anh có cảm giác lũ trẻ nhìn chòng chọc sau lưng anh.
Trước cửa vào phòng vợ, Điểu cẩn
thận đánh hơi đôi bàn tay, cánh tay và vai mình, cả ngực nữa. Chẳng biết phải
ăn nói thế nào, nếu vợ anh đang đợi anh trên giường bệnh, đánh hơi được mùi
thơm của Himiko trên thân thể anh. Điểu xoay quanh như để kiếm một con đường
thoát thân: anh thấy những phụ nữ trẻ trong chiếc áo ngủ đứng dọc theo hành
lang đang chòng chọc nhìn anh qua ánh sang mập mờ, Điểu có ý muốn quắc mắt trả
đũa, nhưng anh chỉ lắc đầu một cách yếu ớt và quay lưng, rồi gõ nhẹ cửa phòng.
Anh trình diễn vai trò của một người
chồng trẻ vừa gặp phải nõi bất hạnh bất ngờ.
Khi Điểu bước vào phòng, mẹ vợ
anh đang đứng bên cửa sổ đầy màu xanh cây lá ngoài vườn và vợ anh đang nhìn về
phía anh, đầu nàng nâng lên khỏi đống mền đang phủ kín thân dưới của nàng trông
giống như một con chồn. Cả hai ánh mắt đều mang vẻ hoảng hốt dưới ánh sáng
nhuốm màu xanh tươi, chói lọi, Điểu nhận ra, trong những thời khắc bất ngờ,
buồn khổ, mối quan hệ máu mủ giữa hai người đàn bà này lộ rõ trên cả nét mặt
cũng như trong cử chỉ nhỏ nhặt nhất của họ.
“Anh không có ý định làm cho mẹ
và em hoảng hốt, anh đã gõ cửa, nhưng nhẹ…”.
“Ồ, anh Điểu”, vợ anh thở dài,
nhìn anh với đôi mắt đau buồn rồi đột nhiên tràn trề ngấn lệ. Với khuôn mặt
không còn phấn son, trông nàng có vẻ rắn rỏi, nhiều nam tính như thời nàng còn
là một cầu thủ quần vợt mà Điểu đã gặp cách đây nhiều năm. Bị bóc trần trước
cái nhìn của vợ, Điểu cảm thấy mình bị tổn thương rất nặng. Khi đặt túi nho lên
giường, anh cúi rạp người như thể để tìm chỗ trốn và đặt đôi giày xuống dưới
gầm giường. Giá mà, anh ước muốn một cách thảm hại, anh có thể nói chuyện với
vợ từ sàn nhà và bò quanh như một con cua. Chẳng đặng đừng: Điểu đứng thẳng
lên, cố nở nụ cười.
“Em”, anh lên tiếng, cố giữ
giọng nhỏ nhẹ, “bây giờ hết đau rồi phải không?”.
“Nó vẫn còn đau theo chu kỳ. Và
mỗi lần như vậy luôn luôn có một cơn co thắt. Ngay cả khi không đau chẳng biết
vì lý do gì em cũng không cảm thấy khỏe, và lúc em cười nó cũng đau”.
“Thật khốn khổ”.
“Đúng vậy. Anh Điểu này, con
mình có điều gì không ổn phải không?”.
“Không ổn à? Nếu có gì thì viên
bác sĩ một mắt phải giải thích chứ”. Khi lên tiếng, anh cố giữ giọng nói thanh
thót và nhìn nhanh về phía mẹ vợ giống như một võ sĩ thiếu tự tin ném nhanh cái
nhìn vào huấn luyện viên của mình. Trong khoảng không gian chật hẹp giữa đầu
giường và cánh cửa sổ, bà mẹ vợ đang hối hả ngầm ra dấu cho anh, Điểu không nắm
bắt được hết những dấu hiệu bí mật đó, chỉ biết chắc rằng anh chẳng được quyền
nói bất cứ điều gì với vợ anh.
“Giá mà họ cho em biết con mình
có sao không”, giọng nói của vợ anh như người bị bỏ rơi, Điểu biết rằng con quỉ
hoài nghi đã xui khiến vợ anh thốt lên
cùng một câu nói trong cùng một giọng vô vọng như thế này cả trăm lần.
“Có một bộ phận nào đó bị khuyết
tật,nhưng bác sĩ không nói rõ chi tiết. Có lẽ họ vẫn còn đang xét nghiệm. Một
vấn đề khác nữa là những bệnh viện của trường đại học này quan liêu như quỉ!”
Ngay khi vừa nói ra, Điểu đã cảm thấy mùi hôi thối trong câu nói dối của mình.
“Em vừa biết có lẽ tim con mình
có vấn đề nên họ phải làm quá nhiều cuộc thử nghiệm,nhưng tại sao con em lại bị
bệnh tim?” Vẻ hốt hoảng trong giọng nói của vợ lại khiến Điểu cảm thấy mình như
đang chạy trốn quanh trên sàn nhà. Thay vào đó, anh lại nói với giọng khàn
khàn, giống như một cậu bé đến tuổi dậy thì: “Đã có các chuyên gia rồi, tại sao
chúng ta không để họ chẩn đoán! Có ngồi đoán mò thì cũng vô ích thôi!”.
Cái tên Điểu dối trá đưa đôi mắt
tội lỗi quay lại nhìn vợ và thấy nàng nhắm nghiền đôi mắt. Anh nhìn xuống gương
mặt của nàng và khó chịu tự hỏi giá mà cái cảm giác cân bằng hàng ngày được trở
lại như cũ, hai hàng mi buồn tẻ, đôi cánh mũi phồng lên, và đôi môi có vẻ rộng
hơn tỷ lệ bình thường. Vợ anh nhắm mắt nằm bất động, dường như nàng đang ngủ.
Đột nhiên, một going lệ trào ra dưới hàng mi của nàng”. Ngay khi đứa bé chào
đời, em đã nghe các cô y tá kêu “ồ”lên! Vì vậy, em nghĩ rằng phải có điều gì
không ổn. Nhưng rồi em nghe vị giám đốc cười một cách vui vẻ, hoặc là em tưởng
như vậy, nên em không thể nói cái gì là thật và cái gì là mơ- khi em tỉnh lại
thì con đã được xe cứu thương đưa đi rồi”. Nàng nói mà mắt vẫn nhắm.
Vị giám đốc đầy lông lá đó chó
má thật! Cơn giận đã làm tắt nghẹn cổ họng Điểu. Hắn đã ré lên cười đến nỗi một
bệnh nhân trong tình trạng gây mê cũng nghe đdược. Nếu hắn có thói quen như thế
mỗi khi ngạc nhiên, tôi sẽ thử một thanh sắt chờ hắn trong bóng tối và cũng sẽ
cười ré lên khi cho hắn tiêu đời. Nhưng cơn giận của Điểu chỉ là cơn giận của
một đứa trẻ con, ngắn ngủi trong phút chốc. Anh biết mình sẽ không bao giờ giữ
kỹ một thanh sắt nào, không bao giờ nằm chờ ai trong bất kỳ chỗ tối tâm nào.
Anh biết rằng mình đã đánh mất yếu tố cần thiết của lòng tự trọng để khiển
trách người khác.
“Anh đem cho em một ít nho”,
Điểu nói với giọng xin tha thứ.
“Nho à!?” Vợ anh sừng sộ thốt
lên. Điểu nhận ran gay lỗi lầm của mình.
“Quỉ thật! Anh quên rằng em luôn
luôn ghét mùi nho”, anh nói lắp bắp tự trách mình. “Nhưng tại sao anh lại quên
điều đó mà đi mua nho cho em chứ?”.
“Có lẽ vì thật sự anh chẳng quan
tâm đến em hay con cả. Anh Điểu, có bao giờ anh quan tâm một cách nghiêm túc đến ai khác ngoài bản
thân anh không? Chẳng phải chúng mình đã bàn cãi về món nho khi trù tính thực
đơn trong tiệc cưới không? Anh Điểu, làm sao anh có thể quên được chứ?”.
Điểu lắc đầu bất lực. Anh lẫn
tránh đôi mắt đầy kích động của vợ, quay sng nhìn bà mẹ vợ vẫn đang ngầm ra dấu
cho anh từ trong góc tường chật hẹp. Đôi mắt anh van xin bà giúp đỡ.
“Anh có ý định tìm mua ít trái
cây và anh nghĩ rằng nho có một ý nghĩa đặc biệt đối với chúng ta, vì vậy anh
mua mà chẳng nghĩ xem vì sao mà chúng đặc biệt. Anh sẽ làm gì với chúng đây?”.
Điểu đã đến cửa hàng nho với
Himiko, và chắc chắn rằng sự hiện diện của nàng đã tỏa bóng che mất cái ý nghĩa
đặc biệt mà anh cảm thấy. Từ lúc đó đên giờ, Điểu nghĩ, cái bóng của Himiko sẽ
đè lên từng đường tơ kẽ tóc của cuộc đời anh.
“Anh phải biết rằng em không thể
đội trời chung với ngay cả một quả nho chứ? Cái mùi làm em phát cáu một cách
kinh khủng”. Vợ Điểu vẫn không buông tha anh. Anh tự hỏi không biết nàng đã
khám phá ra cái bong của Himiko chưa.
“Sao con không đem hết túi nho
xuống cho các cô y tá ở văn phòng?” Mẹ vợ anh nháy mắt ra hiệu và nói. Ánh sang
lọc qua vòm cây xanh tươi bên cửa sổ chiếu thẳng vào đôi mắt sâu hoắm và hai
bên khóe mũi cao của bà thành một vầng sáng xanh lung linh. Cuối cùng Điểu
hiểu: lời nói bong gió của bà mẹ vợ muốn cho anh biết rằng bà cụ sẽ đợi anh ở
hành lang khi anh từ phòng y tá trở lại.
“Con sẽ trở lại ngay”, anh nói. “Văn phòng ở tầng
trệt phải không mẹ?”.
“Kế phòng đợi”. Bà trả lời kèm
theo cái nhìn Điểu thật lâu.
Điểu cầm túi nho bước xuống dãy
hành lang đầy bụi. Anh vừa bước đi thì nho bắt đầu rụng ra khỏi chum. Mùi thơm
của chúng dường như ngấm vào mặt và ngực anh, Điểu nghĩ chắc chắn mùi nho làm
cho những người mắc bệnh hen bị dị ứng.
Anh nghĩ đến vợ mình đang nằm nhăn nhó trên giường và người đàn bà có vầng hào
quang xanh trong hố mắt đang ra hiệu giống như điệu bộ trong điệu múa Kabuki.
Còn bản thân anh thì thế nào khi lại đem
nho ra đùa nghịch với bệnh suyễn! Tất cả đó là một màn diễn, một vở kịch
tồi, chỉ có đứa bé với cục bướu trên đầu là thực: chí có đứa bé suy yếu dần vì
ăn kiêng bằng cách uống nước đường thay cho sữa. Nhưng tại sao lại nước đường
chứ? Đó là một cách tước đoạt phần sữa của thằng bé, nhưng dù trong bất cứ
trường hợp nào việc làm tăng mùi vị của khẩu phần thay thế phải chăng là một
thương vụ bẩn thỉu hơn là một mánh khóe đê tiện?
Điểu tặng túi nho cho các cô y
tá hết phiên trực rồi tự giới thiệu mình. Đột nhiên, dường như tật nói lắp đã
làm anh khổ sở khi còn là một cậu học sinh quay về, anh nhận ra mình không thể
thốt lên một lời nào. Anh nấc lên, cúi đầu im lặng rồi vội vã bỏ đi. Tiếng cười
trong trẻo của các cô y tá rộ lên sau lưng anh. Tất cả đều la một màn diễn, một
sự giả vờ, tại sao mọi thứ phải là hão huyền đến thế? Giận dữ, hơi thở nặng nề,
Điểu bước lên một lần ba cấp rồi thận trọng bước qua khu nhi đồng, sợ rằng anh
có thể vô ý liếc nhìn vào trong.
Trước bếp ăn dành cho thân nhân
người bệnh sử dụng, mẹ vợ Điểu với ấm nước trên tay đang đứng thẳng người một
cách kiêu hãnh, Điểu tiến lại gần, nhìn thấy trong đôi mắt của bà một khoảng
trống không thảm hại thay vì vầng hào quang trước kia đến độ khiến Điểu rùng
mình. Rồi anh nhận ra rằng cách đứng của bà chẳng có gì đáng kiêu hãnh: sự kiệt
sức và tuyệt vọng đã cướp đi vẻ mềm mại tự nhiên của cơ thể bà.
Họ trao đổi với nhau vài câu đơn
giản, nhưng mắt thì nhìn chừng cánh cửa phòng của vợ Điểu cách đó vài thước.
Khi mẹ vợ Điểu xác nhận rằng thằng bé chứa chết, bà nói với vẻ trách móc, “Con
không thể dàn xếp mọi chuyện được ngay sao? Nếu con bé thấy con nó, nó sẽ phát
điên lên mất!”.
Điểu run sợ, chỉ biết im lặng.
“Giá mà có một bác sĩ trong gia
đình”. Người đàn bà nói với tiếng thở dài cô quạnh.
Chúng ta là một lũ sâu mọt, Điểu
nghĩ, một liên minh đáng ghét của những kẻ tự vệ. Tuy nhiên, anh giải bày sự
việc, giọng thì thầm, đề phòng những bệnh nhân có thể núp sau những cánh cửa
đóng kín dọc theo hành lang giống những con dế lặng câm đang vểnh tai nghe
ngóng vì tò mò: “Sữa của thằng nhỏ đang bị giảm và nó được thay bằng nước
đường. Viên bác sĩ phụ trách bảo rằng trong vài ngày tới chúng ta sẽ biết kết
quả”.
Khi dứt lời, Điểu thấy ám khí đã
bao phủ mẹ vợ anh hoàn toàn biến mất. Cái ấm nước đầy dường như quá nặng trên
tay bà. Bà chậm rãi gật đầu và bằng một giọng nhẹ nhàng, tuyệt vọng như muốn
chợp mắt ngủ ngay, bà lên tiếng, “Ồ, mẹ biết. Vâng, mẹ biết. Khi việc này kết
thúc, chuyện bệnh hoạn của thằng nhỏ chỉ có hai mẹ con mình biết thôi”.
“Vâng”, Điểu hứa mà quên rằng
anh đã nói với cha vợ.
“Nếu không thì con bé sẽ không
bao giờ đồng ý với con nữa đâu anh Điểu ạ”.
Điểu gật đầu, nhưng thái độ phản
kháng của anh đối với bà chỉ tăng lên thêm. Lúc này mẹ vợ anh đi vào nhà bếp,
còn anh một mình trở lại phòng của vợ. Liệu nàng có biết đến cái mưu mẹo đơn
giản này không? Tất cả đều là một vở kịch đang diễn và mỗi nhân vật trong vở
kịch đặc biệt này đều là kẻ giá trá.
Khi bước vào phòng, Điểu thấy
khuôn mặt của vợ quay về phía mình, anh biết rằng nàng đã quên đi sự kích động
về chuyện nho. Anh ngồi xuống mép giường. “Anh tàn tạ quá”, vợ anh nói, bất ngờ
đưa bàn tay trìu mến sờ vào má Điểu.
“Anh…”
“Anh trông giống như con chuột
cống muốn chạy trốn vào hang”. Anh như bị một cái tát bất ngờ. “Đến nỗi như thế
à?” Anh nói với giọng cay đắng, “như một con chuột cống à?”.
“Mẹ sợ anh bắt đầu rượu chè trở
lại, đó là cố tật của anh, vô độ, suốt ngày đêm…”.
Điểu nhớ lại những cảm giác say
mèm kéo dài, cái đầu nóng bừng và cổ họng khô khốc, bụng đau cơ thể nặng như
chì, những ngón tay tê cống và trí óc bạc nhược. Nhiều tuần liền như một người
sống trong hang động bị nhốt kín giữa bốn bức tường rượu mạnh.
“Nếu anh đã bắt đầu uống lại,
anh sẽ kết liễu đời mình bằng rượu và chẳng tốt đẹp gì khi mà con chúng ta đang
thực sự cần anh. Anh ses4 chết, anh Điểu à”.
“Anh không bao giờ uống lại theo
cách đó”, Điểu nói. Quả thật là cái dư vị tân bạo sau cơn say bí tỉ giống như
mãnh hổ vồ lấy anh, nhưng anh đã vuột khỏi nhanh vuốt của nó. Nhưng nếu Himiko
không giúp đỡ thì sự thể sẽ ra sao? Chẳng phải anh đã lại một lần trôi giạt
trên đại dương tối tăm, tuyệt vọng hàng chục tiếng đồng hồ đó ư? Anh không chắc
mình có thể tự thoát được hay không, và cũng không thể đề cập đến Himiko khiến
cho việc thuyết phục vợ về khả năng kháng cự sự quyến rũ của rượu đối với anh
trở thành khó khăn.
“Anh Điểu, em rất muốn anh sống
đàng hoàng. Đôi khi em nghĩ rằng, đến giây phút quyết định thực sự, hoặc là anh
sẽ say sưa hoặc là anh sẽ bị ám ảnh bởi một giấc mơ điên rồ nào đó và chỉ sống
như người đi trên mây”.
“Sống với nhua ngần ấy thời gian
mà em vẫn còn nghi ngờ như thế về ông chồng của em à?” Điểu nói một cách bong
đùa, nhưng vợ anh thì không dập vào cái bẫy ngon ngọt của anh, ngược lại nàng
tiếp tục châm chích:
“Anh biết không, anh thường mơ
về chuyện đến châu Phi và nói mớ bằng thổ ngữ Swahili! Từ trước đến nay em đã
giữ im lặng về chuyện này, nhưng em biết anh không thực lòng ước muốn một cuộc
sống yên ổn, đàng hoàng với vợ con. Đúng thế không anh Điểu?”.
Điểu im lặng nhìn bàn tay khô
héo của vợ đang đặt trên đầu gối mình. Sau đó, giống như một đứa con nít phản
khảng một cách yếu ớt vì bị rầy la, mặc dù anh nhận ra rằng mình đã xử sự không
đúng, anh lên tiếng: “em nói anh mơ bằng tiếng Swahili, vậy anh nói cái gì
thế?”.
“Em không nhớ anh Điểu ạ. Em
luôn luôn nửa tỉnh nửa mê, hơn nữa em không biết tiếng Swahili”.
“Thế thì tại sao em tin chắc đó
là tiếng Swahili?”.
“Những từ ngữ nghe rất giống
tiếng gào của loài dã thú mà ngôn ngữ văn minh không có”.
Điểu im lặng, buồn bả suy gẫm
nhận thức sai lầm của vợ về bản chất của thổ dân Swahili.
“Cách đây hai hôm và mới tối hôm
qua nữa, mẹ cho em biết anh đang ở một bệnh viện khác, em nghi anh đã say sưa
hay trốn đi đâu đó. Quả tình là em đã nghi ngờ đấy anh Điểu ạ”.
“Anh đã quá rối trí để nghĩ đến
những chuyện như thế”.
“Nhưng sao mặt anh lại đỏ lên
kìa!”.
“Vì anh điên lên rồi”, Điểu trả
lời một cách cộc lốc. “Tại sao anh phải trốn chạy chứ? Với đứa con vừa sanh và
mọi chuyện…”.
“Nhưng khi em nói với anh em có
mang, chẳng phải là anh đã nổi gai ốc lên sao? Anh Điểu, anh có thực sự muốn
một đứa con không?”.
“Dù gì đi nữa, mọi chuyện cũng
phải chờ cho đến khi con nó hồi phục – đó là tất cả vấn đề lu2c này”, Điểu lên
tiếng cố làm giảm bớt sự căng thẳng.
“Đó là tất cả vấn đề đấy anh
Điểu.Và con có hồi phục được hay không là tùy thuộc vào bệnh viện anh chọn và
tùy thuộc vào khả năng của anh. Em không thể bước ra khỏi giường, cũng chẳng
được ai nói cho biết bệnh tình của con mình ra sao. Em chỉ còn tùy thuộc vào
anh thôi, anh Điểu ạ”.
“Thôi được,
để anh lo”.
“Không biết
em có thể trông cậy vào anh chuyện săn sóc ho con được không, và em đã nghĩ
rằng em chưa hiểu anh trọn vẹn. Anh Điểu, anh có phải loại người có trách nhiệm
với con cái ngay cả việc phải hy sinh bản than mình không?” Vợ anh hỏi: “Anh có
phải loại người can đảm và có trách nhiệm không?”.
Điểu thường
nghĩ, nếu anh đã từng tham chiến, anh có thể khẳng định được mình có phải là
loại người can đảm hay không. Ý tưởng này đã đến với anh trước những cuộc tranh
đấu, những kỳ thi và ngay cả trước cuộc hôn nhân của anh. Và thường anh đã hối
tiếc vì không có câu trả lời khẳng định. Ngay cả lòng khát khao được tự trắc
nghiệm mình ở vùng châu Phi hoang dã, đối nghịch lại với những điều bình
thường, đã từng làm anh kích động với cảm giác rằng anh có thể phát hiện ra câu
trả lời trong quá trình đấu tranh với chính mình. Nhưng ngay lúc này Điểu biết
mà không cần viện đến chiến tranh hay cuộc thám hiểm châu Phi rằng anh không
phải là hạng người được tin cậy:một loại người hèn nhát.
Tức tối vì
sự im lặng của anh, vợ Điểu nắm chặt bàn tay đang để trên đùi anh. Điểu ngập
ngừng đặt bàn tay mình lên tay vợ:bàn tay ấy nóng ran lên biểu lộ vẻ đang cố
nén giận với một thái độ thù nghịch.
“Anh Điểu,
em tự hỏi anh có phải là hạng người ruồng bỏ kẻ yếu đuối khi người đó cần đến
mình nhất hay không – theo cái cách mà anh đã ruồng bỏ bạn của anh ấy”,vợ Điểu
mở to đôi mắt rụt rè như muốn quan sát phản ứng của Điểu”, … cậu bé Kikuhiko
phải không?”.
Kikuhiko!
Điểu nghĩ. Người bạn nhỏ tuổi hơn anh từ những ngày còn để chỏm ở thị trấn,
Kikuhiko đã từng lẽo đẽo theo Điểu như hình với bóng. Một hôm, tại thị trấn lân
cận, hai người đã có một kỷ niệm đặc biệt. Nhận công việc săn đuổi một người
điên đã trốn thoát khỏi bệnh viện tâm thần, họ đã đạp xe lang thang khắp phố
suốt đêm. Trong khi Kikuhiko nhanh chóng buồn chán công việc, bắt đầu làm trò
hề, và cuối cùng đánh mất chiếc xe đạp mà cậu đã mượn ở bệnh viện, thì sự say
mê của Điểu chỉ tăng lên khi anh nghe những thị dân bàn tán về người điên, và
anh vẫn hăng hái tìm kiếm suốt đêm ròng. Kẻ mất trí tin chắc rằng thế giới hiện
hữu này là địa ngục, và anh ta khiếp sợ những con chó mà anh cho là ma quỉ trá
hình. Lúc rạng sáng, một đàn chó săn giống Đức của bệnh viện được thả ra đi tìm
dấu vết người điên, mọi người đồng ý rằng anh ta sẽ chết vì hoảng sợ nếu những
con chó cất tiếng sủa. Vì vậy Điểu tìm đến sáng mà không một giây phút nghỉ
ngơi. Khi Kikuhiko khăng khăng đòi bỏ cuộc săn đuổi và trở về nhà, Điểu nổi cơn
giận, nhục mạ cậu bạn trẻ. Anh nói với kikuhiko rằng anh biết rõ chuyện quan hệ
tình cảm của cậu ta với một người Mỹ đồng tính luyến ái trong CIA. Trên đưởng
trở về nhà trong chuyến tàu chót của đêm, Kikuhiko nhìn thấy Điểu vẫn đạp xe
trong đêm tối háo hức đi tìm người điên. Chồm người ra cánh cửa sổ, cậu ta la
lên gần như khóc”… anh Điểu ơi, em sợ lắm!”.
Nhưng Điểu
đã bỏ rơi người bạn đáng thương của mình và tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng anh
chỉ đạt được mục tiêu khi phát hiện ra người điên treo cổ trên một ngọn đồi
giữa thị trấn, nhưng kinh nghiệm ấy đã đánh dấu một sự chuyển tiếp trong cuộc
đời anh. Sáng hôm đó, cỡi xe đi bên cạnh người đạp xe ba gác chở thi thể người
điên, Điểu đã linh cảm rằng chẳng bao lâu anh cũng sẽ nói lời từ biệt cuộc đời
của một kẻ phạm tội. Mùa xuân tiếp đó, anh vào học một trường đại học ở Tokyo.
Chiến tranh Triều Tiên tiếp diễn, và Điểu đã sợ hãi vì những lời đồn đại cho
rằng những thanh niên chôi bời lêu lỏng ở tỉnh lỵ sẽ bị bắt vào những đơn vị
cảnh sát và đưa xuống tàu thủy chuyển đến Triều Tiên. Những điều gì đâ xảy ra
cho Kikuhiko sau khi Điểu đã bỏ rơi cậu ta trong đêm đó? Đối với anh, no như
một bóng ma nhỏ bé đã trôi nổi bềnh bồng từ bong đêm quá khư và nói lời chào
anh.
“Những điều
gì khiến em muốn tấn công anh với chuyện đã qua như chuyện Kikuhiko vậy? Anh đã
quên nó ngay sau khi anh kể với em chuyện đó rôi mà”.
“Nếu chúng
ta có một đứa con trai, em nghĩ sẽ đặt tên là Kikuhiko”, vợ anh nói.
Đặt tên cho
nó! Nếu như thằng bé quái dị ấy cũng có được một cái tên! Điểu co rúm người
lại.
“Anh Điểu,
em nghĩ có lẽ m sẽ ly dị anh, nếu anh bỏ rơi con chúng ta”. Vợ anh nói. Nàng
nằm chóng hai chân trên giường, đưa mắt nhìn màu xanh tràn ngập bên khung cửa
sổ, lập lại rõ rang từng chữ một.
“Ly dị à?
Chúng ta không thể ly dị được”.
“Có thể
không, nhưng chúng ta nên tranh luận chuyện này lâu dài, anh Điểu”. Điểu nghĩ,
cuối cùng khi được xác định rằng mình là hạng người hèn nhát không đáng được
tin cậy, anh sẽ bị thải ra lề sống cuộc đời sầu muộn còn lại như một thằng đàn
ông không xứng đáng làm chồng. Ngay lúc này, trong khu chăm sóc tràn đầy ánh sáng
ở bệnh viện đó, đứa bé đang yếu dầm và sắp chết. Và tôi đang cược tương lai
cuộc hôn nhân của chúng tôi vào chuyện tôi có đầy đủ trách nhiệm cho sự hồi
phục của đứa bé hay không – tôi đang hơi ván bài mà biết trước mình sẽ thua.
Tuy nhiên, vào lúc này, Điểu chỉ có thể chứng tỏ trách nhiệm của mình. “Con nó
sẽ không chết”, anh nói lấp lửng.
Vừa lúc đó
mẹ vợ anh mang trà vào. Vì bà không trao đổi những tín hiệu ngầm ở hành lang và
vợ Điểu cố tình giấu mẹ mình chuyện hiềm khích giữa hai người, nên lần đầu tiên
cuộc trà đàm gọn nhẹ của họ chỉ toàn chuyện thông thường, Điểu cũng cố kể câu
chuyện khôi hài vô duyên về đứa bé không có gan và ông cha nhỏ cn của nó.
Để cho chắc,
Điểu quay nhìn những cánh cửa sổ bệnh viện và dòm chừng những người khuất sau đám cây sum suê cành lá trước
khi bước đến chiếc xe hơi thể thao màu đỏ. Himiko đang ngủ say, chèn người dưới
tay lái như bị nhét vào túi ngủ, đầu kê lên ghế ngồi. Khi Điểu khom người lay nàng
dậy, anh cảm thấy mình như được thoát khỏi vòng vây của những người xa lạ và
trở về với gia đình thực sự của mình. Như kẻ phạm tội, anh nhìn lui những cành
cây rẻ quạt đang xào xạc trên ngọn cao. “Hi, Điểu!” Từ trong chiếc MG, Himiko
chào anh giống như một nữ sinh viên Mỹ rồi ngọ nguậy ra khỏi tay lái và mở cửa
cho anh, Điểu bước nhanh lên xe.
“Chạy đến
căn hộ anh trước, chắc em không phiến chứ? Trên đường đến bệnh viện kia chúng
ta có thể ngừng ở nhà băng”.
Himiko de x
era đường và bất ngờ rồ máy tăng tốc độ, Điểu mất thăng bằng, vẫn dựa lưng vào
thành ghế, nói với Himiko trên đường đến nhà:
“Em tin chắc
mình đã tỉnh ngủ rồi chứ? Hay em nghĩ rằng mình đang bay trên đường cao tốc
trong mơ?
“Dĩ nhiên em
tỉnh rồi! Em mơ thấy mình đang làm tình với anh”.
“Lúc nào em
cũng nghĩ đến chuyện đó hay sao?” Điểu ngạc nhiên hỏi.
“Vâng, sau
cuộc truy hoan như tối qua. Chuyện này không hẳn thường xảy ra, và ngay cả với
anh cái trạng thái căng thẳng như thế cũng không kéo dài mãi mãi. Anh Điểu này,
nếu như anh biết phải làm gì để biến cuộc sống thành một bài ca tuyệt diệu thì
quả là thú vị lắm phải không? Trước khi chúng ta trải qua cái kinh nghiệm ấy,
cả anh lẫn em cũng không thể che dấu sự
chán chường khi trần truồng nhìn nhau”.
Nhưng chúng
ta chỉ mới bắt đầu mà! – Điểu bắt đầu lên tiếng trong lúc bàn tay điên cuồng
của Himiko trên tay lái làm chiếc MG khuấy tung con đường lát sỏi rồi lao thẳng
vào khu vườn.
“Năm phút
nữa anh sẽ xuống, bằng ấy thời gian em cố thức nhé. Em không thể mơ mộng nhiều
trong năm phút được đâu!” Trong phòng ngủ trên lầu, Điểu tập trung vài thứ mà
anh cần ngay trước mắt khi ở lại nhà Himiko. Anh mang chiếc xe nôi của con trên
lưng: nó giống như một cổ áo quan bé nhỏ, màu trắng. Vật cuối cùng anh gói theo
là quyển tiểu thuyết được viết bằng tiếng Anh của một nhà văn châu Phi. Sau đó,
anh lấy những tấm bản đồ châu Phi treo trên tường xuống, cuộn lại một cách cẩn
thận rồi nhét vào túi áo khoác.
“Chúng là
bản đồ chỉ đường phải không?” Himiko nhìn vào túi áo khoác của Điểu bằng đôi
mắt tinh tế và hỏi. Họ lại quay ra đường, lái xe thẳng đến ngân hàng.
“Đúng
thế.Những tấm bản đồ này em có thể sử dụng được”.
“Như thế thì
em có thể tìm ra một con đường tắt đến bệnh viện của đứa bé trong khi anh vào
nhà băng”.
“Đùa cho vui
vậy thôi. Đây là những tấm bản đồ châu Phi”, Điểu nói, “những tấm bản đồ chỉ
đường đầu tiên mà anh có”.
“Có lẽ sắp
đến lúc anh có thể sử dụng chúng rồi đấy”. Himiko lên tiếng pha một chút chế
giễu.
Để cho
Himiko nằm thu người dưới tay lái và bắt đầu rơi vào giấc ngủ, Điểu vào văn
phòng đóng viện phí cho con. Nhưng thiếu tên đứa bé lại sinh ra vấn đề. Điểu
trả lời những câu hỏi liên tục của cô nhân viên ở vuông cửa phòng tiếp tân và
cuối cùng anh lên tiếng phản đối: “Con tôi sắp chết rồi. Có thể nó chết rồi
cũng nên. Vậy thì xin cô vui lòng cho tôi biết tại sao tôi buộc phải cho nó một
cái tên?” Anh bướng bỉnh nói:
Cô nhân viên
bối rối một cách đáng thương, đành chịu thua. Khi thốt lên những lời như vậy,
lúc ấy Điểu có cảm tưởng mà không lý do đặc biệt nào rằng thằng bé đã chết rồi.
Anh lại còn hỏi thăm để làm thủ tục giải phẫu và tang ma.
Nhưng viên
bác sĩ gặp Điểu ở khu chăm sóc đặc biệt đã làm cho anh tỉnh ngộ ngay”. Anh căn
cứ vào đâu mà nôn nóng chờ cái chết của con anh vậy? Viện phí ở đây không cao,
anh biết đó! Và anh phải có bảo hiểm y tế. Thực tế là con anh đang yếu, nhưng
dù sao đi nữa nó vẫn còn sống. Vì vậy tại sao anh không thư giãn đi một chút và
hành xử như một người cha? Anh thấy sao?”.
Điểu viết số
điện thoại của Himiko vào quyển số nghi nhớ của viên bác sĩ và yêu cầu ông ta
gọi cho anh khi có điều gì xảy ra. Anh cảm thấy mọi người trong khu chăm sóc
đặc biệt xem anh như một vật đáng ghê tởm, vì thế anh đi thẳng ra xe, không
dừng lại để nhìn vào lồng ấp con mình. Sauk hi chạy dưới trời nắng và qua khu
bệnh viện, người Điểu cũng ướt sũng mồ hôi chẳng kém gì Himiko đang ngủ trong
xe mở cửa.
Suốt buổi
chiều hôm đó, họ chỉ chú ý đến điện thoại. Ngay cả lúc phải đi mua đồ ăn tối,
Điểu cũng ở nhà, sợ điện thoại reo trong khi anh ra ngoài. Sau bữa cơm tối, họ
nghe một nghệ sĩ Nga quen thuộc biểu diễn dương cầm trên radio, nhưng với âm
lượng thật nhỏ để có thể nghe được tiếng chuông điện thoại reo. Cuối cùng Điểu
ngủ thiếp đi, nhưng trong giấc mơ anh vẫn thức, nghe tiếng chuông ma quái reo
lên và bước tới máy điện thoại để kiểm tra. Anh nhấc ống nghe và nghe tiếng của
viên bác sĩ cho biết cái chết của đứa bé. Vào khoảng nửa đêm, Điểu lại thức
giấc, anh cảm thấy căng thẳng như một tên tội phạm giết người trong thời gian
tạm hoãn án hành quyết. Và anh khám phá ra mình có được nguồn động viên sâu xa,
mãnh liệt khi có Himiko bên cạnh suốt đêm chứ không phải một mình. Từ khi
trưởng thành đến giờ, anh chưa một lần cần một người khác đến như vậy. Đây là
lần đầu tiên.
9
Sáng hôm
sau, Điểu lái xe của Himiko đến trường.Đậu trong sân trường đầy sinh viên, chiếc
MG màu đỏ đập vào mắt mọi người, điều đó chẳng làm cho Điểu quan tâm cho đến
khi anh bỏ chìa khóa xe vào túi.Từ khi găp chuyện rắc rối về đứa con, Điểu cảm
thấy đầu óc mình trống rỗng.
Với nét mặt
cau có, Điểu lách qua nho1msinh viên đang dạo quanh chiếc xe. Trong phòng giáo
viên, ông khoa trưởng của anh, một người nhỏ con mặc chiếc áo khoác sặc sỡ lệch
sang một bên theo cách của người Mỹ gốc Nhật, thông báo cho anh biết rằng vị
hiệu trưởng muốn gặp anh. Nhưng rõ ràng
lời thông báo ấy cũng chẳng làm cho Điểu quan tâm.
“Anh Điểu,
anh thật sự là một vị…” ông khoa trưởng nói một cách vui vẻ, như thể bong đùa,
trong khi đó thì ông dò xét Điểu bằng đôi mắt tinh tế, “Tôi chẳng biết anh có
phải là người can đảm hay chỉ trơ tráo, nhưng chắc chắn anh rất dũng cảm!”.
Tự nhiên,
Điểu không thể nào không co rúm người lại khi anh bước vào giảng đường rộng
lớn, ở đó đám sinh viên đang đợi anh. Nhưng đây là nhóm ở lớp khác, hầu hết họ
không hay biết gì chuyện mất mặt ngày hôm qua của anh. Điểu tự động viên bằng ý
nghĩ như thế. Trong suốt thời gian giảng bài, anh để ý đến vài sinh viên biết
rõ sự việc, nhưng họ lại là dân thành phố, sống buông thả. Đối với họ, sự cố
của Điểu chỉ lố bịch và pha một chút quả cảm. Thậm chí, họ còn nháy mắt cười
với anh một cách lém lỉnh, đầy thiện cảm. Dĩ nhiên Điểu lờ đi.
Khi Điểu rời
lớp học, một chàng sinh viên đang chờ anh trên đầu cầu thang xoắn ốc. Đó là
người đã bảo vệ anh thoát khỏi cơn thịnh nộ của lớp học ngày hôm trước. Không
những sinh viên đó đã bỏ giờ học trong lớp mà cậu ta còn đứng dưới nắng chờ
Điểu. Những giọt mồ hôi lấp lánh trên hai cánh mũi và chiếc áo vải bong chéo
màu xanh của cậu ta lấm tấm bùn nơi bậc thang cậu ta đang ngồi.
“Chào thấy!”
“Chào em!”
Điểu đáp lại.
“Em đánh
cuộc là thầy hiệu trưởng gọi thầy. Rõ ràng
thằng ngốc đó đã đi mach lẻo với thầy hiệu trưởng về câu chuyện của
thầy, hắn có cả bức hình thầy nôn mửa được chụp bằng một máy ảnh bỏ túi nữa!”
Chàng sinh viên cười điệu, lộ cả hai hàm răng lớn, trắng muốt.
Điểu cũng
cười. Có thể nào kẻ tố cáo anh lúc nào cũng mang theo máy ảnh bỏ túi, rình rập
với hy vọng chộp đúng cái giây phút mềm yếu của anh để làm bằng chứng buộc tội?
“Hắn nói với
thầy hiệu trưởng thầy đến lớp vẫn còn say, nhưng năm sáu đứa bọn em muốn làm
chứng rằng thầy đã bị ngộ độc thức ăn. Tụi em nghĩ tốt nhất là nên gặp thầy
trước để bàn chuyện”. Chàng trai nói một cách láu lỉnh, ra vẻ một kẻ thấy trời
không thấy trán nhưng rất tự mãn..
“Em và các
bạn lầm rồi. Tôi có say. Tôi có lỗi như lời tố cáo của con người trong sạch
đó”. Điểu vượt qua mặt chàng sinh viên và bước xuống cầu thang.
“Nhưng thưa
thầy!” chàng trai vẫn kiên trì bám theo Điểu, “thầy sẽ bị sa thải nếu thú nhận
điều đó. Thầy hiệu trưởng là người đứng đầu chi hội Cấm Rượu địa phương, nhân
danh Chúa!”.
“Em đang
đùa!”
“Thì tại sao
ta không cho là bị ngộ độc thức ăn? Mùa này thường xảy ra như thế mà – thầy có
thể nói rằng tiền lương ở đây quá thấp nên thầy đã ăn nhằm đồ thiu”.
“Tôi nghĩ
rằng chuyện say sưa chẳng có gì phải lừa dối cả. Và tôi không muốn em nói dối
cho tôi”.
“Hừmmm!”
chàng trai buộc miệng lên tiếng “Thưa thầy! Thầy sẽ đi đâu khi thầy rời khỏi
nơi này?”.
Điểu cố phớt
lờ câu hỏi chàng sinh viên. Anh không đủ sức để hết tâm trí vào bất kỳ một ý đồ
mới nào.Anh khám phá ra rằng mình đã thiếu tự tin một cách lạ thường, mặc dù
trong ý thức anh nghĩ rằng mình cần phải làm một điều gì đó với những lỗi lầm
kia.
“Dù sao, có
lẽ thầy không cần một chỗ làm tại trường luyện thi.Thầy hiệu trưởng sẽ cảm thấy
hết sức ngớ ngẩn khi phải sa thải một giáo viên lái chiếc MG đỏ. Thầy hả!”.
Đểu bỏ đi để
tránh tiếng cười sảng khoái của chàng sinh viên và bước vào phòng giáo viên.Anh
đang bỏ hộp phấn cũ và tập văn tuyển vào hộc tủ của anh thì thấy một phong thư
gởi cho anh. Đó là lá thư ngắn của người bạn bảo trợ nhóm sinh viên nghiên cứu
cho biết trong một cuộc họp đặc biệt của họ, những người khác phải quyết định
về chuyện cần làm gì cho ông Delchef. Điểu đã xé phong thư và sắp sửa đọc thì
anh nhớ lại chuyện mê tín đáng buồn cười thời kỳ sinh viên của mình về khả năng
có thể xảy ra – khi phải đối mặt với hai chuyện vặt cùng một lúc và chẳng biết
điều gì sẽ xảy ra, nếu chuyện này mang đến may mắn thì chuyện kia sẽ gây ra tai
họa – rồi nhét lá thư vào túi quần mà không đọc. Nếu cuộc gặp gỡ với vị hiệu
trưởng quá tồi tệ, anh sẽ có lý do vững chắc để hy vọng rằng lá thư trong túi
của anh mang lại điều tốt lành nhất.
Vẻ mặt của
vị hiệu trưởng khi ngồi ở bàn làm việc nhìn lên báo cho Điểu biết rằng cuộc gặp
này hàm chứa một tai họa. Anh phó mặc cho số phận, ít nhất anh cũng cố vui bất
cứ lúc nào có thể được trong cuộc gặp gỡ này.
“Anh Điểu,
chúng tôi đã có trong tay vài tin tức mâu thuẫn nhau về anh. Nói thực với anh
cũng khó xử cho tôi đấy”. Vị hiệu trưởng nói với giọng của một nhà tư bản sắc
sảo trong một bộ phim nói về một tập đoàn kinh doanh, vừa giáo điều vừa khắt
khe. Còn ở độ tuổi giữa ba mươi, con người này đã chuyển một cơ sở giáo dục
bình thường thành một trường dự bị đại học đang phát triển và bây giờ đang có ý
định thành lập một đại học cấp thấp. Cái đầu vồ của ông ta được hớt nhẵn bóng
và mang đôi kính đặt riêng – hai tròng kính hình bầu dục gắn với cái gọng dày
và thẳng – làm nổi bật khuôn mặt không cân xứng của ông. Tuy nhiên, trong đôi
mắt tội lỗi ẩn sau cặp kính phô trương kia có một điều gì đó luôn luôn gây cho
Điểu một tình cảm êm dịu đối với ông.
“Tôi biết
thầy đang nhắc đến điều gì. Và tôi có lỗi”.
“Sinh viên
phàn nàn anh là một cộng tác viên thường xuyên cho tờ báo của trường – một anh
chàng khó tính. Có thể sự việc sẽ rắc rối nếu anh ta làm to chuyện đấy…”.
“Vâng, dĩ
nhiên. Tốt hơn là tôi xin nghỉ dạy ngay”, Điểu nhanh miệng nói, chủ động giải
quyết để làm nhẹ gánh nặng cho vị hiệu trưởng. Vị hiệu trưởng khịt mũi một cách
quá đáng rồi làm ra vẻ thảm hại.
“Tất nhiên,
giáo sư sẽ khó chịu…” ông ta lên tiếng như muốn yêu cầu Điểu tự giải thích hoàn
cảnh của mình với cha vợ.
Điểu gật
đầu. Anh có cảm giác rằng mình sẽ điên tiết nếu không rời khỏi văn phòng ngay
tức thì.
“Anh Điểu,
còn một điều nữa. Dường như có một số sinh viên cứ khăng khăng rằng anh bị ngộ
độ thức ăn và đang ba hoa về chuyện này. Họ khai là anh cho họ biết như vậy.
Điều này không đúng phải không anh Điểu?”.
Điểu đánh
mất nụ cười và lắc đầu. “Thôi, tôi không muốn làm mất thì giờ của thầy nữa”,
anh lên tiếng.
“Anh Điểu,
tôi rất buồn về tất cả chuyện này”, vị hiệu trưởng nói với giọng đầy chân
thành. Đôi mắt to sau cặp kính hình bầu dục tối sầm lại với vẻ xúc động. “Tôi
luôn luôn mến anh, anh là người có cá tính! Thật sự anh đã say phải không?”.
“Vâng, tôi
say”, Điểu trả lời và anh rời khỏi phòng. Thay vì trở lại phòng giáo viên, anh
quyết định đi tắt qua phòng bảo vệ, ngang qua sân chơi đến chỗ đậu xe. Lúc này
anh muốn phó mặc mọi chuyện, và cảm thấy mình bị bẽ mặt một cách bất công.
“Thưa thầy,
thầy bỏ chúng tôi sao? Thật là đáng tiếc khi thấy thầy phải đi”, người gác cổng
buộc miệng lên tiếng. Như vậy là những tin tức về sự cố đã lan truyền, Điểu là
người được long phòng bảo vệ.
“Nếu ở lại
thì tôi chỉ làm phiền thêm cho nàh trường thôi”, anh trả lời, buồn bã nghĩ rằng
mình không xứng đáng với tình cảm biểu lộ trên khuôn mặt nhăn nheo của ông già
gác cổng.
Anh chàng
sinh viên tự nguyện ủng hộ Điểu đang ngồi trên cửa xe MG, mặt cau có như một
ông già dưới ánh nắng chói chang, thiêu đốt của mặt trời. Lối ra bất ngờ của
Điểu từ cửa sau phòng bảo vệ làm cho anh chàng ngạc nhiên và nhảy bổ xuống đất,
Điểu leo vào xe.
“Thế nào
rồi? Thầy có nói với ông ta là ngộ độc thức ăn và bảo vệ quyền lợi của thầy
không?”.
“Tôi đã nói
với em rồi. Tôi say”.
“Vĩ đại!
Thật là vĩ đại!” chàng trai lên tiếng giễu cợt một cách tức tối. “Thầy biết là
thầy bị sa thải mà!”.
Điểu tra
chìa khóa vào công tắc xe và mở máy. Ngay lúc ấy, đôi chân anh ướt đẫm mồ hôi,
chẳng khác nào bước vào phòng tắm hơi. Ngay cả tay lái cũng nóng đến nỗi những
ngón tay của Điểu giật nẩy lên.
“Chó má
thật!” anh nguyền rủa.
Chàng sinh
viên cười, vui thích. “Thưa thầy, thầy sẽ làm gì khi họ sa thải thầy?”.
Tôi định làm
gì khi họ sa thải tôi ư? Và còn tiền để trả cho hai bệnh viện nữa! Điểu nghĩ.
Nhưng đầu óc anh đang khô khốc dưới ánh mặt trời và không thể nghĩ ra được một
dự tính nào cho ra hồn, chỉ có những giọt mồ hôi tuôn ra như suối. Với trạng
thái bực bội một cách mơ hồ, Điểu phát hiện ra mình lại thiếu tự tin.
“Tại sao
thầy không trở thành một hướng dẫn viên du lịch? Khi ấy thầy sẽ không còn lo đến
chuyện kiếm vài đồng yên bần tiện ở cái trường sa thải thấy, thầy có thể bòn
mót những đồng đô la từ những khách du lịch nước ngoài kia mà!”
“Em biết
dịch vụ du lịch ở đâu không?” Điểu quan tâm hỏi:
“Em sẽ tìm…
em có thể gặp thầy ở đâu?”.
“Có thể
chúng ta sẽ gặp nhau sau giờ học tuần tới”.
“Để em lo!”
chàng sinh viên reo lên với niềm hưng phấn.
Điểu cẩn
thận lái chiếc xe thể thao ra đường. Anh đã muốn tống khứ chàng sinh viên để
đọc lá thư trong túi áo. Nhưng khi tăng tốc độ, anh nhận ra rằng mình đang có
cảm giác biết ơn cậu ta. Nếu chàng sinh viên đó không đặt anh vào một tình cảnh
vui vẻ khi anh lái chiếc xe thể thao đầy bụi rời khỏi công việc mà anh đã mất –
anh sẽ cảm thấy bất hạnh làm sao! Chắc chắn anh sẽ nhận được sự giúp đỡ của
nhóm bạn trẻ để vượt qua những tình huống khó khăn. Điểu nhớ là mình cần xăng
và anh lái xe đến trạm xăng. Sau một phút suy nghĩ, anh yêu cầu kiểm tra xăng
nhớt, sau đó rút trong túi áo ra lá thư mà theo sự mê tín của thời sinh viên
thì nó sẽ toàn những tin hấp dẫn.
Ông Delchef
đã phớt lờ lời kêu gọi từ tòa công sứ và vẫn sống ở Shinjuku với cô gái giang
hồ trẻ tuổi. Không phải ông ta bị vỡ mộng về mặt chính trị với tổ quốc mình,
cũng không có ý định hoạt động gián điệp hay đào ngũ. Đơn giản là ông ta không
thể rời cô tình nhân người Nhật đặc biệt này. Đương nhiên tòa công sứ sợ nhất
là vụ của Delchef được lợi dụng về mặt chính trị. Nếu có một chính phủ phương
Tây nào dung ảnh hưởng của họ để phát động một mặt trận tuyên truyền, dựa trên
cơ sở cuộc sống của Delchef như một người chống đối chế độ, thì hậu quả chắc chắn
sẽ không lường được. Theo đó, chính phủ của ông Delchef nôn nóng đưa ông về lại
tòa công sứ càng nhanh càng tốt để trả ông về nước, nhưng sự phối hợp tìm kiếm
của cảnh sát Nhật chỉ công khai hóa sự kiện mà thôi. Nói một cách khác, nếu
chính tòa công sứ định sử dụng lực lượng cảnh sát, thì ông Delchef, người đã
tham gia kháng chiến trong suốt thời kỳ chiến tranh, chắc chắn sẽ kháng cự mãnh
liệt và cuối cùng cảnh sát sẽ lúng túng. Không còn cách nào khác, cuối cùng tòa
công sứ yêu cầu những thành viên trong nhóm nghiên cứu ngôn ngữ Slave cố gắng
càng âm thầm càng tốt thuyết phục ông Delchef từ bỏ sự điên rồ đó. Vào lúc một
giờ trưa thứ bảy, sẽ có một cuộc họp nữa tại một nhà hàng đối diện với con
đường có trường đại học mà Điểu và những người bạn trong nhóm đã tốt nghiệp.
Bạn anh viết, vì Điểu là người than thiết nhất với ông Delchef nên mọi người
đều hết sức mong muốn anh có mặt.
Thứ bảy là
ngày mốt: vâng, anh sẽ đến! Người bơm xăng, giống như một con ong tràn đầu mùi
mật quanh cơ thể, bị bao phủ bởi một làn hơi xăng độc, Điểu trả tiền và rú ga
cho xe chạy.Đoán chừng là ngày hôm nay, ngày mai hay cả ngày kia, điện thoại sẽ
không gọi đến báo tin về cái chết của con, có việc vặt để lấp đầy những giờ
phút nhức nhối của thời gian hoãn thi hành bản án đối với anh chắc chắn là một
điều may mắn. Rốt cuộc, nó là một lá thư tốt.
Điểu dừng
lại một cửa hàng thực phẩm trên đường về nhà, mua ít bia và cá hồi đóng hộp.
Đậu xe trước nhà, anh bước lên cửa chính và thấy khóa. Có thể Himiko ra ngoài
chăng? Điểu bất chợt nổi giận, hình như anh nghe tiếng điện thoại đang réo ầm
lên rất lâu mà không ai trả lời. Nhưng khi anh rảo quanh nhà và gọi thử vào
cánh cửa sổ phòng ngủ thì thấy đôi mắt của Himiko hé nhìn qua giữa bức màn cửa.
Điểu thởi dài, mồ hôi vả ra, và anh quay lại cửa trước.
“Có tin gì
từ bệnh viện không?” anh hỏi, nét mặt còn căng thẳng.
“Chẳng có gì
anh Điểu à”.
Điểu cảm
thấy mình như đã phung phí quá nhiều năng lượng khi leo lên chiếc xe hơi thể
thao màu đỏ và chạy vòng quanh Tokyo vào một ngày hè. Anh nhận ra mình đã quá
sức mệt mỏi khi dồn hết tâm lực vào tin tức về cái chết của thằng bé, Điểu nói
cộc lốc: “Sao ban ngày mà em khóa chặt cửa vậy?”.
“Em cảm thấy
sợ. Em có cảm tưởng một con yêu quái mang điều bất hạnh khủng khiếp đang chờ em
bên ngoài”.
“Một con yêu
quái đeo đuổi em à?” Điểu bối rối nói: “Theo anh thì chẳng có gì nguy hiểm đối
với em trong lúc này cả”.
“Lâu rồi kể
từ khi chồng em tự tử, em chưa hề có cảm giác đó. Anh Điểu, chẳng phải anh đã
nói với giọng ngạo mạn đáng kinh ngạc rằng anh là người duy nhất phải canh
chừng những con yêu tinh của sự bất hạnh sao?”.
Đó là một cú
đòn trời giáng. Và Điểu khỏi bị đo ván chỉ vì Himiko quay lưng bỏ đi về phòng
ngủ mà không them bồi thêm cú thứ hai.
Nhìn vào đôi
vai trần đẫy đà của Himiko, Điểu len qua cái không khí nặng nề, âm ấm của phòng
khách tối tâm và bước vào phòng ngủ lúc anh đã bình tâm. Một cô gái to con trạc
tuổi Himiko, không còn trẻ nữa, đang nằm ườn người trên giường dưới làn khói
thuốc bay lơ lửng trong phòng giống như đám mây khí lỏng, tay và vai nàng lộ
trần ra.
“Anh Điểu,
lâu lắm mới gặp”, cô gái chào anh bằng giọng khàn đục.
“Chào cô!”
Điểu lên tiếng, chưa hết bối rối.
“Em không
muốn một mình chờ điện thoại gọi đến, vì vậy em nhờ nó đến”.
“Hôm nay cô
không đi làm à?” Điểu hỏi. Cô gái này cũng là một bạn học của Điểu ở khoa Anh
ngữ. Hai năm sau khi tốt nghiệp, cô ta chẳng làm gì ngoài chuyện vui chơi. Như
hầu hết những cô gái cùng trường đại học với Điểu, cô đã từ khước mọi việc làm bởi
vì cô cho rằng chúng không xứng với tài năng của mình. Cuối cùng, sau hai năm
ăn không ngồi rồi, cô đã trở thành người thực hiện chương trình cho một đài
phát thanh hạng ba chỉ phát song trong khu vực địa phương.
“Tất cả
chương trình của em đều phát sau nửa đêm. Anh nên nghe những giọng nói như rót
mật vào tai mà các cô phát thanh viên muốn ru ngủ khán giả bằng giọng cổ của
họ”, cô gái nói với giọng ngọt như đường. Điểu nhớ lại những vụ lăng nhăng tai
tiếng của cô làm liên lụy đến đài phát thanh, nói đã thu nạp cô một cách quá
hào hiệp. Và anh cũng nhớ như in nỗi kinh tởm của anh đối với cô ta trong thời
kỳ sinh viên khi cô không những chỉ bự con mà còn mập ú, có một cái gì đó khiến
cho anh không bao giờ có thể đặt tay lên đôi mắt và cái mũi gợi cho anh nhớ đến
nhười bán hàng rong. “Chúng ta có thể làm gì được với đám khói này?” Điểu nói
một cách dè dặt rồi đặt bia và hộp cá hồi lên chiếc tivi.
Himiko xuống
nhà bếp mở cửa thông gió. Nhưng bạn nàng không quan tâm đến đôi mắt xoi mói của
Điểu, đốt điếu thuốc mới kẹp giữa những ngón tay thô ráp với móng tay sơn bạc.
Trong ánh sáng của đốm lửa vàng cam trên điếu thuốc Dunhill bạc, Điểu nhìn thấy
những nếp nhăn trên chân mày và những đường gợn song trên mí mắt có quầng thâm của
cô ta, mặc dù mái tóc xỏa lửng trên khuôn mặt. Một cái gì đó đang gặm nhắm cô
gái: Điểu trở nên cảnh giác.
“Các cô
không thấy nóng à?”.
“Lạy Chúa,
em nóng đến sắp lả người đây”. Bạn của Himiko nói một cách u sầu. “Mà không khí
trong phòng tù túng khi anh đang chuyện trò vui vẻ với thân thì cũng thấy khó
chịu thật”.
Trong khi
Himiko đang lăng xăng dưới bếp, xếp bia vào ngăn đá, quét bụi những hộp thực
phẩm và xem xét nhãn hiệu thì cô bạn của nàng nằm trên giường nhìn với vẻ chê
bai. Điểu nghĩ, con khỉ gió này có lẽ sẽ hết sức thích thú khi tung ra những
tin tức nóng hổi về chúng tôi. Tôi chẳng ngạc nhiên nếu như cô ả đưa chuyện lên
đài vào một đêm nào đó.
Himiko đã
treo tấm bản đồ của Điểu lên tường phòng ngủ. Ngay cả quyển tiểu thuyết châu
Phi mà anh đã giấu trong sắc cũng nằm vãi trên sàn nhà giống như con chuột
chết. Hẳn là Himiko đang đọc sách trên giường khi bạn nàng đến. Vì thế nàng ném
nó xuống sàn, đi mở cửa rồi sau đó không nhặt lên. Điểu nổi cáu: tài sản châu
Phi của anh bị đối xử quá bất cẩn, điều này chắc là một dấu hiệu không hay. Tôi
cho rằng từ nay mình không còn cơ hội nhìn thấy bầu trời châu Phi nữa. Và không
còn tính chuyện dành dụm tiền bạc cho chuyến du hàng đó nữa, tôi vừa mất công
việc mà tôi cần có để kiếm sống qua ngày.
“Hôm nay anh
bị sa thải”, Điểu nói với Himiko. “Cả chương trình mùa hè và mọi thứ cũng tiêu
luôn”.
“Ồ! Chuyện
gì xảy ra vậy anh Điểu?”.
Điểu buộc lòng
phải nói đến chuyện say rượu, chuyện nôn mửa, chuyện tấn công không mệt mỏi của
con người đạo đức kia, và dần dần câu chuyện trở nên nặng nề, khó chịu, Điểu
mệt mỏi, cắt ngang.
“Và trước
mặt ông hiệu trưởng, anh phải bảo vệ mình mới được chứ! Nếu vài sinh viên cho
rằng vì ngộc độc thức ăn thì chẳng có gì sai để mà họ phát cáu với anh! Anh
Điểu, sao anh dễ dàng chấp nhận việc bị sa thải đến thế!”.
Đó là vấn
đề. Tại sao tôi chấp nhận chuyện sa thải một cách dễ dàng như vậy? Lần đầu tiên
Điểu cảm thấy quyến luyến cái ghế giảng viên mà anh đã mất. Đó không phải là
một thứ công việc mà anh vừa vứt bỏ một cách đùa bỡn được. Và anh biết ăn nói
làm sao với cha vợ anh? Liệu anh có thể thú nhận rằng anh sẽ say sưa vô ý thức
hôm đứa con bất bình thường của anh chào đời, và rồi sang hôm sau dư vị của cơn
say đã khiến anh xử sự một cách tồi tệ đến nỗi làm cho anh mất việc? Và về chai
Johnny Walker mà vị giáo sư đã tặng anh…
“Anh có cảm
giác rằng anh chẳng còn lý do gì để đòi hỏi quyền lợi mình một cách chính đáng.
Ngoài ra, anh quá nôn nóng cắt ngang cuộc nói chuyện với thầy hiệu trưởng, anh
hoàn toàn đồng ý mọi chuyện, thật thiếu thận trọng vô cùng”.
“Anh Điểu”,
cô bạn gái cắt ngang, “anh vừa nói anh cảm thấy mình như bị mất tất cả quyền
lợi trong thế giới này vì chỉ ngồi chờ con mình chết phải không?”.
Như thế là
Himiko đã kể cho cô bạn của nàng tất cả câu chuyện kinh tởm đó!
“Có thể là
như thế”, Điểu trả lời, bực mình vì sự vô ý của Himiko và cả sự xấc xược của cô
gái. Ngay lúc này thật dễ hình dung ra chính anh trong một vụ tai tiếng mà
nhiều người biết.
“Chính những
kẻ nghĩ rằng họ không còn quyền gì nữa trong thế giới thực tại này thì họ sẽ tự
tử. Anh Điểu, xin anh đừng tự tử”, Himiko nói:
“Có chuyện
gì mà phải tự tử!” Điểu nói với trái tim run sợ.
“Chính ngay
sau khi chồng em cảm thấy như vậy, anh ấy đã tự kết liễu đời mình. Anh Điểu,
nếu anh cũng treo cổ trong chính phòng ngủ này, thì e rằng em đúng là một mụ
phù thủy”.
“Anh không
bao giờ nghĩ đến chuyện tự tử”, Điểu tuyên bố.
“Nhưng cha
anh đã tự tử, không phải thế sao?”
“Sao em
biết?”.
“Anh đã nói
với em trong đêm chồng em tự tử để an ủi em. Anh muốn em tin tằng tự tử là
chuyện bình thường xảy ra hàng ngày”.
“Anh hẳn bị
rối loạn”, Điểu nói một cách ủ rũ.
“Anh còn kể
cho em chuyện cha anh đánh anh trước khi cụ tự tử”.
“Chuyện đó
như thế nào?” Cô bạn gái nổi tính tò mò hỏi:
Nhưng Điểu
buồn rầu im lặng, vì vậy Himiko kể lại chuyện mà nàng đã nghe.
Khi lên sáu,
một hôm Điểu đến bên cha anh hỏi: Ba ơi, một trăm năm trước khi sinh ra, con ở
đâu? Con sẽ ở đâu một trăm năm sau khi con chết? Ba ơi, điều gì sẽ xảy ra cho
con khi con chết? Chẳng nói chẳng rằng, người cha trẻ đã đấm vào miệng anh, làm
anh gãy hai cái răng, mặt đầy máu, và Điểu quên nỗi sợ chết. Ba tháng sau, cha
anh đã dùng khẩu súng lục của Đức từ thời đệ nhứt tyế chiến bắn một viên đạn
xuyên qua đầu.
“Nếu con anh
chết vì thiếu chăm sóc”, Điểu lên tiếng, nhớ lại cha mình, “ít ra anh cũng bớt
sợ được một điều. Vì anh sẽ không biết làm gì nếu con anh hỏi cùng câu hỏi khi
nó lên sáu. Anh không thể đấm thẳng tay vào miệng con mình để làm cho nó quên
đi nỗi sợ chết. Dù là tạm thời”.
“Thôi đừng
tự tử, anh Điểu, đồng ý chứ?”
“Đừng quan
tâm đến chuyện đó nữa”, Điểu đáp lại, đôi mắt dường như bắt đầu lộ vẻ hoảng
loạn của anh quay đi chỗ khác tránh cái nhìn từ đôi mắt đỏ ngầu của Himiko.
Cô bạn gái
quay qua Điểu như nàng đang chờ đợi sự im lặng của Himiko. “Anh Điểu, không lẽ
anh chỉ biết ngồi đó chờ con anh yếu dần vì uống nước đường trong bệnh viện kia
sao? Với một tâm trạng tự lừa dối mình, bất định, đầy lo âu như thế ư! Và đó
không phải là lý do để anh suy sụp đến thế chứ? Nếu thế thì không phải chỉ có
anh mà cả Himiko cũng sút ký đấy”.
“Nhưng tôi
không thể giật lấy nó mang về nhà và giết nó được”. Điểu chống chế.
“Ít ra bằng
cách đó anh mới không tự lừa dối mình, anh phải thú nhận rằng tay anh đang vấy
chàm. Anh Điểu này, bây giờ muốn thoát khỏi tên vô lại trong người anh thì quá
muộn rồi, anh phải trở thành một tên vô lại vì anh muốn đứa bé bất bình thường
kia không xâm nhập được vào ngôi nhà nhỏ bé của anh, vì có cả một thứ logic vị
kỷ liên quan đến nó. Nhưng điều anh đang làm là bỏ mặc công việc tàn bạo ấy cho
một vị bác sĩ nào đó trong bệnh viện, trong khi anh thẩn thờ lượn quanh, đóng
vai một nạn nhân hiền lành của nỗi bất hạnh từ trên trời giáng xuống, cứ như
anh thật sự là một kẻ lương thiện, và điều này quả thật là tồi tệ cho tinh thần
của anh! Anh tất cũng biết rõ như tôi là anh đang tự dối mình, anh Điểu ạ!”.
“Tự dối à?
Nếu như tôi cố thuyết phục mình rằng tay mình sạch trong lúc nôn nóng chờ con
mình chết khi không có mặt mình, chắc chắn như thế là không thành thật”. Điểu
phủ nhận: “Nhưng đàng này tôi hoàn toàn biết rằng mình sẽ chịu trách nhiệm về
cái chết của nó”.
“Tôi lấy làm
lạ đấy, anh Điểu ạ”. Cô bạn nói với vẻ không tin tưởng tí nào. “Tôi e rằng anh
sẽ gặp đủ thứ rắc rối vào giờ phút thằng bé chết, đó là hình phạt anh phải nhận
cho tội lừa dối chính mình. Và rồi Himiko phải để mắt tới anh để xem anh có tự
tử không. Dĩ nhiên lúc ấy có thể anh sẽ quay về với người vợ đang quá nhiều đau
khổ của mình”.
“Vợ tôi nói
cô ấy muốn ly dị nếu tôi chối bỏ thằng bé và để cho nó chết”.
“Một khi
người ta đã bị đầu độc bằng sự tự dối mình, người ta không hể nào tự quyết định
việc gì cho rõ ràng được”, Himiko nói như minh họa thêm cho lời tiên tri khủng
khiếp của bạn nàng. “Ah sẽ không ly dị đâu, anh Điểu ạ. Anh sẽ tìm đủ mọi cách
để bào chữa cho mình, và sẽ cứu vớt cuộc hôn nhân của mình bằng cách tung hỏa
mù những vấn đề có thực. Bây giờ thì một quyết định như ly dị đối với anh còn
xa lắm, anh Điểu ạ, chất độc bắt đầu ngấm rồi. Và anh có biết câu chuyện kết
thúc như thế nào không? Không những vợ anh sẽ tin tưởng anh một cách tuyệt đối,
mà một ngày nào đó, anh sẽ tự khám phá ra rằng toàn bộ cuộc sống riêng tư của
anh ẩn trong cái bóng của sự dối trá và cuối cùng anh sẽ tự hủy hoại mình. Anh
Điểu này, những dấu hiệu đầu tiên của sự tự hủy đã xuất hiện rồi đó!”.
“Nhưng đó là
một ngõ cụt! Xin nhường lại cho em để em tô vẽ cái tương lai vô vọng nhất mà em
có thể nghĩ đến”. Điểu tấn công lại với vẻ hài hước, nhưng cô bạn học to béo,
nặng nề vẫn khư khư gạt phắt anh: “Ngay lúc này cũng đã thấy quá rõ là anh đang
đi vào ngõ cụt đấy anh Điểu ạ”.
“Nhưng việc
vợ tôi sinh ra một đứa con bất bình thường là một tai nạn ngoài ý muốn, chả có
ai trong chúng tôi chịu trách nhiệm về chuyện này cả. Và tôi chẳng phải là một
tên côn đồ thô bạo đủ để vặn cổ thằng bé cho chết, cũng chẳng phải một vị thánh
đủ cương ngạnh để huy động tất cả bác sĩ cố cứu chữa cho nó sống bất kể nó có
thể trở thành một đứa bé tuyệt vọng như thế nào. Vì vậy tất cả những gì tôi có
thể làm được là cứ để yên nó ở bệnh viện chờ cho nó yếu dần đi và chết một cách
tự nhiên. Khi tất cả mọi chuyện qua đi, nếu tôi lo âu về chuyện tự dối mình
giống như con chuột cống chui lọt vào ngõ cụt sau khi nuốt phải bả, thì tôi
cũng không thể làm gì hơn”.
“Đó chính là
điểm sai lầm của anh đấy anh Điểu ạ. Đáng lẽ anh phải là một tên côn đồ vô lại
hoặc là một vị thánh cương ngạnh mới phải”.
Điểu chợt
bắt gặp mùi rượu thoảng trong bầu không khí có vị chua. Anh nhìn khuôn mặt to
béo của cô gái và ngay trong ánh sang lờ mờ, anh cũng thấy nó đỏ bừng và co rúm
lại giống như người bị viêm thần kinh mặt.
“Cô say rồi
phải không, tôi vừa nhận ra…”.
“Điều đó
không có nghĩa là anh thoát được mọi chuyện đâu, tôi đã nói rồi mà”. Cô gái đắc
thắng lên tiếng và chẳng giấu diếm gì khi thở hắt ra một hơi nồng nặc mùi rượu,
“tuy nhiên anh có thể chối bỏ nó đấy anh Điểu ạ. Những chút gì còn sót lại của
sự tự lừa dối mình sau cái chết của thằng bé đối với anh lúc này chưa rõ ràng lắm đâu. Anh có dám phủ nhận rằng nỗi âu lo
lớn nhất của anh bây giờ là thằng con yếu đuối của anh sẽ không chết mà lớn lên
như một hạt giống không?”.
Tim Điểu
thắt lại,mồ hôi bắt đầu tuôn ra. Anh ngồi im lặng thật lâu, giống như con chó
bị ăn đòn. Rồi không nói lời nào, anh đứng lên đi đến tủ lạnh lấy vài chai bia.
Phần chai dìm trong khay đá thì lạnh nhưng phần còn lại thì ấm – đột nhiên Điểu
mất cảm giác thèm bia. Tuy thế, anh vẫn cầm ba chai bia và ba cái ly về phòng
ngủ. Cô bạn của Himiko trong phòng khách bật đèn sang, sửa lại tóc tai, trang
điểm lại và đang mặc áo, Điểu quay lưng lại phòng khách rót đầy ly thứ bia nâu
đục một cho anh và một cho Himiko.
“Tụi này
đang uống bia đây”, Himiko gọi bạn.
“Đừng rót
cho tớ. Tớ phải đi đến đài đây”.
“Nhưng còn
sớm quá mà”. Himiko nói một cách xã giao.
“Tớ chắc là
khi có anh chàng Điểu ở đây thì cậu chẳng cần đến tớ đâu”. Cô bạn gái nói như
muốn đưa Điểu vào cái bẫy gợi ý. Rồi cô nói với Điểu: “Em là bà mẹ nuôi xinh
đẹp của đám con gái tốt nghiệp cùng lứa đấy. Tất cả bọn chúng đều cần một bà mẹ
nuôi xinh đẹp, có nghĩa là cần em, bởi vì chúng chẳng biết mình muốn gì. Bất cứ
khi nào có đứa gặp vấn đề khó khăn, em đều xoắn tay áo lên dây cót cho nó. Này
anh Điểu, gắng đừng có kéo Himiko đi quá sâu vào những vấn đề riêng tư của gia
đình anh đấy nhé.
Khi Himiko
cùng đi với bạn ra ngoài kiếm taxi, Điểu đổ chỗ bia nhạt nhẽo còn lại trong
chậu rồi đi tắm nước lạnh. Trong lúc nước mat bắn tung tóe lên người, Điểu nhớ
lại một cuộc đi thám hiểm thời tiểu học. Lúc ấy anh bị bỏ lại phía sau, lạc
đường và đã lãnh đủ một trận mưa như trút, lạnh ngắt. Một sự cô đơn khủng khiếp
và cảm giác tủi nhục của tuyệt vọng xâm chiếm lấy anh. Lúc ấy giống như một con
cua vừa lột vỏ, anh chịu thua ngày trước cả cuộc tấn công của kẻ thù bé nhỏ
nhất. Anh nghĩ mình đang ở trong một tình trạng tồi tệ hơn bao giờ hết. Điều mà
anh làm để chứng tỏ khả năng phản kháng đáng nể trong cuộc chiến đấu chống bọn
thiếu niên đêm đó, giờ đây có vẻ như một phép lạ không thể tin được mà anh sợ
không gặp lại.
Cảm thấy
tỉnh táo sau khi tắm, Điểu nằm trần truồng trên giường. Mùi vị của kẻ ngoài
cuộc đã biến mất, chỉ còn lại mùi vị đặc biệt của ngôi nhà cũ kỹ. Đó là cái
hang của Himiko. Hẳn nàng đã chà xát mùi của cơ thể mình lên mọi xó xỉnh để làm
bằng chứng đây là lãnh địa của mình, hoặc nàng không thể thoát khỏi sự khắc
khoải, giống như một con vật bé nhỏ, mềm yếu. Điểu đã quá quen với mùi vị của
ngôi nhà đến nỗi đôi khi anh nhầm nó là mùi vị của chính cơ thể mình. Điều gì
có thể giữ được Himiko? Điểu đã tắm sạch mồ hôi và bây giờ mồ hôi lại toát ra
lấm tấm. Anh uể oải vào nhà bếp kiếm một chai bia ướp lạnh khác.
Một giờ sau
Himiko quay về, nàng thấy Điểu lộ vẻ bực tức:
“Nó ghen
đấy”, nàng nói để biện minh cho bạn.
“Ghen à?”
“Anh có tin
được không? Nó là người dễ mủi lòng nhất trong bọn em. Thường khi bọn em phải
ngủ với nó cho nó đỡ tủi thân. Và chính điều này làm cho nó tin rằng nó là bà
mẹ nuôi xinh đẹp của bọn em đấy”.
Động cơ đạo
đức của Điểu đã tiêu tan từ khi anh bỏ rơi đứa con trai tại bệnh viện. Mối quan
hệ của Himiko với cô bạn gái của nàng không gây cho anh một ấn tượng đặc biệt
nào.
“Có lẽ cô ấy
nói vì ghen”, anh lên tiếng, “nhưng không có nghĩa là những điều cô ta nói
không làm cho anh bị tổn thương”.
10
Họ đang xem
tin tức truyền hình nửa đêm, Điểu nằm sấp trên giường, chỉ ngẩng cái đầu trông
giống như một con nhím biển bé bỏng, còn Himiko thì ngồi bó gối trên sàn. Cái
nóng ban ngày đã dịu đi, và họ, giống như những người sống trong hang thời tiền
sử, thưởng thức không khí mát lành trên cơ thể trần truồng. Vì trí óc mãi chờ
nghe tiếng chuông điện thoại, họ vặn nút điều chỉnh âm thanh tivi nhỏ xuống,
tiếng động duy nhất trong phòng lúc này là thứ tiếng nói yếu ớt tuồng như tiếng
vỗ cánh của con ong. Nhưng cái mà Điểu nghe được không phải là tiếng nói mang ý
nghĩa và tâm trạng của con người, anh cũng chẳng nhận ra được những hình thù
lung linh trong bóng tối trên màn ảnh. Không có hình ảnh nào từ thế giới bên
ngoài lọt vào ý thức anh. Đơn giản là anh đang chờ đợi, giống như một chiếc
radio chỉ trang bị bộ phận tiếp nhận, một tín hiệu từ xa mà anh không biết chắc
có truyền đến hay không. Cho tới lúc này, tín hiệu ấy chưa đến và bộ phận tiếp
nhận là Điểu đang hỏng hóc trong chốc lát. Himiko đột ngột đặt quyển truyện My
Life in the Bush of chost của nhà văn châu Phi Amos Tutuola lên đùi nàng, rướm
người tới tắt nút điều chỉnh âm thanh. Từ lúc ấy, Điểu tiếp nhận một cảm giác
không rõ rang từ những hình ảnh mà mắt anh đang nhìn hay tiếng động mà tai anh
nghe được. Anh chỉ đơn thuần tiếp tục chờ đợi, nhìn một cách thất thần lên màn
ảnh. Một phút sau, Himiko chống gối lên sàn nhà, vươn tay ra tivi. Đóm thủy
ngân lóe sáng rồi vụt tắt như hình ảnh của cái chết được trừu tượng hóa. Điểu
thở hổn hển, có thể lúc này con tôi đã chết rồi!Anh cảm thấy điều đó. Từ sáng
cho tới giờ phút khuya khoắt này, anh chờ đợi một cú điện thoại, ngoài việc ăn
trưa với ít bánh mì, thịt nguội và bia, và làm tình với Himiko nhiều lần, anh
đã chẳng làm gì, ngay cả chuyện nhìn tấm bản đồ hay đọc quyển tiểu thuyết châu
Phi của mình (trong khi Himiko, dường như bị cơn sốt châu Phi của Điểu lây
sang, lại bị tấm bản đồ và quyển sách mê hoặc), anh không nghĩ gì ngoài cái
chết của đứa bé. Rõ ràng là Điểu đang ở trong tâm trạng bế tắc.
Himiko xoay
người trên sàn nhà và nói với Điểu, ánh mắt nàng sục sôi.
“Gì thế em?”
Điểu nhướng mày hỏi, không thể nào hiểu được ý nghĩa câu nói của nàng.
“Em nói có
thể sự bắt đầu cuộc chiến tranh hạt nhân sẽ có nghĩa là phút tận cùng của thế
giới!”.
“Cái gì
khiến em nói thế?” Điểu ngạc nhiên hỏi. “Thỉnh thoảng em lại có kiểu nói những
điều hoàn toàn bất ngờ”.
“Hoàn toàn
bất ngờ à?” Đến lượt Himiko ngạc nhiên. “Chứ không phải tin tức này cũng làm
anh bị sốc ư?”.
“Tin nào?
Anh không để ý, anh đang lo lắng chuyện khác”. Himiko nhìn Điểu trách móc,
nhưng dường như nàng nhận ra ngay anh không có ý đùa cợt với nàng và cũng chẳng
tỏ vẻ ngạc nhiên về những gì đã nghe. Ánh mắt khích động của nàng dịu xuống.
“Hoàn hồn
lại đi anh Điểu!”.
“Tin gì thế
em?”
“Khruschev
lại tiếp tục thử nghiệm hạt nhân. Rõ ràng
ngày nay họ xem việc cho nổ bom nguyên tử giống như việc phóng tên lửa
vậy”.
“Ờ, đúng
vậy”. Điểu nói:
“Hình như
anh chẳng có ấn tượng gì cà”.
“Anh nghĩ
rằng anh không…”.
“Lạ thật!”.
Quả là lạ.
Lúc này, lần đầu tiên Điểu cảm thấy rằng việc tiếp tục thử nghiệm hạt nhân của
Xô- viết đã không gây một chút ấn tượng nào đối với anh. Ngay cả việc nếu chiến
tranh thế giới thứ ba xảy ra với vụ nổ hạt nhân thì cũng không gây ngạc nhiên
cho anh được…
“Anh không
biết tại sao, nhưng thật tình anh không cảm thấy gì cả”. Điểu nói:
“Có phải
thời gian này anh hoàn toàn lơ là về chính trị không?”
Điểu im lặng
ngẫm nghĩ trong giây phút. “Anh không nhạy cảm với tình hình thế giới như thời
sinh viên. Em còn nhớ anh thường cùng em và chồng em tham gia những cuộc mít
tinh phản đối chiến tranh không? Nhưng điều mà anh quan tâm suốt trong thời
gian đó là vũ khí hạt nhân. Cũng giống như hoạt động chính trị duy nhất mà nhóm
nghiên cứu chúng ta tham gia là biểu tình chống chiến tranh hạt nhân. Vậy thì
đáng lẽ anh bị sốc vì tin tức về Khruschev, nhưng lúc này anh xem tivi mà chẳng
cảm thấy gì cả”.
“Anh Điểu…”
Himiko ngập ngừng nói.
Một nỗi âu
lo mơ hồ buộc Điểu lên tiếng, “Dường như thần kinh anh lúc này chỉ nhạy cảm với
vấn đề của con anh và chẳng hề bị kích động bởi bất cứ điều gì khác”.
“Đúng thế
anh Điểu ạ. Suốt 15 tiếng đồng hồ của ngày hôm nay, anh chẳng nói chuyện gì trừ
chuyện thằng bé chết hay chưa”.
“Quả thật
hình bóng của nó chiếm hết đầu óc anh, giống như anh đang chìm trong bể bơi
ngập tràn hình ảnh của thằng bé”.
“Anh Điểu ạ,
điều đó chẳng bình thường tí nào.Nếu như thằng bé cứ yếu đi trong một thời gian
dài và tiếp tục như thế hàng trăm ngày, có lẽ anh sẽ điên mất. Điên mất Điểu
ạ!”.
Điểu trừng
mắt nhìn Himiko. Tựa như âm vang nhưng lời nói của nàng có thể ban tặng cho đứa
bé đang yếu dần vì nước đường và sữa loãng nguồn sinh lực như nguồn sinh lực mà
Popeye tìm thấy trong hộp rau bi-na. Ôi, một trăm ngày! Hai ngàn bốn trăm tiếng
đồng hồ!
“Anh Điểu,
nếu anh cứ để hình ảnh thằng bé ám ảnh anh như thế này thì em nghĩ ngay cả khi
nó mất rồi, anh cũng không thoát được nó”, Himiko đọc một câu tiếng Anh trong
vở kịch Macheth của Shakepcare: “Những hành vi này không thể được nghĩ theo
cách này, anh Điểu này, nếu cứ như thế nó sẽ làm chúng ta điên mất”.
“Những lúc
này anh không thể nào không nghĩ đến thằng bé, và có lẽ cả khi nó chết rồi cũng
vậy. Anh chẳng biết làm gì được. Có thể là em có lý, vì tất cả những gì anh
biết là điều xấu nhất sẽ đến sau khi thằng bé mất”.
“Nhưng cũng
không quá trễ để anh điện thoại đến bệnh viện dàn xếp cho nó được uống toàn sữa
mà…”.
“Làm thế
không tốt đâu”. Điểu cắt ngang bằng giọng nói rầu rĩ và bối rối nghe như một
tiếng than. “Và em biết chẳng hay ho gì nếu em nhìn thấy cái bướu trên đầu
nó!”.
Himiko chăm
chú nhìn Điểu rồi lắc đầu một cách buồn bã khi nhìn thấy vẻ mặt của anh. Họ
tránh nhìn vào mắt nhau. Ngay sau đó, Himiko tắt đèn rồi vùi mình xuống giường
bên cạnh Điểu. Lúc này trời mát đủ cho hai người cùng nằm trên chiếc giường
chật hẹp mà không phải lấn nhau. Nhiều phút trôi qua. Cả hai cùng biết họ đều
thức, nhưng lại giả vờ như không biết. Cuối cùng thì Himiko đột ngột lên tiếng
giống như một con chồn không thể chịu đựng sự giả chết lâu hơn. “Tối hôm qua
anh đã mơ thấy đứa bé phải không?” Giọng nàng run lên một cách kỳ lạ.
“Ừ, mà sao?”
“Anh mơ thấy
gì vậy?”
“Anh thấy
một quả tên lửa đặt trên mặt trăng và chiếc nôi của thằng bé nằm một mình trên
những tảng đá cô đơn một cách khủng khiếp kia. Chỉ có thế thôi. Một giấc mơ đơn
giản”.
“Còn em thì
thấy anh nằm co ro như một đứa trẻ, hai bàn tay nắm chặt và khóc oa oa. Miệng
anh rộng toác”.
“Thật là
chuyện khủng khiếp, không bình thường chút nào!” Điểu giận dữ nói rồi chìm mình
trong nỗi xấu hổ.
“Em sợ quá.
Em đã nghĩ anh cứ thế mãi và không bình thường trở lại”.
Điểu im
lặng, hai gò má nóng bừng lên trong bong tối. Còn Himiko thì nằm yên như đá.
“Anh Điểu
này, nếu đây không phải là chuyện riêng của anh, em muốn nói nó còn liên quan
tới cả em nữa, thì em có thể chia sẻ với anh, và em có thể động viên anh được
nhiều hơn…” Giọng Himiko dịu đi như hối tiếc đã để ý đến tiếng gào của Điểu
trong giấc ngủ.
“Em nói đúng
đấy. Chuyện này chỉ liên quan đến anh,
nó hoàn toàn là vấn đề cá nhân. Nhưng đó là một thứ kinh nghiệm cá nhân của kẻ
đã tự dẫn mình vào hang sâu và phải tìm ra một lối thoát, kinh nghiệm ấy không
chỉ liên quan đến cá nhân anh mà còn
liên quan đến mọi người. Và với loại
kinh nghiệm này, ít ra cá nhân đó cũng được nhận phần thưởng vì sự chịu đựng
của họ. Cũng giống như cậu bé Tom Sawyer vậy! Cậu ta đã chịu đựng trong cái
hang tối đen như mực, nhưng đúng lúc cậu ta tìm ra lối thoát thì đồng thời cũng
tìm được cả túi vàng. Còn điều mà anh đang cảm thấy lúc này là cái cảm giác anh
đang đào một mỏ sâu thẳng đứng trong một nơi hoàn toàn cách biệt, nó thẳng đuột
đến một chiều sâu vô vọng và không bao giờ mở ra một thế giới khác. Vì vậy anh
đã trào mồ hôi và chịu đựng trong cái hang động tối tăm đó, và kinh nghiệm bản
thân anh chẳng giúp được gì cho kẻ khác. Lúc này anh chỉ biết có việc đào, và
đào, vô ích, tủi nhục. Cái thằng bé Tom Sawyer trong người anh đang tận cùng
tuyệt vọng dưới đáy hầm sâu và anh chẳng ngạc nhiên nếu cậu ta hóa điên!”.
“Em chưa hề
có kinh nghiệm chịu đựng quá sức vô ích như vậy. Anh Điểu ạ, ngay sau khi chồng
em tự tử, em leo lên giường, chẳng một phương tiện bảo vệ, với một thằng đàn
ông có thể đang mắc bệnh, và em thấy mình có dấu hiệu nhiễm bệnh giang mai. Em
chịu đựng nỗi sợ hãi đó trong một thời gian rất lâu, trong lúc ấy em có cảm
tưởng như không có căn bệnh thần kinh nào giống như căn bệnh hiếm muộn của em.
Nhưng anh biết đấy, sau đó em đã bình phục, cuối cùng em cũng đạt được một điều
gì đó. Kể từ ngày ấy, em có thể thích nghi với mọi thứ dù nó có nguy hiểm đến
thế nào chăng nữa, và trong thời gian rất lâu em không còn lo lắng về bệnh
giang mai nữa”.
Himiko kể
lại câu chuyện của nàng như là một lời tự thú đùa cợt, nàng còn kết thúc bằng
một tràng cười khúc khích. Nhưng cái cách vui vẻ của nàng chỉ giả tạo, Điểu cảm
thấy cô bạn chỉ cố làm anh vui lên. Ấy thế mà anh vẫn còn tự cho phép diễn đạt
những lời hoa mỹ với vẻ hoài nghi: “Nói cách khác, lần sau nếu vợ anh sinh ra
một đứa con bất bình thường, anh sẽ không còn đau khổ lâu nữa chứ gì?”.
“Em đâu có
muốn nói như thế”, Himiko chán nản nói, “anh Điểu này, nếu như anh có thể
chuyển hóa cái kinh nghiệm từ một cái hang thẳng đứng bít bùng thành một đường
hầm có lối thoát thì…”.
“Anh không
nghĩ điều đó có thể xảy ra”.
Cuộc đối
thoại kết thúc. “Em đi lấy một ly bia với vài viên thuốc ngủ đây”, cuối cùng
Himiko nói: “Anh cũng nên uống vài viên chứ?”.
Tất nhiên
Điểu cũng muốn uống vài viên, nhưng như thế thì anh sẽ không nghe được tiếng
chuông điện thoại reo. “Anh không uống đâu”. Anh nói, giọng đanh lại với sự
mong chờ cao độ. “Anh ghét sáng thức dậy mà có vị thuốc ngủ trong miệng”. Chỉ
cần nói anh không uống là đủ. Nhưng những lời chua thêm là cần thiết để dập tắt
nhu cầu bia và thuốc ngủ đang cháy bỏng trong cổ họng anh.
“Thật không
đấy?” Himiko hỏi gặng lại khi nuốt mấy viên thuốc xuống cùng với nửa ly bia.
“Bây giờ mà anh để ý đến nó thì nó có mùi vị giống như một chiếc răng gãy ấy”.
Sau khi Himiko
chìm vào giấc ngủ khá lâu, Điểu vẫn còn nằm thao thức bên cạnh nàng, cơ thể
cứng đờ từ vai đến bụng như người bị mắc chứng phù thủng hành hạ.
Không còn
phòng nào để dời đi, cơn đau dấy lên trong cơ thể, Điểu nằm thao láo một cách
tuyệt vọng. Trước đó khá lâu, cơn nghi ngờ ngột ngạt xâm chiếm lấy anh. Có thể
là bác sĩ và các cô y tá kia không cho thằng bé bú đủ số lượng sữa trong một
giờ? Điểu có thể nhìn thấy thằng bé háo hức húp sữa, hai cái miệng đỏ hỏn mở ra
trên hai cái đầu cùng màu. Cơ thể anh lâm thâm cơn sốt. Nỗi xấu hổ của Điểu nhẹ
đi, và sức nặng tăng lên ở dĩa cân bên kia, dĩa cân mang ý nghĩa là vật hy sinh
bị một đứa bé kỳ quái hãm hại: cán cân tâm lý đang nâng lệnh hoãn thi hành án
của Điểu lên tới tột đỉnh. Điểu toát mồ hôi, quay cuồng vì nỗi âu lo vị kỷ. Anh
chẳng còn thấy gì nữa, cả những đồ đạc trong nhà nổi lên trong bóng tối, mà
cũng chẳng nghe bất cứ âm thanh nào, kể cả tiếng rì rầm của những chiếc xe tải
chạy ngang. Giờ đây anh chỉ còn là một cơ thể sống chỉ ý thức được cảm giác
châm chích của cái nóng trên da thịt và mồ hôi đang tuôn ra từ chính cơ thế ấy.
Nằm bất động hoàn toàn, thứ chất lỏng có mùi lá xanh tiếp tục rỉ ra trên người
Điểu giống như con ốc sên bị đạp bẹp đi trong vườn.
Tôi biết bác
sĩ và các cô y tá kia đang cho con tôi bú đủ sữa….
Điểu nghĩ, sáng
ra Himiko có thức dậy anh cũng không thể kể cho nàng nghe về chứng hoang tưởng
đáng hổ thẹn này: đó chính là chứng hoang tưởng mà cô bạn gái của Himiko đã
tiên đoán cốt xem thường anh. Có thể anh không nói với Himiko, nhưng chắc chắn
anh sẽ đến khu chăm sóc đặc biệt để thăm dò khi mà nỗi bức xúc chờ đợi cú điện
thoại đã đến mức không thể chịu đựng nỗi. Trời hừng sang, chuông điện thoại vẫn
không reo. Rồi bình minh qua đi, ánh sáng ban mai bắt đầu len qua màn cửa, Điểu
vẫn còn bị ngập tới tận cổ trong bế tắc hắn in âu lo, thức trắng, mồ hôi vả ra,
không có gì khác ngoài tiếng chuông ma quái đang reo lên trong tai anh.
Trong nỗi
yên lặng đến khó chịu, vai họ cọ vào nhau, Điểu cùng viên bác sĩ nhìn chăm chăm qua vách kính ngăn như đang quan sát một
con mực trong bế nước. Con của Điểu được đưa ra khỏi lồng ấp và đang nằm một
mình trên giường. Có thể nó vừa được phẫu thuật vá lại môi trên, nhưng hình thù
của nó chẳng có gì thay đổi. Đỏ tươi như một con tôm luộc, nó nhìn Điểu không
giống như cái nhìn của một sinh vật yếu đuối sắp chết. Thậm chí nó có vẻ lớn
hơn trước. Và cục bướu trên đầu nó cũng có vẻ to hơn. “Đầu nó ngả hẳn ra phía
sau để tạo sự cân bằng với sức nặng của cục bướu, đứa bé đưa phần dưới của hai
ngón tay cái gãi gãi sau tai một cách giận dữ, có lẽ nó cố gắng cào cục bướu
với hai bàn tay quắp lại mà không với tới được. Mắt nó nhắm nghiền đến độ khiến
cho nửa khuôn mặt nhăn lại.
“Bác sĩ có
nghĩ rằng cục bướu gây ngứa không?”
“Cái gì cơ?”
viên bác sĩ hỏi lại, và chợt hiểu. “Tôi không chắc lắm. Nhưng phần da dưới cục
bướu thì quá đỏ như sắp nứt ra, rất có thể nó bị ngứa. Chúng tôi đã tiêm một
liều thuốc kháng sinh vào đó rồi, nhưng giờ thì phải ngưng vì cục bướu có thể
bị vỡ ra bất cứ lúc nào. Nếu nó vỡ bung thì thằng bé sẽ càng thêm khó thở”.
Điểu chăm
chăm nhìn viên bác sĩ, miệng há ra nhưng rồi lại ngậm câm như hến. Anh muốn xác
minh rằng viên bác sĩ đã quên mất là anh, cha của đứa bé, đã ao ước nó chết đi.
Mặt khác, lại một lần nữa anh có thể bị chà đạp dưới gót giày nghi ngờ như tối
hôm qua. Nhưng tất cả những gì anh có thể làm được là câm miệng.
“Hôm nay
hoặc ngày mau nó có thể bị lên cơn co giật”, viên bác sĩ nói. Điểu chăm chăm
nhìn thằng bé đang gãi đầu như ban nãy với hai bàn tay lớn, đỏ hỏn giơ lên phía
trên tai. Tai nó giống in tai Điểu, vểnh ngược ra. “Ba đang thưởng thức tất cả
những gì con đang làm đây”. Điểu thì thầm
như sợ thằng bé nghe được. Rồi anh cúi chào viên bác sĩ, đôi gò má đỏ
bừng, và vội vã ra khỏi khu chăm sóc đặc biệt.
Vào giây
phút cánh cửa đóng lại, Điểu lại hối tiếc đã không nói rõ ao ước của mình với
viên bác sĩ lần nữa. Anh đi dọc theo hành lang, đưa hai tay lên sau gáy gãi đầu
bằng phần thịt của ngón tay cái. Dần dần anh cảm thấy đau phía sau như có một
khối nặng buột chặt vào đầu. Anh dừng lại trong giây phút khi nhận ra mình bắt
chước cử chỉ của thằng bé và lo lắng liếc quanh. Ở góc hành lang, ngay trước
vòi nước uống, có hai phụ nữ ở khu sản phụ nhìn thẳng về phía anh. Cảm thấy bao
tử trì nặng, Điểu quay về phía hiên chính và cất bước chạy.
Khi Điểu cho
xe chạy chầm chậm để tìm chỗ đậu thì bạn anh từ nhà hàng trông thấy và anh ta
chạy ra đường. Cuối cùng Điểu tìm được chỗ đậu xe, anh nhìn đồng hồ. Trễ mất ba
mươi phút. Khi bạn anh tiến lại gần, Điểu thấy gương mặt anh ta bồn chồn nóng
nảy.
“Xe của bạn
mình đấy”, Điểu bối rối thanh minh về chiếc MG. “Xin lỗi vì đến trễ. Mọi người
đều có mặt chứ?”.
“Chỉ có tớ
và cậu thôi. Những người kia đến chỗ mít tinh ở công viên Hibiya phản đối vụ
thử hạt nhân hết rồi”.
“À, ra thế”.
Điểu nói. Anh nhớ mình biết tin tức về vụ thử hạt nhân của Liên Xô vào lúc ăn
sang khi nghe Himiko đọc báo, nhưng anh không hề quan tâm đến một mảy may. Ngay
lúc này mối bận tâm đầu tiên của tôi là vấn đề cá nhân, một đứa con quái dị,
tôi đã quay lưng với thế giới thực tại. Mọi người khác có quyền tham dự vào số
phận toàn cầu với những cuộc mít tinh chống đối của họ: một thằng bé có cục
bướu trên đầu không dính dáng gì đến họ cả.
“Chẳng ai
muốn dây dưa với ông Delchef, vì thế mà họ bỏ đi đến công viên hết”. Người bạn
nhìn Điểu một cách giận dữ, có vẻ như anh ta không chấp nhận thái độ thờ ơ của
Điểu về sự vắng mặt của những người khác. “vài ngàn người biểu tình ở công viên
Hibiya cũng chả ăn nhằm gì với cá nhân ông Khruschev cả!”.
Điểu biết rõ
từng thành viên của nhóm nghiên cứu. Không thể phủ nhận rằng việc quan hệ sâu
đậm với ông Delchef lúc này có thể gây phiền toái cho họ. Nhiều người làm việc
trong những công ty xuất khẩu hạng nhất, những người khác làm việc tại văn
phòng Ngoại vụ hoặc đang dạy đại học. Nếu báo chí đem vấn đề Delchef ra làm xì
căng đan, vị thế của họ chắc chắn sẽ bị rắc rối nếu như cấp trên khám phá ra họ
có quan hệ với ông ta. Chẳng ai trong số họ được tự do như Điểu,giảng dạy tại
một trường luyện thi và sắp bị sa thải.
“Chúng ta sẽ
làm gì?”
“Chúng ta
chẳng thể làm gì được. Đối với tôi có lẽ sự chọn lựa duy nhất là từ chối lời đề
nghị giúp đỡ của tòa công sứ”.
“Cả cậu cũng
không muốn dính đến chuyện ông Delchef à?” Điểu chỉ hỏi mà không chủ tăm, nhưng
đôi mắt bạn anh bỗng đỏ lên và anh ta chòng chọc nhìn Điểu như thể vừa bị
nguyền rủa, Điểu ngạc nhiên nhận ra rằng anh bạn đã hy vọng Điểu cũng quay lưng
ngay tức thì với lời đề nghị của tòa công sứ.
“Nhưng cậu hãy
xem lại quan điểm của ông Delchef, Điểu bình tĩnh phản đối. Người bạn tỏ vẻ dằn
dỗi im lặng.
“Để cho chúng
ta thuyết phục ông ấy quay trở về có thể
là cơ hội cuối cùng của ông ấy. Chẳng phải họ đã nói họ cần đến cảnh sát nếu
chúng ta không làm gì được sao? Cậu biết rằng mình không thể từ chối lời khẩn
cầu ấy mà không áy náy lương tâm!”.
“Nếu chúng
ta thuyết phục được ông Delchef thì quá tốt. Nhưng nếu mọi việc không trôi chảy
và vụ này trở thành một xì-căng-đan, chúng ta sẽ đứng giữa một biến cố quốc tế
đấy!” Bạn anh lên tiếng tránh nhìn mặt anh, nhìn xuống ghế tài xế của chiếc MG
trông như bụng một con cừu bị moi hết ruột. “Tớ nghĩ dây dưa với ông Delchef trong lúc mọi việc cứ
như thế này có vẻ là không khôn ngoan”.
Điểu cảm
thấy bạn anh đang khẩn nài anh đừng tranh luận xa hơn, lời khẩn nài trần trụi
đến đáng buồn. Nhưng những từ đáng kinh sợ như xì-căng-đan và biến cố quốc tế
hoàn toàn không gây được ấn tượng với anh. Ngay lúc này khi đầu óc anh ngập
tràn xì-căng-đan về đứa con quái dị và các sự cố gia đình do thằng bé gây ra
chặn đứng cổ họng anh hơn bất kỳ một sự cố quốc tế nào khác, Điểu chẳng sợ gì
về tất cả những cạm bẫy mà anh nghĩ nó có thể vây kín cá nhân ông Delchef. Và
anh cũng nhận thấy lúc này, lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu có rắc rối với đứa
con, anh đã cho phép mình hành động vượt qua xa giới hạn cuộc sống bình thường.
Cả chuyện bù khú của anh cũng thật mỉa mai.
“Nếu cậu
quay lưng với lời kêu gọi của tòa công sứ như an hem trong nhóm, tớ sẽ một mình
tìm gặp ông Delchef. Tớ thân với ông ấy, cho dù sự cố lộ ra rành rành trước mắt
và tớ bị dính vào xì-căng-đan này thì nó cũng chẳng gây phiền hà gì cho tớ cả”.
Điểu đang
tìm kiếm một việc gì có thể lấp đầy thời gian hôm nay và ngày mai, tức là thời
gian gia hạn mới của bác sĩ ban cho anh. Ngoài ra, anh thật long muốn xem cuộc
sống ẩn dật của ông Delchef như thế nào.
Vào lúc Điểu
nhận lời, bạn anh thya đổi vẻ mặt nhanh như chớp đến độ anh phải bối rối đôi
chút. “Nếu cậu muốn làm thì cứ làm đi! Tớ không thể nghĩ ra điều gì tốt đẹp hơn
thế nữa”, người bạn nói với sự tin tưởng nồng nhiệt. “Nói thật với cậu, tớ đã
hy vọng cậu đồng ý làm công việc này. Mấy người kia đã lạnh lung bỏ đi ngay khi
mới nghe nhắc đến tên ông Delchef, nhưng cậu thì lại hết sức bình tĩnh và khách
quan, Điểu này, tớ than phục cậu đấy!”.
Điểu mỉm
cười nhẹ nhàng, không muốn làm tổn thương người bạn bỗng nhiên lắm lời của
mình. Ngay lúc này, trong thời gian anh không bận tâm đến chuyện thằng bé, khả
năng thờ ơ tỉnh táo của anh là bất tận. Nhưng anh cay đắng nghĩ, đó không phải
là lý do để cho hàng triệu người Tokyo còn lại không chịu sự trói buộc của một
đứa bé quái dị trên cổ cảm thấy them khát được như anh.
“Tớ nói với
cậu cái này, tớ sẽ đãi cậu một bữa ăn trưa nhé”, người bạn hăng hái đề nghị. “Chúng
ta uống bia trước đã”.
Điểu gật đầu
và hai người cùng vào lại nhà hàng. Họ ngồi đối diện nhau ở bàn ăn và khi đã
gọi bia, người bạn đang hoan hỉ của Điểu nói: “này Điểu, cậu vẫn còn thói quen
dung ngón cái gãi tai như thời bọn mình cùng học với nhau à?”.
Khi men vào
con hẻm hẹp trông giống như một vết rạn giữa một nhà hàng Đại Hàn và một quán
rượu, Điểu tự hỏi không biết còn lối ra nào khác ẩn trong mê cung này không.
Theo bản đồ người bạn đã vẽ cho anh, anh vừa bước vào một hẻm cụt chỉ có lối
vào duy nhất. Cái ruột tượng này có hình thù như bao tử bị tắc nghẽn ở phần tá
tràng. Làm thế nào một người dấn than vào cuộc sống ẩn dật có thể tự chon mình
vào một nơi chật hẹp như thế này mà chẳng cảm thấy lo lắng? Phải chăng ông
Delchef cảm thấy bị săn đuổi đến độ không thể tìm một nơi nào khác làm chỗ lánh
than? May ra ông ta
không còn trốn trong con hẻm này nữa. Ý nghĩ ấy làm cho Điểu vui lên, và rồi
anh bước vào khu tập thể ở cuối con hẻm. Đứng trước lối vào có thể đã từng là
con đường mòn bí mật dẫn lên một pháo đài trên núi, Điểu chùi mồ hôi trên mặt.
Con hẻm có vẻ đầy bóng râm, nhưng khi nhìn lên bầu trời, Điểu thấy ánh sáng
chói chang của buổi trưa mùa hạ trùm lên con hẻm như một màng lưới bạch kim
nóng bỏng. Mặt vẫn ngẩng nhìn bầu trời chói chang, Điểu nhắm mắt, đưa hai ngón
tay cái gãi cái đầu đang ngứa của mình. Bỗng nhiên anh buông thõng hai tay như
thể chúng rơi xuống, và chợt ngẩng đầu lên. Phía xa có tiếng một cô gái ré lên
điên dại.
Điểu tháo giàu cầm tay, trèo lên vài bậc thang đầy bụi và
bước vào tòa nhà. Phía trái hành lang là một dãy cửa lớn thẳng hàng như cửa nhà
tù, bên phải là bức tường trống đầy những chữ viết nguệch ngoặc. Điểu đi lần ra
phía sau, tìm số nhà trên cửa. Anh có cảm tưởng sau mỗi cánh cửa đều có người
đứng, mặc dù tất cả đều đóng. Những người sống ở đây làm sao trốn thoát cái
nóng nhỉ? Himiko có phải là kẻ dẫn đầu trong đám tự nhốt mình trong những căn
phòng đóng kín cửa ngay giữa ban ngày không? Điểu đi đến cuối dãy phòng và tìm
thấy một cầu thang hẹp, dốc nằm khuất phía sau. Anh bất chợt nhìn ra sau: một
phụ nữ mập mạp đứng như trời trồng giữa lối đi đang chăm bẵm nhìn về phía anh.
Bà ta và cả dãy hành lang chìm trong bong tối, vì lưng bà che khuất ánh sang từ
ngoài đường.
“Anh cần gì ở đó?” Bà ta vừa nói vừa cử động như muốn xua
đuổi một con chó.
“Tôi đến thăm một người bạn nước ngoài”, Điểu trả lời với
giọng khàn khàn.
“Một người Mỹ phải không?”
“Ông ấy đang sống chung với một cô gái Nhật”.
“A, sao anh
không nói sớm! Ông Mỹ ấy ở căn phòng đầu tiên trên tầng hai”. Nói xong người
đàn bà mậ mạp ấy biến đi nhanh. Đoán ra “ông Mỹ” chính là Delchef, Điểu thấy rõ
là ông ta đã chinh phục được cảm tình của người phụ nữ khổng lồ kia. Điểu vẫn
còn nghi ngờ khi trèo lên những bậc thang gỗ ọp ẹp. Nhưng khi anh rẽ sang đầu
cầu thang hết sức chật hẹp thì thấy ông Delchef đang đứng trước mặt anh, dang
rộng đôi tay chào đón, mặc dù đôi mắt ông có vẻ bối rối. Lòng Điểu trào lên niềm
vui sướng: ông Delchef là người duy nhất
trong tòa nhà này đã biết để cửa mở chống lại cái nóng.
Điểu dựng
đôi giày vào chân bờ tường hành lang rồi bắt tay ông Delchef đang vui mừng đón anh từ trong cửa.
Giống như một vận động viên chạy việt dã, ông chỉ mặc chiếc quấn soọc xanh và
áo may ô mái tóc đỏ hung đã được hớt ngắn nhưng trông ông khác đi với chòm râu
rậm rạp cùng màu, Điểu không tìm thấy điều gì chứng tỏ rằng kẻ đứng trước mặt
anh là một người lánh nạn, ngoại trừ cái cơ thể nặng mùi của một con gấu to lớn
vụng về mặc dù than hình ông mảnh khảnh. Có thê ông ta không có dịp tắm rửa từ
ngày ẩn than ở đây.
Khi hai
người trao đổi với nhau những lời thăm hỏi bằng thứ tiếng Anh pha trộn xuểnh
xoàng, ông Delchef cho biết cô bồ của ông vừa ra ngoài để làm tóc. Ông mời Điểu
vào nhà, nhưng Điểu chỉ vào sàn nhà trải thảm tatami và xin lỗi không thể vào
được vì chân bẩn. Ý anh muốn đứng ngoài hành lang nói chuyện cũng được. Anh sợ
bị bó rọ trong căn phòng của ông Delchef.
Điểu nhìn
thấy căn hộ chẳng có đồ đạc gì. Một cánh cửa sổ duy nhất ở phía sau đang mở,
nhưng nó lại bị một hàng rào gỗ dày đặc cách đó vài phân chắn ngang. Có thể là
do những kẻ sống ở các căn hộ bên kia hàng rào không muốn bị dòm ngó từ cửa sổ
của ông Delchef.
“Ông
Delchef, tòa công sứ muốn ông mau quay về”, Điểu đi thẳng vào sứ mệnh của mình.
“Tôi chẳng
về đâu, cô bạn gái của tôi muốn tôi sống với cô ấy ở đây”, ông Delchef mỉm
cười. Vốn tiếng Anh nghèo nàn thô thiển của họ làm cho cuộc đối thoại giống như
một trò chơi. Nó cũng buộc họ bộc trực.
“Tôi sẽ là
người mang thông điệp cuối cùng đấy. Sau tôi sẽ có người từ tòa công sứ đến đây
hoặc có thể là một cảnh sát Nhật”.
“Tôi nghĩ
cảnh sát sẽ không làm gì được đâu. Xin nhớ tôi vẫn còn là một nhà ngoại giao
mà”.
“Có lẽ là
vậy. Nhưng nếu người của tòa công sứ đến đưa ông đi, ông sẽ bị gởi trả về nước
đấy”.
“Vâng, tôi
đã chuẩn bị rồi. Vì đã gây chuyện rắc rối, tôi có thể bị thuyên chuyển đến một
chức vụ ít quan trọng hơn hoặc bị mất việc như một nhà ngoại giao”.
“Bởi vậy,
ông Delchef ạ, tốt nhất là ông nên quay về tòa công sứ trước khi sự việc trở
thành một xì-căng-đan”.
“Tôi không
trở lại đâu. Cô bạn tôi muốn tôi ở lại đây”, ông Delchef nói với nụ cười bao
dung.
“Không phải
vì lý do chính trị chứ? Ông đang ẩn náu ở đây đơn giản chỉ vì sự ràng buộc tình
cảm với cô bạn gái ư?”.
“Vâng, chính
xác là như thế”.
“Ông
Delchef, ông thật là một con người kỳ lạ”.
“Kỳ lạ à?
Tại sao?”
“Nhưng cô
bạn ông không nói được tiếng Anh, phải không?”.
“Chúng tôi
luôn luôn hiểu nhau trong im lặng”.
Một nỗi buồn
khủng khiếp dâng trào trong lòng Điểu.
“Thôi được,
tôi sẽ tường trình lại mọi việc và những người ở tòa công sứ sẽ đến đây ngay để
bắt ông về”.
Nếu tôi sẽ
bị bắt ngược với ý muốn của mình thì tôi cũng đành chịu thôi. Tôi nghĩ rằng cô
bạn tôi sẽ hiểu”.
Điểu lắc đầu
yếu ớt, chấp nhận sự thất bại. Mồ hôi lấp lánh trên chòm râu đỏ hung của ông
Delchef. Điểu để ý thấy những giọt mồ hôi đang từ từ rịn ra trên khắp cơ thể
ông ta.
“Tôi sẽ nói
cho họ biết tâm trạng của ông”. Điểu nói rồi cúi xuống nhặt giày lên.
“Anh Điểu,
con anh sinh rồi phải không?”.
“Vâng, nhưng
cháu nó không bình thường và tôi đang chờ nó chết”. Điểu không thể nào giải
thích cái động cơ khiến cho anh thú tội. “Thằng bé bị chứng thoát vị não, điều
khủng khiếp là nó có tới hai cái đầu”.
“Tại sao anh
lại chờ đứa bé chết khi nó cần một cuộc giải phẫu?” Nụ cười của ông Delchef
biến mất và cái vẻ can đảm đầy nam tính khiến cho khuôn mặt ông trông dữ dội.
“Chẳng có
lấy một phần trăm cơ may là thằng bé sẽ lớn lên bình thường ngay cả sau khi
giải phẫu”, Điểu trả lời trong nỗi kinh hoàng.
“Anh biết
đó, nhà văn Kafka đã viết trong một lá thư gởi cho cha ông rằng điều duy nhất
mà người cha có thể làm được cho đứa con là chào mừng sự ra đời của nó. Còn anh
thì làm ngược lại phải không? Chúng ta có thể nào tha thứ cho tính vị kỷ khi
chối bỏ một đời sống khác khi người đó là một người cha không?”.
Điểu im
lặng, đôi má và cặp mắt anh nóng ran lên và đỏ bừng, điều này đã trở thành một
thói quen mới của anh. Ông Delchef không
còn là một người nước ngoài lập dị với bộ râu hung đỏ, đầy óc khôi hài mặc dù
đang gặp tình cảnh gay go nghiêm trọng. Điểu cảm thấy mình như bị một viện đạn
phê bình của tay bắn tỉa hạ gục. Anh tập trung sức lực để chống cự với bất cứ
giá nào và bỗng nhiên gục đầu, cảm thấy không có gì để nói với ông Delchef nữa.
“A, con
người nhỏ bé đáng thương!” Ông Delchef thì thầm.Điểu nhìn lên, rùng mình, nhận
ra người ngoại quốc này đang nói về anh chứ không phải về đứa bé. Anh im lặng
chờ cho đến lúc ông Delchef chịu buông tha anh.
Cuối cùng, khi Điểu có thể nói lời tạm biệt, ông Delchef
tặng anh một quyển tự điển Anh văn bằng tiếng nước ông, Điểu đề nghị ông ký tên
vào. Ông chỉ viết một chữ duy nhất bằng tiếng Balkan, ký tên mình bên dưới và
giải thích: “Ở nước tôi, từ này có nghĩa là hy vọng”.
Ngay chỗ hẹp nhất của con hẻm, Điểu lúng túng băng ngang qua
cô gái người Nhật nhỏ bé. Ngửi thấy mùi tóc mới làm và nhìn thấy cái cổ không
được sạch cho lắm khi cô gái cúi đầu lấn qua mặt anh, Điểu cố kềm ý muốn bắt
chuyện với cô ta. Điểu ngập mình trong ánh sang chói chang và chạy tìm một
chiếc xe như một kẻ trốn chạy, mồ hôi đổ như thác trên cơ thể anh. Vào thời
điểm nóng nhất trong ngày, anh là kẻ duy nhất đang chạy trong thành phố.
11
Sáng chủ nhật, Điểu thức dậy nhận ra phòng ngủ tràn ngập ánh
sang khác thường và không khí trong lành: cửa sổ mở rộng, một cơn gió nhẹ ùa
vào phòng rồi thoảng vào hành lang. Từ phòng khách, tiếng o o của chiếc máy hút
bụi vọng vào. Đã quen với sự tối tâm của ngôi nhà, Điểu bối rối trong thứ ánh
sang tràn ngập này vì cơ thể mình vùi dưới tấm chân. Trước khi Himiko ập vào
true chọc sự trần truồng của anh, Điểu vội vã mặc quần áo và đi ra phòng khách.
“Chào anh”. Himiko nói một cách vui vẻ. Đầu quấn khăn, nàng
đang điều khiển chiếc máy hút bụi như thể đó là cây sào mà nàng dung để đè một
con chuột đang chạy vụt qua. Với gương mặt đỏ bừng, nàng quay lại nhìn Điểu lúc
này đã lấy lại vẻ tươi trẻ. “Bố chồng em đến đấy. Ông cụ đang đi dạo trong khi
chờ em lau nhà”.
“Tốt hơn anh nên đi”.
“Tại sao anh bỏ chạy thế anh Điểu?” Himiko bực bội nói.
“Giai đoạn này anh cảm thấy mình giống như một kẻ ẩn dật,
phải gặp một người lạ lúc mình đang ẩn than thì thật khó chịu”.
“Bố chồng em biết lũ đàn ông thường ngủ lại đêm ở đây, điều
đó chẳng có gì làm ông cụ phiền hà cả. Nhưng em nghĩ rằng ông cụ sẽ bối rối nếu
có một người bạn của em bỏ chạy như một kẻ đào tẩu khi thấy ông cụ đến đây”.
Gương mặt của Himiko vẫn còn lộ vẻ khó chịu.
“Thôi được. Vậy thì có lẽ anh nên đi cạo râu đã”. Điểu quay vào
phòng ngủ. Vẻ bực dọc của Himiko là một cú sốc đối với Điểu. Điểu ngẫm lại mình
đeo bám dai dẳng thế nào từ lúc dời về nhà cô bạn gái, anh quên mất rằng đó là
căn phòng của một người độc thân… Làm thế nào anh có thể tự cho mình một thứ quyền
hành tuyệt đối như thế! Trong nỗi bất hạnh riêng tư, anh đã trở thành một con
nhộng, chỉ nhìn thấy bên trong cái kín, không hề hoài nghi gì dù chỉ trong
thoáng chốc những đặc quyền của một con nhộng…
Cạo râu xong, Điểu liếc nhìn gương mặt xanh xao, u tối của
con nhộng trong chiếc kính mờ hơi nước. Anh để ý thấy mặt mình có vẻ nhăn nheo,
không phải đơn giản vì mình bị sút ký. Anh cảm thấy thế.
“Từ khi anh đột chiếm lấy em, anh hành động gần giống như
một tên vị kỷ điên rồ”, Điểu tự động giải thích khi anh quay lại phòng khách.
“Anh lại còn cảm thấy như đó là cách xử sự duy nhất”.
“Anh đang
xin lỗi em đấy à?” Himiko trêu chọc. Mặt nàng hoàn toàn dịu lại.
“Anh đã ngủ
trên giường em, ăn thức ăn em nấu, lại còn làm cho em lệ thuộc vào anh. Anh
không có quyền làm thế, vậy mà anh hoàn toàn cảm thấy nơi đây như ở nhà mình”.
“Anh Điểu, anh
sắp bỏ đi phải không?” Himiko nói một cách khó chịu.
Điểu chăm
chăm nhìn cô bạn và lặng người đi vì cảm thấy một điều gì giống như định mệnh:
anh không bao giờ gặp được một ai khác hoàn toàn thích hợp với anh đến thế. Cái
hương vị tiếc nuối mặn chất trong cổ họng anh.
“Nếu cuối
cùng anh phải đi thì cũng ngồi lại với em chốc lát, được không anh Điểu?”.
Quay về
phòng ngủ, Điểu nằm trên giường nhắm mắt lại, kê hai tay sau đầu. Anh muốn có
được phút iêng tư một mình.
Lát sau, ba
người ngồi quanh chiếc bàn ở phòng khách phụ bàn luận về những nhà lãnh đạo nơi
ở các nước châu Phi và ngữ pháp của tiếng Swahili, Himiko tháo tấm bản đồ châu
Phi trên bức tường phòng ngủ xuống trải ra trên bàn để chỉ cho bố chồng.
Đột nhiên
ông cụ đề nghị: “Tại sao anh và Himiko không du lịch sang châu Phi? Nếu con bán
căn nhà này và đồ đạc, con sẽ đủ tiền đi chơi đấy”.
“Quả là ý
kiến hay đấy…” Himiko liếc nhìn Điểu như để thừ long anh. ‘Anh có thể quên nỗi
đau khổ về đứa con, còn em thì quên chuyện tự tử của chồng em”.
“Đúng thế,
và điều đó thật quan trọng!” Bố chồng Himiko tuyên bố. “Sao hai con không chuẩn bị hành lý đi châu
Phi đi?”.
Lời đề nghị đột ngột đến nỗi làm cho Điểu hoang mang run lên
mà không kiềm chế được. “Cháu không thể làm thế, cháu không thể”, anh nói với
tiếng thở dài yếu ớt.
“Tại sao lại không?” Himiko thách thức.
“Một chuyến du lịch sang châu Phi để quên đứa con mình đang
suy yếu quả là trò lừa bịp. Anh…”. Điểu đỏ mặt, lắp bắp, “…anh không thể làm
thế được!”.
“Anh Điểu là một người cực kỳ đạo đức”. Himiko chế giễu.
Điểu càng đỏ mặt hơn và anh làm ra vẻ trách móc. Thực tế thì
anh đang nghĩ mình nên tan biến như gia vị trong xoong canh đang sôi nếu bố
chồng nàng đề nghị một cuộc du lịch châu Phi với mục đích đạo đức là cứu Himiko
thoát khỏi sự ám ảnh về chồng nàng, thật háo hức biết bao vì được thư giãn với
chuyến du lịch mang sự lừa dối ngọt ngào ấy! Điểu vừa sợ ông cụ có thể đề nghị
theo kiểu ấy, lại vừa mong muốn nghe những lời như thế: trong nhu cầu đáng ghét
của mình anh cảm thấy như tự giấu mình trong hang tối. Một chập sau, anh thấy
trong mắt Himiko lấp lánh tia tỉnh ngộ.
“Anh Điểu sẽ trở về với vợ trong một hay hai tuần nữa”.
“Ồ, bác không nhận ra…” Bố chồng nàng nói. “Bác đề nghị đi
du lịch chỉ vì đây là lần đầu tiên bác thấy Himiko sinh động hẳn lên kể từ ngày
con trai bác mất. Hy vọng là anh không giận bác”.
Điểu bối rối nhìn bố chồng Himiko. Ông cụ có cái đầu ngắn,
hói sạch và chẳng rõ nó chấm dứt ở đâu vì làn da rám nắng sau đầu như dính vào
cổ và vai ông. Một cái đầu gợi nhớ đến con sư tử biển với đôi mắt hơi trầm
tĩnh, hơi u tối, Điểu cố tìm ra bản chất của ông nhưng không thấy được gì. Vì
thế, anh giữ thái độ im lặng cảnh giác và mỉm một nụ cười mơ hồ, cố che đậy sự
thất vọng nhục nhã đang lan dần lên ngực làm tắc nghẹn cổ họng anh.
Một giọng thanh niên xin gặp cha đứa bé đang nằm trong khu
chăm sóc đặc biệt của bệnh viện trường đại học. Điểu chết trăn, trả lời bằng
giọng nghe như tiếng muỗi vo ve. Đó là một bác sĩ thực tập gọi đến để nhắn lại
lời của viên bác sĩ phụ trách về thằng bé.
“Xin lỗi đã gọi đến quá muộn, nhưng ở đây chúng tôi đầy ấp
công việc. Mời ông đến khu phẫu thuật não vào lúc 11 giờ sáng mai, đó là văn
phòng của bác sĩ trợ lý giám đốc. Lẽ ra thì đích thân bác sĩ gọi cho ông nhưng ông ấy quá mệt.
Chúng tôi phải làm việc luôn tay đến tận khuya”.
Điểu hít một hơi sâu và nghĩ: thằng bé đã chết, viên trợ lý
giám đốc sắp mổ xác:
“Tôi hiểu. Tôi sẽ có mặt ở đó lúc 11 giờ. Cám ơn”.
Thằng bé suy yếu và đã chết! Điểu lại tự nói với mình khi
anh đặt ống nghe xuống. Nhưng thằng bé đã được cái chết viếng thăm bằng cách
nào mà đến nỗi vị bác sĩ phải kiệt sức? Điểu đang nếm vị mật đắng từ bụng trào
lên. Ngay trước mắt Điểu, từ ngoài bong đêm, có một vật gì thật to lớn và khủng
khiếp đang chằm chằm nhìn anh.
“Anh Điểu, có gì kinh khủng lắm à”. Himiko nói mà không có
vẻ gì phiền trách, chăm chú nhìn khuôn mặt Điểu qua bong tối một cách giễu cợt.
“À, anh xin lỗi”.
“Chuyện thằng bé phải không?”
“Ừ, nhưng rõ ràng không phải trước đó nó đã làm cho họ nhừ
tử”. Điểu nói và lại khiếp hãi.
“Văn phòng của viên trợ lý giám đốc nói gì thế?”
“Họ muốn anh có mặt ở đó sáng nay”.
“Anh cần phải uống vài viên thuốc an thần với rượu rồi ngủ,
anh không còn chờ cú điện thoại nào nữa mà”. Giọng Himiko thật dịu dàng.
Khi Himiko bật đèn ngủ và vào nhà bếp, Điểu nhắm mắt tránh
ánh đèn. Anh còn dung cả hai bàn tay che mắt và cố suy xét cái bộ phận chính
nhọn hoắc, đơn độc nằm trong bộ não trống rỗng của thằng bé – tại sao thằng bé
sắp chết đã quần viên bác sĩ đến tận khuya? Nhưng Điểu lập tức chạm trán với
khái niệm đã khuấy lên trong lòng nỗi sợ hãi và anh giật nẩy người. Mở nhanh
mắt, anh cầm lấy ly whisky còn một phần từ trên tay Himiko và một mớ thuốc ngủ
nhiều hơn liều lượng chỉ định nuốt một hơi rồi lại nhắm mắt.
“Đó cũng là chuyện em quan tâm đấy”, Himiko nói:
“À, anh xin lỗi”, Điểu lập lại một cách ngớ ngẩn.
“Anh Điểu”, Himiko nằm xuống giường, cách Điểu một khoảng.
“Gì thế em?”
“Em sẽ kể chuyện cho anh nghe cho tới khi rượu và thuốc có
tác dụng. Một đoạn từ trong quyển tiểu thuyết châu Phi đó. Anh đã đọc chương
nói về bọn ma quỷ cướp của giết người chưa?”
Điểu lắc đầu trong bong tối.
“Khi một người đàn bà có thai, lũ quỷ đã chọn một trong
những đứa con của chúng cho lẻn vào nhà người đàn bà. Đêm đến, con quỷ con kia
đuổi cái bào thai thật sự ra ngoài và chiếm tử cung người đàn bà. Đến ngày sinh
nở, con quỷ con ra đời dưới lốt một bào thai vô tội…”.
Điểm im lặng lắng nghe. Mọi việc như đã sắp đặt sẵn, chẳng
bao lâu đứa bé đó ngã bệnh. Khi người mẹ sắm lễ vật cúng cầu an cho con mình
thì lũ quỷ bất lương lén mang đi giấu vào một chỗ bí mật. Người ta chưa bao giờ
thấy một đứa bé như thế lành bệnh. Khi đứa bé chết và mang đi an táng, con quỷ
con hiện nguyên hình thoát khỏi nấm mồ, quay về hang ổ của chúng với tất cả
những lễ vật lầy từ chỗ cất giấu bí mật.
“… rõ ràng là cái bào thai bị quỷ ám đó đã sinh ra thành một
đứa bé xinh đẹp để chiếm hết trái tim của người mẹ, vì thế bà ta không hề do dự
dâng cúng tất cả những gì bà có. Người châu Phi gọi chúng là “trẻ sinh ra để
chết”, nhưng không hẳn tuyệt vời để tưởng tượng chúng xinh đẹp như thế nào, dù
đó là những đứa bé tí hon!”.
Có thể Điểu sẽ kể cho vợ nghe câu chuyện này. Và vì con
chúng ta sinh ra để mà chết nếu nó đúng là con của quỷ, cô ấy sẽ tưởng tượng nó
là một đứa bé hết sức xinh đẹp, ngay cả tôi cũng có thể sửa chữa ký ức của chính
mình. Và đó sẽ là sự lừa dối lớn nhất đời tôi. Đứa con kỳ dị của tôi đã chết mà
không được sửa sai lại cái đầu đôi xấu xí của nó, sau khi chết nó vẫn mãi mãi
mang hai đầu. Và nếu có một đấng quyền năng tác động luật lệ vào thời gian vô
tận đó, ông ta phải thấy đứa bé hai đầu và cả cha của nó. Bụng Điểu sôi lên
sung sục, Điểu chìm ngay vào giấc ngủ giống như chiếc máy bay lao ra khỏi bầu
trời, một giấc ngủ kín bưng trong chiếc hộp không chút tia sang của bất cứ giấc
mơ nào len vào. Tuy thế, trong tia phản chiếu cuối cùng của ý thức, một lần
nữa, Điểu lại nghe tiếng bà mẹ nuôi tốt bụng thì thầm: “Anh Điểu, quả là anh
khiếp sợ đấy!” Điểu thấy đau phía sau như đầu đang bị đeo một sức nặng, cố đưa
hai ngón tay cái lên gãi sau tai, khiến cùi chỏ thúc vào miệng Himiko. Đau đến
chảy nước mắt, Himiko chăm chăm nhìn qua bóng đêm gương mặt co rúm lại một cách
mất tự nhiên của người bạn tình đang ngon giấc. Himiko tự hỏi không biết Điểu
có hiểu nhầm cú điện thoại từ bệnh viện gọi đến không. Không hẳn là thằng bé đã
chết. Phải chăng nó đã uống được sữa thật và đang hồi phục? Và không phải họ
muốn gọi Điểu đến bệnh viện để thảo luận về vụ mổ cho thằng bé chứ? Người bạn
đang ngủ cạnh nàng, với thân hình gặp đôi thiếu thoải mái, giống như một con
đười ươi trong chuồng, và mùi rượu nồng nặc bùng lên theo hơi thở của anh ta
làm cho Himiko thấy vừa buồn cười, vừa đáng thương. Nhưng giấc ngủ này là thời
gian nghỉ xả hơi trước khi bước vào cuộc chiến đấu sáng ngày mai. Himiko ra
khỏi giường và kéo tay chân của Điểu cho thẳng lại. Anh nặng như một người
khổng lồ bị ếm bùa, cơ thể anh không một phản ứng kháng cự, Himiko choàng tấm
khăn trải giường quanh người giống như một nhà hiền triết Hy Lạp và ra phòng
khách. Nàng nghiên cứu những tấm bản đồ châu Phi cho đến khi trời sáng.
Đột nhiên nhận ra sai lầm của mình, Điểu đỏ mặt giận dữ như
thể mình bị đưa ra làm trò cười một cách thô bạo. Anh vừa bước vào văn phòng
trợ lý giám đốc thì thấy họ đang chờ anh ở đó, nhiều bác sĩ trẻ trong đó có
người phụ trách trường hợp con anh và một vị giáo sư già với dáng vẻ của một
chuyên gia hiền lành. Nhận ra sai lầm của mình, Điểu đã đứng lại như trời trồng
ngay bên trong cánh cửa. Bây giờ thì anh ngồi xuống chiếc ghế da màu vàng ngay
giữa vòng vây của các bác sĩ. Anh cảm thấy mình như một tên tội phạm bị kéo lê
về trạm gác sau khi âm mưu trốn thoát khỏi nhà tù – là đứa con kỳ quái – bị bại
lộ. Và đám lính canh này định làm gì thế này! Phải chăng họ hùa nhau gài bẫy
anh bằng cú điện thoại nhập nhằng tối hôm qua để vui thú với cuộc chạy trốn và
thất bại của anh từ trên đỉnh tháp canh của họ?
“Người này là cha của đứa bé”. Khi viên bác sĩ nhi khoa giới
thiệu anh với mọi người thì Điểu vẫn ngồi im lặng. Dứt lời, anh ta nở nụ cười
bối rối rồi rút lui về cái góc của người quan sát. Vị bác sĩ phẫu thuật não nói
rõ vấn đề suy dinh dưỡng của thằng bé, và viên bác sĩ trẻ có lẽ đã phản bội
anh. Quỉ tha ma bắt hắn ta đi! Điểu nghĩ, chằm chằm nhìn viên bác sĩ trẻ.
“Hôm qua tôi đã khám con anh và hôm nay khám lại. Tôi nghĩ
chúng tôi có thể mổ cho cháu khi nó mạnh hơn chút nữa”. Vị bác sĩ phẫu thuật
não nói.
Hãy giữ vững lập trường! Điểu ra lệnh cho đầu óc mình trước
khi cơn đau bao trùm lấy anh: ngươi phải chống lại những tên thảo khấu này, tự
bảo vệ đứa con kỳ quái đó. Điểu đã đánh bài chuồn ngay khi anh nhận ra sai lầm
đẫm máu của mình và giờ đây anh không nghĩ được gì ngoài chuyện quay lưng trốn
chạy để tự vệ. Tôi phải ngăn cấm họ mổ, nếu không thằng bé sẽ bước hùng dũng
vào đời tôi như một đội quân xăm lăng.
“Liệu cháu có chút cơ hội nào lớn lên bình thường nếu bác sĩ
mổ cho cháu không?” Điểu hỏi một cách máy móc.
“Tôi chưa thể nói chắc được điều gì”.
Điểu nhíu mắt lại một cách dữ tợn như muốn nói anh không
phải là một thằng người được đem ra làm trò cười. Trong đầu anh hiện lên một
vòng lửa xấu hổ nóng tột độ. Giống như một con hổ trong gánh xiếc, Điểu gồng
mình chuẩn bị cú nhảy có thể đưa anh qua khỏi vòng lửa.
“Thưa bác sĩ, giữa hai khả năng, thằng bé sẽ lớn lên bình
thường hay không, thì khả năng nào mạnh hơn?”.
“Tôi không thể trả lời anh chắc chắn cho tới khi chúng tôi
mổ xong”.
Không chút thẹn thùng, Điểu làm sang tỏ cái vòng lửa xấu hổ:
“Vậy thì các ông đừng mổ còn hơn”.
Tất cả các bác sĩ chăm bẵm nhìn Điểu và dường như họ nín
thở, Điểu cảm thấy giọng nói của mình không hề vướng chút hổ thẹn. Một điều hay
là Điểu đã không thực hiện quyền tự quyết trơ tráo này, vì vị bác sĩ phẫu thuật
não đã nhanh chóng nhận ra rằng chính Điểu đã bộc lộ ý định mình một cách rõ
ràng.
“Thế thì anh sẽ mang nó về với anh à?” Ông nói một cách cộc
cằn, biểu lộ sự giận dữ.
“Vâng, tôi sẽ mang cháu về”. Điểu cũng nói nhanh.
“Chúng tôi không để anh phải chờ đợi đâu”. Viên bác sĩ dễ
xúc động nhất mà Điểu chạm trán trong bệnh viện này biểu lộ rõ ràng thái độ
đáng ghét của anh ta đối với Điểu.
Điểu đứng dậy và các bác sĩ cũng đứng lên. Tiếng chuông báo
hiệu kết thúc cuộc chơi, anh nghĩ, tôi đã đẩy lui được đứa con kỳ quái.
“Có thật là anh chuẩn bị mang thằng bé đi không?” Viên bác
sĩ nhi khoa trẻ tuổi ngần ngừ hỏi khi họ bước vào phòng đợi.
“Chiều nay tôi sẽ đến đón cháu”.
“Nhớ mang theo đồ mặc cho cháu nhé”,
Viên bác sĩ tránh nhìn gương mặt Điểu và đi về phía dãy hành
lang.
Điểu vội vã bước ra quảng trường trước mặt bệnh viện. Bầu
trời có vẻ u ám, cả Himiko với đôi kính râm lẫn chiếc xe thể thao màu đỏ cũng
nhuốm vẻ xấu xí, tàn tạ. “Tất cả là một sự sai lầm, người ta cười vào mũi anh”.
Điểu cười chế giễu, gương mặt anh méo mó.
“Em đã sợ điều đó”.
“Tại sao?” Giọng Điểu có vẻ gay gắt.
“Chẳng có lý do gì đặc biệt anh Điểu ạ…” Himiko ấp úng trong
miệng.
“Anh đã quyết định đem thằng bé về”.
“Về đâu, đến bệnh viện khác à? Hay quay về căn hộ của anh?”.
Ngay lập tức, anh đắm mình trong nỗi kinh hoàng. Anh cũng
chưa kịp nghĩ sau đó mình sẽ làm gì. Anh chỉ tuyệt vọng chống lại các bác sĩ ở
bệnh viện này muốn nhúng tay giải phẫu cho thằng bé, rồi trút hết gánh nặng cho
phần đời còn lại của anh với đứa trẻ có cái đầu như một cái hang sâu. Bệnh viện
trước hẳn không bao giờ chịu nhận lại “món hàng” mà họ đã từng có lần xem như
đồ bỏ. Còn nếu như anh mang thằng bé về nhà, anh sẽ phải chiến đấu với tính
hiếu kỳ vô độ của bà chủ cho thuê nhà. Giả sử anh tiếp tục chế độ kiêng khem
độc hại cho thằng bé, như bệnh viện áp dụng cho nó đến ngày hôm qua, trong
phòng ngủ của anh, thì thằng bé với cái đầu đôi đó sẽ kêu gào vì đói cho cả khu
phố biết và sẽ làm cho đàn chó sủa inh lên. Và giả sử thằng bé sẽ chết sau vài
ngày gào thét như thế, thử hỏi có vị bác sĩ nào dám làm giấy tờ chứng nhận cho
cái chết của nó? Điểu hình dung ra mình bị bắt giữ vì tội giết hại trẻ con và
những chuyện ghê tởm mà báo giới sẽ dựng lên.
“Em nói đúng đấy. Anh không thể mang nó đi bắt cứ nơi đâu”.
Điểu thờ người, thở ra toàn mùi chua.
“Anh Điểu ạ, nếu chẳng có kế hoạch nào trong đầu…”.
“Thì sao?”.
“Em đang nghĩ tại sao không phó mặc mọi chuyện cho vị bác sĩ
em quen. Em chắc chắn ông ta sẽ giúp một tay cho những ai không muốn có con…Em
đã gặp ông ta khi cần phá thai”.
Một lần nữa, Điểu gặp lại nỗi đau của một tên lính hèn nhát
đã miệt mài bảo vệ lấy mình sau khi cả trung đội của hắn bị cuộc tấn công của
thằng bé quái dị tàn sát hết. Mặt tái xanh, anh lại nhảy qua một vòng lửa khác:
“Anh sẵn sàng nếu vị bác sĩ đồng ý”.
“Đương nhiên – yêu cầu vị bác sĩ giúp đỡ chúng ta – sẽ có
nghĩa là chúng ta…” Giọng của Himiko mang vẻ mỏi mệt bất thường”,… đang nhúng
tay vào vụ mưu sát thằng bé…”.
“Không phải tay chúng ta ma tay anh! Anh sẽ làm bẩn tay mình
vì chuyện mưu sát thằng bé”. Điểu nghĩ, ít ra anh cũng đã tự giải phóng mình
khỏi một sự dối trá. Nhưng nó không mang lại cho anh niềm vui nào, nó giống như
việc bước xuống cầu thang dẫn vào ngục tối chỉ bằng một bước chân.
“Tay chúng ta, anh Điểu ạ -
anh sẽ hiểu – Anh lái xe giùm em được chứ?”
Điểu nhận ra sự căng thẳng cực độ của Himiko trong giọng nói
kéo dài của nàng. Đi vòng ra trước xe, anh trèo vào một chỗ ngồi trước tay lái.
Trong chiếc kính chiếu hậu, Điểu thấy gương mặt Himiko nhợt nhạt và tèm nhem,
một chút phấn trắng lấm chấm quanh môi. Khuôn mặt củ achi1nh anh, chắc hẳn
trông cũng thảm hại không kém. Điểu cố khạc ra ngoài cửa xe nhưng miệng anh khô
khốc, cổ họng anh chỉ phát ra một âm thanh tắc nghẹn. Anh phóng xe chạy bạt
mạng theo kiểu mà anh học được từ Himiko.
“Anh Điểu à, viên bác sĩ mà em nói đó chính là anh chàng
trung niên có cái đầu giống như quả trứng, đứng ngoài cửa sổ gọi em vào cái đêm
đầu tiên anh ở lại nhà em đấy. Anh còn nhớ anh ta không?”.
“Anh nhớ”, Điểu vừa nói vừa nghĩ dướng như đến giờ phút này,
anh còn sống sót được là nhờ không có bất cứ mối quan hệ nào với một con người
như thế.
“Khi nào điện thoại cho anh ta, chúng ta có thể biết phải
cần làm gì để mang thằng bé đến”.
“Viên bác sĩ ở bệnh viện dặn anh đừng quên mang quần áo chỗ
nào để mà lấy chứ”.
“Anh nghĩ đừng lấy thì tốt hơn!” Trong trạng thái háo hức,
Điểu nhớ lại cảnh sốt sắng chuẩn bị cho đứa con hàng ngày. Giờ đây, anh muốn từ
bỏ tất cả những đồ dung trẻ con, cái nôi có mui màu trắng, cái tủ đựng áo quần
em bé màu trắng ngà có tay cầm giống như quả táo, và mọi thứ.
“Anh không thể lấy quần áo cho thằng bé ra khỏi chỗ ấy
được”.
“Thôi, em nghĩ rằng không nên, vợ anh sẽ không bao giờ tha
thứ cho anh nếu chị ấy biết rằng anh đang dung những đồ dung của thằng bé cho
mục đích này”.
Hẳn là vậy, Điểu nghĩ, dù cho anh không muốn lấy bất cứ thừ
gì ra khỏi căn hộ. Vợ anh sẽ không báo giờ tha thứ cho anh khi nàng biết rằng
đứa con đã chết ngay sau khi được chuyển từ bệnh viện này sang bệnh viện khác.
Giờ đây, khi quyết định này được thực hiện thì cuộc hôn nhân của hai người sẽ
không còn có thể kéo dài hơn được bằng cách vây bọc vợ anh trong những mối hồ
nghi mơ hồ. Nó ở ngoài khả năng của anh lúc này, dù cho anh lo lắng chiến đấu
chống lại sự ngứa ngáy nội tâm do điều giả trá gây nên, Điểu đã cắn vào một
thực tại khác được bọc bằng lớp đường lừa lọc.
Khi đến gần một giao lộ rộng – một trong những đường cao tốc
vòng quanh thành phố khổng lồ - họ phải dừng lại vì đèn đỏ, Điểu bồn chồn nhìn
về hướng anh định đi. Bầu trời đầy mây là đà ngay trên mặt đất. Một cơn gió
mang hơi nước rít trên đầu những ngọn cây cao của con đường bụi bặm. Ngọn đèn
giao thông chuyển sang màu xanh đứng sừng sững giữa bầu trời u ám, khiến Điểu
có cảm giác cả người mình như đang bị cuốn hút vào đó. Rằng anh cũng được bảo
vệ bởi chính dấu hiệu giao thông như những kẻ chưa bao giờ phạm tội mưu sát
trong cuộc đời họ, và điều này làm anh có cảm giác khó chịu về sự công bằng.
“Em muốn gọi điện thoại ở đâu?” Anh hỏi, cảm thấy mình giống
như một kẻ phạm tội trên đường trốn chạy.
“Ở cửa hàng thực phẩm gần nhất. Sau đó ta sẽ mua ít xúc xích
và thức ăn nhẹ bữa trưa”.
“Được thôi”. Điểu nói một cách phục tùng, mặc dù bụng anh
bắt đầu khó chịu. “Nhưng liệu ông bạn em bằng lòng giúp chúng ta không?”.
“Cái đầu tròn vo của anh ta khiến cho anh ta có vẻ nhân từ,
nhưng thật ra anh ta đã làm những điều kinh tởm. Chẳng hạn như…” Himiko rơi vào
im lặng một cách gượng gạo và cong đầu lưỡi liếm môi. Thế có nghĩa là người đàn
ông nhỏ con ấy đã gây ra những điều đáng sợ đến nỗi Himiko không đủ can đảm kể
lại! Điểu lại cảm thấy buồn nôn, bữa ăn trưa với xúc xích không còn cần thiết
nữa. Thật vậy.
Điểu lên tiếng: “Khi điện thoại xong, chúng ta nên mua cho
thằng bé cái gì để mặc thay vì bận tâm đến chuyện xúc xích, cũng như bận tâm
đến cái nôi. Anh nghĩ đến cửa hàng bách hóa la nhanh nhất. Nếu không thì anh sẽ
phát điên vì chuyện mua sắm quần áo con nít đấy”.
“Em biết chúng ta cần gì mà anh Điểu, anh có thể đợi ở xe”.
“Ngay sau khi vợ anh có mang, anh đã đi mua sắm với cô ấy.
Cửa hàng đầy những bà bầu và những đứa bé la khóc, bầu không khí ấy có một cái
gì đó rất thú vật”.
Điểu liếc nhìn Himiko và thấy sắc mặt nàng nhợt nhạt, có lẽ
nàng cũng cảm thấy buồn nôn. Họ cho xe chạy tiếp, cả hai xanh xao và im lặng.
Cuối cùng khi Điểu lên tiếng, anh không nghĩ mình đang tự xỉ vả:
“Khi thằng bé chết và vợ anh hồi phục, anh nghĩ là bọn anh
sẽ ly dị. Và sau đó, anh sẽ là một thằng đàn ông tự do thực sự, đó là điều anh
đã mơ ước từ nhiều năm nay, còn bây giờ thì anh đã mất việc và mất tất cả.
Nhưng thật buồn cười, anh chẳng thấy sung sướng về chuyện đó chút nào”.
Lúc này gió thổi mạnh hơn từ phía Điểu qua Himiko, vì vậy
nàng phải cao giọng nói cho át tiếng gió. Nàng nói như thét: “Anh Điểu, khi nào
anh trở thành một người đàn ông tự do, chúng ta có thể bán nhà như bố chồng em
gợi ý và cùng đi châu Phi với nhua được chứ?”.
Châu Phi thật sự đã ở trong tầm tay! Nhưng đó chỉ là một
châu Phi hoang vắng, vô vị mà lúc này Điểu có thể hình dung được. Kể từ khi anh
nhận thức được nỗi đam mê của mình từ lúc còn trai trẻ, đây là lần đầu tiên
châu Phi mất vẻ lấp lánh hào quang của nó trong lòng anh. Một con người tự do
dừng chân trong sa mạc Sahara u ám. Hắn đã
giết một đứa trẻ trên một hòn đảo lơ lửng như con chuồn chuồn ở 140 độ đông
kinh tuyến. Sau đó, hắn trốn chạy đến đây, lang thang khắp châu Phi, không bẫy
được con chuột chù đơn độc mà bỏ mặc con cừu non man rợ có bướu. Giờ đây hắn
đứng câm lặng giữa sa mạc Sahara.
“Châu Phi à?” Điểu đờ đẫn nói:
“Anh Điểu, lúc này anh có vẻ như hơi thối lui rồi đấy, giống
như một con ốc sên thu mình trong vỏ. Nhưng rồi anh sẽ phục hồi nỗi đam mê của
mình ngay khi anh đặt chân lên đất châu Phi thôi”.
Điểu im lặng.
“Anh Điểu, em đã bị những tấm bản đồ của anh lôi cuốn rồi.
Em muốn anh ly dị để chúng mình có thể cùng nhau du lịch sang châu Phi và sử
dụng chúng như những bản đồ chỉ đường thực sự. Tối qua em đã nghiên cứu chúng
hàng giờ liền sau khi anh ngủ và em nghĩ em đã bị lên cơn sốt về chuyến đi này
như anh vậy. Giờ đây, sự tự do của anh rất cần thiết đối với em anh Điểu ạ. Em cần
anh như một người đàn ông tự do. Anh không đồng ý khi em nói chúng ta đang làm
bẩn tay chúng ta, nhưng anh lầm đấy, anh Điểu, thật sự anh lầm rồi. Tay của chúng ta. Anh Điểu, chúng ta sẽ cùng đi châu Phi,
không phải sao?!”.
Có vẻ như người mất hồn đau khổ, Điểu lên tiếng: “Nếu em
muốn như thế”.
“Lúc đầu, mối quan hệ của chúng ta chỉ thuần tình dục, em
chỉ là chỗ ẩn náu tình dục cho nỗi âu lo và tủi nhục của anh. Nhưng đêm qua, em
nhận ra rằng trong em cũng dấy lên nỗi đam mê châu Phi. Điều đó có nghĩa là
giữa chúng ta có mối dây ràng buộc mới, anh Điểu ạ. Giờ đây, cái liên kết chúng
ta chính là tấm bản đồ châu Phi. Chúng ta nhảy từ cái hố tình dục lên tới mặt
đất cao hơn, đó là điều mà em hằng mong ước xảy ra và giờ đây, thật long em
đang cảm thấy có được nó anh Điểu ạ. Chúng ta cùng một nỗi đam mê! Vì thế mà em
giới thiệu anh đến anh bạn bác sĩ của em và làm bẩn tay mình cùng với tay
anh!”.
Bất chợt những âm thanh rì rào đập vào kính chắn gió khi cơn
mưa trắng nhẹ như sương mù rắc lên cửa kính ô tô. Ngay lúc ấy, Điểu và Himiko
cảm thấy cơn mưa đập vào mắt mũi họ. Bầu trời bỗng dưng tối sầm từ mọi phía và
cơn gió xoáy gay gắt nổi lên. “Xe em căng mui được không?” Điểu nói như thằng
ngốc buồn rầu. “Nếu không, thằng bé sẽ ướt hết”.
12
Vào lúc Điểu kéo vừa xong mui xe màu đen lên thì một cơn gió
quay tít quanh con đường như một chú gà hoảng hốt ngửi thấy mùi xúc xích và tỏi
cháy. Những lát tỏi khô cắt mỏng trộn trong bơ, thêm xúc xích và nước vừa đủ để
hấp: đó là món ăn mà ông Delchef đã dạy anh, Điểu tự hỏi không biết điều gì xảy
ra với ông Delchef. Có lẽ giờ này ông ta đã bị bắt đi khỏi cô gái Nhật nhỏ bé,
xanh xao kia và đã quay lại tòa công sứ. Trong cái ổ chuột ở tận cùng hẻm cụt
ấy, ông ta có cố gắng kháng cự mãnh liệt không nhỉ?Liệu cô bạn tình của ông có
kêu khóc bằng thứ tiếng Nhật mà chính ông Delchef cũng như những nhân viên tòa
công sứ không thể nào hiểu nổi khi họ đến mang ông ta đi? Cuối cùng, sự chọn
lựa duy nhất của họ có thể làm cam chịu mà thôi.
Điểu chăm chăm nhìn chiếc xe thể thao. Với chiếc mui đen
trên cơ thể đỏ chói của nó, chiếc xe trông giống như thịt của một vết thương bị
xé toạc và xung quanh là những vảy. Sự kinh tởm dậy lên trong lòng Điểu. Bầu
trời tối lại, không khí ẩm ướt và trương phình lên, một cơn gió đang ào ào thổi
đến. Mưa tràn ngập không gian như sương
mù và một cơ gió mạnh cuốn nó đi thật xa rồi bất ngờ quay ngược trở lại. Điểu
nhìn lên những tàu cây sum suê đang rung chuyển phía trên mui xe và thấy cơn
mưa dữ dội rửa sạch vẻ u sầu của chúng thành một màu xanh thật sống động . Đó
là màu xanh, màu xanh của ngọn đèn giao thông cho phép anh tiếp tục cuộc hành
trình trên giao lộ đường cao tốc. Anh trầm ngâm nghĩ có lẽ anh sẽ thấy màu xanh
đầy sinh khí này vào giờ phút lâm chung. Điểu cảm thấy như anh sắp bị bàn tay
của một tên phá thai mờ ám dẫn vào cõi chết. Chính anh chứ không phải thằng bé.
Cái nôi và áo quần thằng bé đặt trên bậc thềm trước nhà,
Điểu nhặt lên rồi nhét vào chỗ trống phía sau ghế ngồi của tài xế. Đồ lót, vớ,
những cái áo liền quần bằng len, cả một chiếc mũ tí tẹo: đó là những thứ mà
Himiko đã mất rất nhiều thì giờ để chọn lựa.Điểu đã phải chờ cả tiếng đồng hồ,
đến độ anh phải tự hỏi liệu Himiko có bỏ rơi anh không. Anh không thể hiểu tại
sao nàng có thể phung phí thời gian đến như vậy để cẩn thận chọn lựa quần áo
cho một đứa trẻ sắp chết: sự nhạy cảm của phụ nữ luôn luôn kỳ lạ.
“Anh Điểu, bữa ăn trưa chuẩn bị xong rồi”. Từ cửa sổ phòng
ngủ Himiko gọi ra.
Điểu thấy Himiko đang đứng trong bếp ăn xúc xích. Anh tò mò
nhìn vào chiếc chảo chiên rồi thụt lùi lại, giật nẩy người vì mùi tỏi. Quay về
phía Himiko đang chăm chăm nhìn anh một cách tò mò, anh yếu ớt lắc đầu. “Nếu
anh không them ăn, tại sao anh không đi tắm đi?” Giọng nàng sặc mùi tỏi.
“Có lẽ thế”, Điểu nhẹ nhõm nói. Mồ hôi trên người anh đã làm
đông đặc bụi đất.
Điểu thận trọng rụt đôi vai khi tắm. Chuyện tắm nước nóng
thường làm cho anh tỉnh táo, nhưng lúc này anh chỉ cãm thấy đau nhói trong tim,
Điểu nhắm chặt đôi mắt dưới những tia nước ấm, ngã đầu ra sau, lần này với ý
thức, và cố dung mặt dưới của hai ngón tay cái gãi sau tai. Một phút sau,
Himiko nhảy đến bên cạnh anh, tóc nàng che kín trong chiếc mũ tắm bằng chất
vinyl có hình dáng giống như quả dưa hấu và bắt đầu kỳ cọ thân thể bằng một bánh
xả phòng. Vì thế Điểu ngưng chơi trò gãi tai và rời khỏi phòng tắm. Trong lúc
đang lau khô người, Điểu nghe tiếng uỵch của một vật gì đó to lớn và nặng nề
đụng mặt đất bên ngoài. Khi anh đến cửa sổ phòng ngủ, anh thấy chiếc tàu sắp
sửa chìm. Bánh xe trước phía phải đã biến mất! Không kịp lau khô người, Điểu
vội mặc quần áo vào và ra ngoài xem xét chiếc xe. Anh nhận ra những bước chân
đang chạy trốn xuống con đường hẹp, nhưng thay vì đuổi theo, anh lại đứng lại
kiểm tra sự hư hại. Không có dấu vết
bánh xe. Đèn pha bên tay phải đã bị vỡ. Một kẻ nào đó đã kích chiếc MG lên,
tháo bánh ra, rồi đứng trên đòn bẩy để
lật nghiêng chiếc xe xuống đất gây ra cú va mạnh đến độ làm đen pha bị vỡ. Bên
dưới xe, cái kích nằm giống như một cánh tay gãy.
“Có kẻ trộm mất một bánh xe rồi”, Điểu nói lớn với Himiko.
Lúc này nàng vẫn còn trong phòng tắm. “Một chiếc đèn pha bị vỡ. Anh hy vọng em có
phụ tùng thay thế chứ!”.
“Phía sau mái hiên ấy”.
“Nhưng ai ăn cắp mất bánh xe?”.
“Anh nhớ cậu nhỏ bên kia cửa sổ tối hôm đó chứ? Chính nó chứ
không ai khác. Nó trốn gần đầu đó với cái bánh xe và em đánh cuộc với anh là nó
đang nhìn chừng chúng ta”. Himiko đáp lại như chẳng có chuyện gì phải ầm ĩ và
đi khỏi đây, em cá là thằng bé sẽ phát khóc lên trong bụi, nó sẽ quê ghê lắm
đấy. Hãy thử xem”.
“Thế cũng tốt nếu chiếc xe chạy được. Để anh xem có sửa được
không”.
Điểu thay bánh xe, bùn đất và dầu mỡ dính đầy hai tay. Công
việc làm anh đổ mồ hôi nhiều hơn trước khi anh tắm. Khi làm xong, anh thận
trọng khởi động máy, ổn cả. Họ phải chậm một chút nhưng chắc chắn mọi việc sẽ
kết thúc trước khi trời tối, họ chẳng cần đèn trước xe. Điểu cảm thấy thích tắm
lại nhưng Himiko đã sửa soạn xong, ngoài tra, lúc này anh cũng đâm ra bực tức
đến nỗi ngay cả chuyện trì hoãn dù mảy may cũng không thể chịu được. Họ ra khỏi
nhà. Khi xe chạy có ai đó sau lưng họ ném đá vào xe.
“Em cũng vào chứ!” Điểu khẩn khoản khi Himiko không có động
tác rời khỏi xe. Hai người cùng vội vã bước xuống dãy hành làng dài đi đến khu
chăm sóc đặc biệt, Điểu ôm chặt cái nôi còn Himiko ôm quần áo thằng bé. Điểu
nhận biết tâm trạng căng thẳng đặc biệt của mình và thái độ lạnh nhạt của những
bệnh nhân mà họ gặp trong dãy hành lang. Nó chính là ảnh hưởng của cơn mưa đập
vào ngọn gió dã man rồi bất ngờ thoát lui tuồng như đuổi bắt, vá của cú sấm ì
ầm từ xa. Khi Điểu bước xuống hành lang với cái nôi trong tay, anh suy tính
cách đề cập tốt nhất với các cô y tá về chuyện đưa thằng bé ra khỏi bệnh viện,
càng lúc anh càng thấy khiếp sợ. Nhưng khi anh bước vào khu chăm sóc thì mọi
người đã biết rằng anh sẽ đem đứa bé đi cùng với anh, Điểu nhẹ người. Dù vậy,
anh vẫn giữ bộ mặt lung túng và nhìn xuống sàn nhà, trả lời một cách hết sức
ngắn gọn những câu hỏi thuần về thủ tục, Điểu sợ những cô y tá trẻ tò mò mở
miệng hỏi tại sao anh mang thằng bé đi mà không giải phẫu hoặc anh định mang nó
đi đâu.
“Anh hãy cầm tấm phiếu này đến văn phòng và trả những khoản
tiền cần thiết”, cô y tá nói: “Trong lúc ấy tôi sẽ gọi bác sĩ trực”.
Điểu lấy tấm phiếu lớn. Một tấm phiếu màu hồng ti tiện.
“Tôi có mang một ít áo quần cho thằng bé…”.
“Dĩ nhiên là chúng tôi sẽ cần đến. Tôi sẽ lấy ngay bây giờ”.
Khi lên tiếng, đôi mắt cô y tá lộ rõ vẻ bực mình. Lập tức, Điểu đưa hết áo quần
của thằng bé. Cô y tá dò xét từng cái một, chỉ ném lại cho anh cái mũ.Điểu lung
túng cuộn tròn nó lại nhét vào túi. Rồi anh bực tức quay lại phía Himiko, nàng
chẳng để ý gì cả.
“Gì thế anh?”
“Chẳng có gì. Anh phải đến văn phòng một chút”.
“Em đi với”, Himiko vội vàng nói, như sợ bị bỏ rơi. Suốt
cuộc thương lượng với các y tá, hai người đứng vặn vẹo thế nào mà những đứa trẻ
nằm bên kia bức vách kính ngăn không thể lọt vào tầm nhìn của họ được.
Khi cô gái ở ô cửa phòng tiếp tân nhận tấm phiếu màu hồng,
cô ta hỏi giấy tờ của Điểu và nói: “Tôi biết anh sẽ từ giã chúng tôi – xin chúc
mừng!”.
Điểu chẳng xác nhận mà cũng chẳng chối bỏ, chỉ gật đầu.
“Anh đặt tên cho con anh là gì chưa?” Cô gái hỏi tiếp.
“Chúng tôi… chưa quyết định”.
“Hiện thời thì cháu được ghi đơn giản là đứa con trai đầu lòng
của anh, nhưng nếu chúng tôi có một cái tên trong hồ sơ của cháu thì hay hơn
nhiều”.
Một cái tên! Điểu nghĩ. Lúc này cũng như khi ở trong phòng
bệnh của vợ anh, ý nghĩ của anh như cuộn tơ vò. Ban cho con quái vật một cái
tên và từ khoảnh khắc đó nó có vẻ là người hơn, có thể nó bắt đầu tự khẳng định
là một con người. Sự khác biệt giữa cái chết trong lúc con quai vật không tên
và cái chết sau khi Điểu cho nó một cái tên, đối với anh sẽ có nghĩa là sự khác
biệt về bản chất hiện hữu của con người.
“Ngay cả một cái tên tạm thời anh cũng không tìm ra được à?”
Cô gái hỏi một cách vui vẻ, mặc dù giọng no1icu3a nàng không đi đôi với vẻ
ngoan cố của nàng.
“Anh Điểu, đặt tên cho cháu chẳng hại gì cả”. Himiko nóng
nảy lên tiếng.
“Tôi sẽ gọi nó là Kikuhiko”, Điểu nói khi nhớ đến những lời
của vợ anh, rồi anh viết tên đó ra cho cô gái.
Chuyện tiền bạc đã giải quyết, Điểu lấy lại gần toàn bộ số
tiền mà anh đã gởi để đóng quỹ tạm. Đứa bé chỉ dùng sữa loãng và nước đường, vì
ngay cả thuốc kháng sinh cũng bị từ chối, nên chuyện nằm bệnh viện của nó chẳng
mấy tốn kém.
Điểu và Himiko quay xuống hành lang trở lại khu chăm sóc đặc
biệt.
“Đây là món tiền mà anh rút ra từ tiền để dành cho chuyến du
lịch sang châu Phi. Và trong phút giây anh quyết định sát hại thằng bé rồi đi
châu Phi với em, nó lại quay về túi anh…” Điểu nó như kẻ mất hồn, không biết
chắc mình muốn nói gì.
“Và rồi chắc chắn chúng ta sẽ dùng món tiền này ở châu Phi”,
Himiko nói một cách thoải mái. Nàng tiếp: “Anh Điểu, cái tên Kikuhiko đó… Em
biết có một quán rượu dành cho những người đồng dâm nam tên là Kikuhiko, viết
cùng những mẫu tự như thế. Tên của người chủ là Kikuhiko”.
“Cậu ta bao
nhiêu tuổi?”
“Thật khó mà
nói cho chính xác, có lẽ nhỏ hơn anh bốn năm tuổi gì đó”.
“Anh cá là
hắn chính là tên Kikuhiko mà anh quen trước kia. Trong suốt thời kỳ chiếm đóng hắn có quan hệ tình cảm
với một tùy viên văn hóa Mỹ và rồi hắn trốn khỏi Tokyo”.
“Thật là một sự ngẫu nhiên! Anh Điểu, sau này chúng ta đến
đó chư!”.
Sau này, Điểu nghĩ, sau khi bỏ rơi đứa con cho kẻ phá thai
ám muội!
Điểu nhớ lại chuyện bỏ rơi người bạn trẻ Kikuhiko trong đêm
khuya ở một tỉnh lỵ. Và bây giờ đứa con mà anh sắp sửa bỏ rơi cũng có tên
Kikuhiko. Đúng là những cạm bẫy ranh ma ngay cả trong hành động của chuyện đặt
tên. Trong một thoáng Điểu cân nhắc đến chuyện quay trở lại để sửa tên thằng
bé, nhưng ý định này tan biến ngay tức khắc vì tính yếu đuối của Điểu. Điểu bỏ
đi chỉ để làm tăng thêm sự đau khổ cho chính mình. “Đêm nào đó chúng ta sẽ đến
quán rượu của Kikuhiko”, anh nói. “Hẳn là sẽ thức suốt đêm”.
Đứa con của Điểu – Kikuhiko đang nằm trong nôi, mặc quần áo
len dài mà Himiko đã chọn, được mang đến bên này tấm vách kính ngăn. Bên cạnh
chiếc nôi là viên bác sĩ trực cố ý đợi Điểu, Điểu và Himiko đứng đối diện với
viên bác sĩ bên kia chiếc nôi, Điểu cảm thấy Himiko bị chấn động khi nàng nhìn
thấy thằng bé. Bây giờ thì nó to con hơn, đôi mắt mở ra trông giống những nếp
gấp sâu dưới làm da đỏ hỏn và đang nhìn họ, nghiêng về một bên. Ngay cả khối u
trên đầu thằng bé cũng có vẻ lớn hơn nhiều. Nó đỏ hơn khuôn mặt thằng bé, bóng
lưỡng, sưng phù. Trong đôi mắt mở của nó, thằng bé có cái nhìn héo hon, cổ kính
của những nhà tu khổ hạnh trong các bức tranh cuộn của phía Nam tong, nhưng rõ ràng nó thiếu
chất người, có lẽ tỷ lệ phần trước đầu phải gánh chịu khối u vẫn còn làm cho nó
hết sức khó chịu. Thằng bé đang lắc lư hai bàn tay nắm chặt, như thể nó muốn
trốn khỏi cái nôi.
“Anh Điểu, nó chẳng giống anh”, Himiko thì thầm với giọng
khàn đục.
“Nó chẳng giống bất cứ ai, ngay cả người cũng không!”.
“Tôi không muốn nói…” Viên bác sĩ lên tiếng trách nhẹ.
Điểu liếc nhìn những đứa bé bên kia vách kính ngăn. Ngay lúc
ấy tất cả bọn trẻ vặn mình trên giường, cùng lúc gây náo động. Điểu nghĩ rằng
bọn chúng đang mach lẻo với nhau có một người bạn bị bắt đi. Điều gì sẽ xảy ra
cho thằng bé đang tè trong lòng ấp với đôi mắt đầy suy tư kia? Và người cha ưa
tranh đấu của đứa con không có gan, liệu ông ta có ở đây trong chiếc quần chẽn
gối màu nâu và sợi thắt lưng da để bắt đầu một cuộc tranh luận khác?
“Anh làm đầy đủ thủ tục ở văn phòng rồi phải không?” Cô y tá
hỏi.
“Đầy đủ cả rồi.”
“Giờ thì anh thích làm gì tùy ý!”
“Anh có chắc rằng không cần suy xét lại không?” Viên bác sĩ
ưu tư hỏi.
“Hoàn toàn chắc,” Điểu trả lời môt cach cứng rắn. “Xin cám
ơn mọi việc.”
“Đừng cảm ơn tôi- Tôi chẳng làm gì cả.”
“Thôi được, xin chào bác sĩ.”
Viên bác sĩ đảo mắt và chừng như hối tiếc vì đã cao giọng
với Điểu, lúc này anh ta nói với giọng nhẹ nhàng: “Xin chào, hãy giữ mình
nhé!”.
Khi Điểu bước ra khỏi khu chăm sóc, những bệnh nhân đang thơ
thẩn trên hành lang quay lại như biết điều gì xả ra và tiến về phía thằng bé.
Điểu trừng mắt, cặp lông mày vểnh ngược, bước thẳng về phía hàng lang, khom
người xuống chiếc nôi như muốn bảo vệ đứa bé, Himiko vội vã theo sau. Mất tinh
thần vì vẻ mặt giận dữ của Điểu, đám bệnh nhân dạt về phía hành lang mờ tối,
vẫn đầy vẻ nghi ngại, nhưng có lẽ vì thằng bé, họ mỉm cười.
“Anh Điểu”, Himiko vừa nói vừa quay nhìn về phía sau, “ông
bác sĩ đó hoặc một trong số các cô y tá dám báo cho cảnh sát biết lắm đó”.
“Họ làm gì mặc kệ”, Điểu nói một cách giận dữ. “Đừng quên
rằng chính họ cũng góp phần giết thằng bé bằng cách cho uống sữa loãng với nước
đường”.
Hai người tiến đến cổng chính và một đám bệnh nhân ngoại trú
trông như đang giận dữ nhìn họ. Điểu không có gì để bảo vệ đứa bé khỏi sự tò mò
quá mức của đám người này trừ đôi long mày vểnh ngược của anh, Điểu cảm thấy
mình như một cầu thủ đơn độc dẫn quả bong đến cầu môn đang được cả đội đối
phương trấn giữ. Anh do dự và chợt nhớ ra: “Có cái mũ trong túi quần của anh
đấy. Em lôi ra dùm để che đầu thằng bé được không?”
Điểu nhìn thấy cánh tay của Himiko run lên khi nàng làm theo
yêu cầu của anh. Rồi hai người lao thẳng về phía những kẻ xa lạ đang đi ngược
chiều với những nụ cười xấc xược. “Đứa bé đáng yêu thật, giống như một thiên
thần!” Một bà trung niên thốt lên và mặc dù Điểu cảm thấy mình giống như cái
đích của trò bỡn cợt gớm ghiếc, anh cũng không chùn bước hoặc ngay cả chuyện
ngẩng đầu lên cho đến khi thoát khỏi đám đông.
Bên ngoài trời lại mưa, một trận mưa như trút nước khác của
ngày hôm nay, Himiko cho xe chạy xuyên qua làn mưa,lùi lại nơi Điểu ôm chiếc
nôi đứng đợi. Điểu trao chiếc nôi cho Himiko rồi leo lên xe và nhận lại đứa bé.
Để giữ cho chiếc nôi an toàn trên đùi, anh phải ngồi thẳng người, cứng đờ như
một pho tượng vua Ai Cập.
“Ổn chứ anh?”.
“Ừ”.
Chiếc xe lao về phía trước như bắt đầu một cuộc đua. Tai
Điểu chạm vào thanh chống mui đau điếng.
“Mấy giờ rồi anh Điểu?”
Tay phải đỡ chiếc nôi, Điểu nhìn đồng
hồ. Kim chỉ giờ dừng lại ở con số vô lý, đồng hồ đứng. Điểu đeo đồng hồ theo
thói quen nhưng đã không xem giờ từ nhiều ngày nay, nó đứng hay chạy lúc nào
anh cũng không biết. Anh cảm thấy như mình đang sống ngoài thời gian dành cho
những con người có cuộc sống bình yên, không bị đau khổ vì đứa con quái dị.
“Đồng hồ anh bị đứng rồi”. Anh lên tiếng.
Himiko nhấn nút radio trên xe. Đang chương trình phát tin:
xướng ngôn viên đang đề cập đến hậu quả của việc bắt đầu lại cuộc thử nghiệm
hạt nhân của Liên Xô. Liên minh chống Chiến tranh Hạt nhân của Nhật lên tiếng
ủng hộ cuộc thử nghiệm của Liên Xô. Tuy nhiên có tình trạng chia rẽ bè phái trong
Liên minh và có nhiều khả năng cuộc hội thảo thế giới sắp tới về việc bãi bỏ vũ
khí hạt nhân sẽ bế tắc vì bất đồng ý kiến. Đài đang phát băng nhạc viết về
những nạn nhân Hiroshima
chống đối lời tuyên bố của Liên minh. Có thế nào thực sự có được một thứ vũ khí
hạt nhân trong sạch như thế? Điều gì sẽ
xảy ra nếu những cuộc thử nghiệm được các nhà khoa học Liên Xô thực hiện ở vùng
Siberia hoang vu, có thực một quả bom hydrogen
lại không gây hại cho người hay thú vật không?
Himiko đổi đài. Chương trình nhạc quen thuộc, một bản tango
– không thể nào Điểu phân biệt được một điệu tango với một điệu nhạc khác. Bản
nhạc như kéo dài vô tận: cuối cùng Himiko phải tắt radio. Họ đã thất bại trong
việc xác định giờ giấc.
“Anh Điểu, hình như Liên minh Chống Chiến tranh Hạt nhân đã
nắm hết vấn đề thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Liên Xô”, Himiko bang quơ lên
tiếng.
“Có lẽ như thế”, Điểu đáp lại.
Trong thế giới loài người này, thời gian đang trôi qua, thứ
thời gian duy nhất của nhân loại, và số phận đã tóm lấy toàn thể thế giới là
thứ số phận đang dẫn dắt lũ quỷ dữ. Mặt khác, Điểu chỉ có thể chịu trách nhiệm
với đứa bé đang nằm trong chiếc nôi trên long anh, với con quái vật điều khiển
số phận của riêng anh.
“Anh Điểu này, anh có nghĩ rằng có người muốn một cuộc chiến
tranh hạt nhân, không phải vị họ bám theo lợi ích kinh tế hoặc chính trị của
việc chế tạo vũ khí nguyên tử, mà đơn giản chỉ vì họ muốn như thế không? Em
muốn nói rằng nếu đa số chúng ta tin mà không có lý do đặc biệt nào rằng hành
tinh này phải được trường tồn và hy vọng rằng nó sẽ trường tồn, thì cũng có
những kẻ có tâm hồn đen tối tin tưởng mà không có lý do rõ rang, rằng loài
người phải bị hủy diệt. Ở miền Bắc Âu có một loài thú nhỏ như chuột, tên gọi là
Lemmut, thỉnh thoảng người ta phát hiện ra chúng tự sát tập thể. Anh Điểu, em
tự hỏi, không biết trên trái đất này, ở một nơi nào đó cũng có những con người
giống như loài lemmut ấy không nhỉ?”.
“Những con người mang lốt lemmut với tâm hồn đen tối ư? Liên Hiệp quốc có quyền thực hiện
chương trình theo dõi họ”.
Dù đồng tình, Điểu cũng không muốn tham gia vào cuộc vận
động chống lại những người giống loài lemmut có tâm hồn đen tối. Thực ra, anh
đang ý thức được sự hiện diện của loài lemmut có trái tim đen đang thì thầm
trong lòng mình.
“Nóng quá phải không anh?” Himiko lên tiếng, việc thay đổi
đề tài một cách sống sượng của nàng như muốn nói cuộc đối thoại sa đà của họ
không gây hứng thú cho nàng.
“Ừ, nóng thật”.
Cái nóng từ bộ máy dưới sàn xe bốc lên, và vì mui xe đóng
kín nên dần dần họ cảm thấy như bị nhốt trong lò nướng. Nhưng nếu họ mở một góc
mui ra thì rõ ràng gió sẽ tạt mưa vào,
Điểu đăm chiêu nhìn cái chốt cài, đó là
một loại mui quá mức lỗi thời.
“Anh chả làm được gì đâu, anh Điểu”. Himiko dò xét thấy sự
thất vọng của Điểu. “Mình hãy dừng đâu đó một lát để mở cửa nhé”.
Điểu trông thấy một chú chim sẻ ướt sũng đang nằm chết trên
đường ngay trước mũi xe. Chiếc xe trờ tới sát con chim chết và vì không thấy
được nó nên Himiko bẻ thật mạnh tay lái sang một bên khiến bánh xe sụp ngay một
ổ gà nằm dưới vũng nước bùn vàng xỉn. Điểu đập cả hai tay vào bảng đồng hồ báo
nhưng vẫn không bỏ lơi chiếc nôi. Anh buồn bã nghĩ: khi tới được dưỡng đường
của viên bác sĩ phá thai, có lẽ người mình đã đầy thương tích.
“Xin lỗi anh”, Himiko nó. Hẳn nàng cũng bị va đập vì qua
giọng nói nàng có vẻ bị đau. Cả hai đều tránh nhắc đến con chim sẻ chết.
“Chẳng có gì quan trọng”. Đặt lại chiếc nôi vào lòng, lần
đầu tiên Điểu cúi xuống nhìn thằng bé kể từ khi anh leo lên xe. Khuôn mặt đứa
bé đỏ bừng lên như giận dữ, nhưng dường như nó đang thở thoi thóp. Bị nghẹt thở
rồi! Điểu hoảng hốt lay chiếc nôi. Đột nhiên, thằng bé há rộng miệng như muốn
ngoạm vào những ngón tay của Điểu, khóc ré lên bằng cái giọng to đến khó tưởng
tượng nổi.
U-oa…u-oa…u-oa… thằng bé cứ liên tiếp gào lên, mặt nhăn lại
và những giọt nước mắt lớn, trong suốt từ đôi mắt nhắm nghiền chảy dài xuống.
Khi đã qua cơn hốt hoảng, Điểu lấy tay bụm đôi môi hồng đang gào la của thằng
bé và cố kềm chế nỗi hoang mang khác bùng lên. Oe…oe…oe…thằng bé tiếp tục gào
u-oa…u-oa…u-oa…khiến chiếc mũ có hình những chú dê con trùm cục bướu trên đầu
nó đung đưa.
“Anh luôn luôn cảm thấy tiếng gào của thằng bé mang đầy ý
nghĩa nhỉ”. Himiko cất cao giọng cho át tiếng khóc của thằng bé. “Với tất cả
những gì chúng ta biết, có thể là nó chứa đựng đầy đủ ý nghĩa tiếng nói của con
người”.
Thằng bé vẫn gào u-oa…u-oa…u-oa….
Điểu nói một cách bực dọc: “May mà chúng ta không có khả
năng hiểu hết”.
Chiếc xe lao đi, mang theo tiếng la khóc của thằng bé. Tiếng
khóc the thé giống như tiếng gáy của hàng ngàn con dế, có khi lại giống như cả
Điểu lẫn Himiko hòa nhập vào than xác của một con dế đơn độc và đang cùng gáy
với nó. Chẳng mấy chốc cái nóng và tiếng gào của thằng bé bao trùm trong xe
không thể chịu nổi nữa, Himiko đành tấp xe vào lề và mở toang cả hai cánh cửa.
Không khí nóng bức, ẩm ướt trong xe thoát ra ngoài giống như một người bệnh vừa
ợ hơi. Hơi lạnh và ướt ùa vào cùng với những giọt mưa. Người Điểu và Himiko mới
đẫm mồ hôi, giờ đây lại run lên vì lạnh. Một hạt mưa nhỏ còn rơi cả vào trong
nôi đang đặt trong long Điểu, nước bám trên đôi má đỏ lửng của thằng bé từng
hạt nhỏ hơn cả những giọt nước mắt. Tiếng khóc của thằng bé lúc này nhẹ nhàng
hơn – a…a…a… kèm theo những cơn ho làm rung cả cơ thể của nó. Rõ ràng là tiếng
ho không bình thường, Điểu tự hỏi liệu thằng bé có bị bệnh đường hô hấp chăng.
Cuối cùng anh cũng tìm cách che cho nó khỏi bị mưa bằng cách quay chiếc nôi
tránh cửa xe.
“Anh Điểu này, bỗng dưng mang thằng bé ra ngoài trời lạnh
như thế này khi nó vừa từ lồng ấp ra, e nguy hiểm đấy. Nó có thể bị viêm phổi
mất!”.
“Anh biết”, Điểu nói với vẻ mệt mỏi, nặng nề cổ hữu.
“Em không biết phải làm sao đây”.
“Em có nghĩ phải làm cái quỉ quái gì cho thằng bé khỏi khóc
vào lúc như thế này không?” Chưa bao giờ Điểu lại cảm thấy mình hoàn toàn thiếu
kinh nghiệm như thế.
“Em thường thấy người ta cho chúng bú” Himiko ngưng một lúc
như sợ hãi, rồi nàng vội nói thêm “Ta phải mang theo ít sữa anh ạ”.
“Sữa loãng ư? Hay nước đường?” Chính sự mệt mỏi đã làm cho
Điểu thêm nghi ngờ.
“Để em chạy chạy vào hiệu thuốc tây. Có thể họ có bán loại
đồ chơi, anh gọi nó là gì nhỉ? Anh biết không, loại có hình như cái núm vú
ấy?”.
Và Himiko lao ra ngoài mưa, Điểu vừa đu đưa chiếc nôi vừa
nhìn theo người tình của mình vội vã chạy trên đôi giày đế bằng. Không có người
phụ nữ Nhật nào lại được học hành tốt hơn Himiko, nhưng sự giáo dục ấy đã mục
rửa trên kệ chén dĩa. Nàng chẳng có những kiến thức thường tình về cuộc sống
hàng ngày như đa số những phụ nữ bình thường khác. Có thể vì nàng chưa bao giờ
có con. Điểu nhớ lại Himiko thời học năm đầu tiên ở trường đại học, nàng là cô
gái sống động nhất trong nhóm sinh viên năm thứ nhất, và anh cảm thấy thương
hại cho một Himiko đang nhảy qua vũng nước bùn như một con chó vụng về. Có ai
trên cõi đời này tiên đoán được một tương lai như thế này của cô sinh viên trẻ
trung, thông thái và đầy tự tin năm xưa? Nhiều chiếc xe tải đường dài rầm rập
chạy qua như một đàn tê giác, làm rung cả chiếc xe lẫn Điểu và thằng bé. Điểu
nghe như trong tiếng rì rầm của đoàn xe có tiếng kêu gọi khẩn cấp, mặc dù ý nghĩa
của nó không rõ ràng. Đó là một ảo tưởng, nhưng anh đã nghe nó rất rõ trong
vòng một phút đồng hồ.
Himiko cúi đầu nương theo những cơn gió mạnh mang theo mưa
khi nàng cố gắng quay lại chỗ chiếc xe, mặt nàng nhăn lại một cách lộ liễu
chứng tỏ nàng đã nổi đóa. Nàng không chạy nữa: Điểu đọc thấy trên cơ thể đẫy đà
của nàng một sự mệt mỏi rã rời giống như của anh. Nhưng khi đến nơi nàng lại
nói một cách vui vẻ, giọng nàng át cả tiếng của thằng bé lúc này lại gào khóc
như trước. “Họ gọi những đồ chơi này là những vú giả, có vậy mà làm em điên đầu
nghĩ mãi. Đây, em đã mua hai loại”.
Việc lục lọi ra được từ “núm vú giả” trong ký ức xa xưa
dường như giúp cho Himiko lấy lại được sự tự tin. Nhưng cái vật cao su màu vàng
giống như hạt đậu lớn nằm trong long bàn tay nàng có vẻ là một thứ phiền hà đối
với đứa trẻ sơ sinh kia.
“Cái màu xanh này để dung khi trẻ mọc răng, chỉ dành cho
những đứa lớn tháng. Còn cái này có lẽ là thứ bác sĩ nói mua”. Nói xong, Himiko
đặt núm vú giả vào chiếc miệng hồng hào đang gào lên của thằng bé.
Tại sao em lại phải mua thêm cái dung khi mọc răng nhỉ? Điểu
muốn hỏi. Rồi anh thấy thằng bé không nút được núm vú giả dành cho trẻ con. Dấu
hiệu duy nhất cho thấy nó đang ngậm núm vú là gương mặt hơi nhăn của nó, dường
như nó đang cố gắng dung lưỡi để đẩy núm vú ra.
“Không ổn rồi. Có lẽ vì nó còn bé quá”, Himiko nói một cách
tội nghiệp sau khi cố thử độ một phút. Nàng lại đánh mất sự tự tin lần nữa.
Điểu che giấu hoài nghi.
“Nhưng em chẳng biết làm cách nào cho thằng bé nín”.
“Thế thì chúng ta phải tiếp tục thế này vậy – lại lên đường
thôi”. Điểu đóng cửa xe.
“Đồng hồ ở hiệu thuốc mới chỉ 4 giờ. Em nghĩ chúng ta có thể
đến dưỡng đường lúc 5 giờ”. Himiko rồ máy xe, mặt nàng lộ vẻ khó chịu. Nàng
cũng đang cảm thấy quá sức bực bội.
“Nó không thể khóc suốt một tiếng đồng hồ được đâu”. Điểu
lên tiếng.
5 giờ 30: thằng bé la khóc mệt quá đã ngủ, nhưng họ chưa đến
nơi được. Suốt gần một tiếng đồng hồ họ vẫn đi quanh quẩn trong cùng một thung
lũng long chảo. Họ lái xe lên xuống các ngọn đồi, nhiều lần ngang qua một con sông
quanh co, đục ngầu, mò xuống xuống những ngõ cụt rồi lại leo lên những đường
dốc đứng trên thung lũng, dẫn đến hết hướng bắc lại về hướng nam, Himiko nhớ đã
có lần lái xe đến thẳng cổng dưỡng đường, và khi xe leo lên đỉnh dốc nàng đã có
thể nhận ra được khu vực lân cận. Nhưng khi xe họ chạy xuống thung lũng đông
đúc dân cư với những con đường nhỏ hẹp như mê lộ thì họ không biết chắc mình
đang chạy về hướng nào. Cuối cùng khi Himiko quay xe vào một con đường mà nàng
nghĩ mình nhớ ra, họ gặp phải chiếc xe tải nhất quyết không chịu nhường đường,
thế là họ phải lùi xe hàng trăm thước. Khi chiếc xe tải đã đi qua, họ cố quay
lại, thì hóa ra họ đã lạc sang một góc phố khác. Con đường ở góc kế tiếp đó là
đường một chiều: không thể nào quay xe lại được.
Điểu vẫn im lặng và Himiko cũng vậy. Cả hai đều ngại, không
dám nói điều gì, sợ làm tổn thương đến người khác. Ngay cả một câu vô tư như:
Anh chắc chắn là mình đã đi qua góc này đến hai lần rồi, có vẻ cũng đầy nguy
hiểm như có thể gây ra sự đổ vỡ giữa hai người. Họ chạy ngang qua một trạm cảnh
sát. Một nhân viên cảnh sát đang ngồi trong cổng dẫn vào một ngôi nhà gỗ xiêu
vẹo, và mỗi lần xì xào bàn tán họ ngại sẽ lôi kéo sự chú ý của viên cảnh sát.
Họ không nghĩ đến chuyện hỏi đường với viên cảnh sát, họ cũng không dám hỏi
thăm địa chỉ từ bất cứ một đứa trẻ địa phương nào. Một chiếc xe thể thao đang
chở một đứa trẻ với cục bướu trên đầu đang đi tìm một dưỡng đường có tiếng tăm
đáng ngờ- một tiếng đồn như thế chắc chắn sẽ gây phiền toái. Thực tế, viên bác
sĩ đã lo xa đến nỗi lưu ý Himiko qua điện thoại rằng đừng ngừng bất cứ nơi đâu,
dù để mua thuốc lá. Và thế là họ tiếp tục cuộc hành trình có vẻ như bất tận
quanh vùng. Dần dần nỗi hoang mang xâm chiếm lấy Điểu: có lẽ họ sẽ phải lái xe
suốt đêm và chẳng bao giờ đến được cái
dưỡng đường đang tìm, có lẽ một dưỡng đường sát hại trẻ sơ sinh không bao giờ
tồn tại ở nơi chốn này. Không phải Điểu chỉ cảm thấy hoang mang mà còn buồn ngủ
khủng khiếp. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh ngủ quên và cái nôi trong lóng sẽ rơi
xuống sàn? Nếu chỗ da trên cục bướu quả thực là lớp màn cứng phủ kín bộ não, nó
sẽ thủng ngay tức khắc. Thằng bé sẽ rơi xuống vũng nước bùn thấm trên sàn xe
khoảng giữa hộp số và cái cần phanh, nó sẽ thở không nổi và sẽ chết – nhưng đó
là một cái chết quá khủng khiếp, Điểu cố hết sức để tỉnh táo. Dù vậy, anh vẫn
chìm vào bong tối vô thức trong chốc lát và được gọi dậy bằng cái giọng khẩn
thiết của Himiko: “Lạy Chúa, dậy đi anh Điểu!”.
Chiếc nôi tuột khỏi long Điểu. Anh giật mình chụp lấy nó cả
hai tay.
“Anh Điểu, em cũng buồn ngủ lắm rồi. Em đang có một cảm giác
đáng sợ là mình có thể lao vào một cái gì đó”.
Lúc này mùi hương thoang thoảng của buổi chiều tối trùm
xuống thung lũng. Gió đã lặng, nhưng mưa còn rơi và ở đôi chỗ chuyển thành
sương mù làm hạn chế tầm nhìn của họ. Himiko bật đèn xe, chỉ có một đèn sáng :
sự ghen tuông của anh chàng si tình ngây ngô của nàng đã bắt đầu có hiệu quả.
Khi chiếc xe tiến gần đến chỗ cây rẽ quạt sóng đôi phía trước trạm cảnh sát,
một viên cảnh sát trẻ tuổi có lẽ là gốc nông dân chậm rãi tiến ra giữa đường và
vẫy họ ngừng lại.
Trước cặp mắt của viên cảnh sát, cái vẻ xanh xao, dơ dấy và
đáng ngờ của Himiko và Điểu hiện ra, vì thế anh ta cúi rạp người, nhìn chăm bẩm
vào xe.
“Xin cho xem bằng lái!” Giọng viên cảnh nghe giống như giọng
của một con người uể oải nhất thế giới. Thật ra anh chàng chỉ trạc tuổi đám
sinh viên ở trường luyện thi của Điểu, nhưng anh ta biết rõ mình đang dọa họ và
lấy làm thú vị về điều này. “Khi ông bà chạy ngang qua đây lần đầu, tôi thấy rõ
xe ông bà chỉ có một đèn và tôi đã làm lơ. Nhưng nếu ông bà cứ chạy lòng vòng
như thế này thì tức là ông bà yêu cầu chúng tôi chặn xe lại. Và giờ đây ông bà
lại còn chạy tà tà với chiếc xe chỉ có một đèn – ông bà không thể chạy như thế
được. Điều đó làm tổn hại đến uy tín của chúng tôi”.
“Tất nhiên”, Himiko nói, giọng không biểu lộ bất cứ một cảm
xúc nào.
“Trong xe có một đứa bé hay cái gì vậy?” Thái độ của Himiko
có vẻ làm cho viên cảnh sát cảm thấy bị xúc phạm. “Tốt hơn là mời ông bà để xe
lại đây và mang đứa bé đi”.
Gương mặt thằng bé lúc này đỏ lên một cách kỳ dị, hơi thở
trên nên dồn dập qua cái miệng há hốc và cả hai cánh mũi phập phồng. Trong một
thoáng, Điểu quên mất viên cảnh sát đang nhìn soi mói vào xe mà chỉ lo lắng
thằng bé có khó thở vì viêm phổi không. Anh hoảng hốt áp cả hai tay vào trán
thằng bé. Anh có cảm giác trán nó nóng như lửa đốt, một thứ nhiệt độ hoàn toàn
không giống với người bình thường. Điểu vụt miệng la lớn.
“Cái gì thế?” Viên cảnh sát giật mình, hỏi lại bằng giọng
trẻ con vốn có của mình.
“Thằng bé bị bệnh”, Himiko nói. “Vì vậy chúng tôi buộc long
phải chở cháu đi mặc dù chúng tôi biết đèn xe bị vỡ”. Himiko chợp lấy cơ hội
viên cảnh sát đang sửng sốt. “Nhưng chúng tôi bị lạc đường và bây giờ chẳng
phải biết làm sao”.
“Ông bà muốn đi đâu? Tên vị bác sĩ là gì?”
Ngần ngừ một lúc, cuối cùng Himiko nói tên của dưỡng đường.
Viên cảnh sát chỉ cho họ biết dưỡng đường nắm cuối con đường nhỏ, bên trái nơi
họ vừa đậu xe. Rồi anh ta nói thêm để chứng tỏ mình không phải là kẻ dễ bị lừa:
“Nhưng vì nó rất gần nên chẳng hại gì nếu ông bà xuống đi bộ, tốt hơn là ông bà
nên làm thế”.
Himiko nổi điên, vung tay giật chiếc mũ len ra khỏi đầu
thằng bé. Đó là một đòn phủ đầu viên cảnh sát trẻ.
“Nếu mang nó ra ngoài nó sẽ phải chết đó”.
Himiko bám sát địch thủ và đã áp đảo anh ta. Có phần rầu rỉ
như hối tiếc đã giữ bằng lái xe, viên cảnh sát bèn trả lại cho Himiko. “Ông bà
nhớ mang xe đi sửa ngay sau khi đưa thằng bé vào dưỡng đường đấy”. Anh ta nói
một cách ngốc nghếch, đôi mắt vẫn dán chặt vào cái bướu trên đầu thằng bé. “Ồ-
kinh thật! Có phải cái đó gọi là sốt màng não không?”.
Điểu và Himiko quay xe về hướng viên cảnh sát chỉ. Lúc đậu
xe trước cửa dưỡng đường, Himiko đã kịp hoàn hồn và nói: “Hắn chẳng ghi số bằng
lái cùng tên tuổi em gì cả - đúng là một con lừa!”.
Dưỡng đường có vẻ như được xây dựng bằng thạch cao. Họ mang
chiếc nôi và thằng bé vào phòng đợi. Chẳng có dấu hiệu gì có y tá lẫn bệnh nhân
ở đây, chỉ có người đàn ông với cái đầu tròn như quả trứng xuất hiện ngay lúc
Himiko vừa gọi. Lần này ông ta không mặc chiếc tuxedo bằng vải lanh mà là chiếc
blouse vấy bẩn đến kinh sợ.
Hoàn toàn không biết Điểu, ông ta trách Himiko bằng giọng
nhẹ nhàng, chăm chú dò xét thằng bé trong nôi như đang chọn mua cá từ người bán
hàng rong.
“Em đến trễ
quá, Himiko. Anh mới nghĩ có khi em đang đùa với anh chút chơi”.
Cảm tưởng về
phòng đợi tiêu điều của dưỡng đường thật quá sức chịu đựng của Điểu: anh cảm
thấy nổi gai ốc lập tức.
“Tụi em gặp
vài rắc rối trên đường đến đây”, Himiko lạnh lùng nói.
“Anh sợ em
làm điều gì ghê gớm trên đường đi đấy. Em biết không, có những kẻ cấp tiến có lần họ đã quyết định rằng chẳng có gì
khác biệt giữa việc để cho đứa bé yếu dần rồi chết với việc bóp cổ cho nó chết
– như thế đó, em ạ”, viên bác sĩ vừa nói vừa nâng chiếc nôi lên, “dường như
thằng bé chưa gặp rắc rối gì nhiều, con người nhỏ bé đáng thương này bị yếu vì
viêm phổi đấy”. Cũng như trước đó, giọng viên bác sĩ thật nhẹ nhàng.
13
Để chiếc xe
thể thao ở gara, họ bắt taxi đến quán rượu đồng tình luyến ái mà Himiko biết.
Họ kiệt sức, quá mức thèm một giấc ngủ, nhưng miệng họ khô khốc với một sự kích thích thầm kín làm cho họ
không thoái mái khi phải quay về căn nhà u ám đó.
Họ cho taxi
dừng trước chiếc đèn lồng mô phỏng vụng về, thắp bằng hơi đốt, mang dòng chữ
KIKUHIKO màu xanh da trời được viết trên một quả cầu bằng kính, Điểu đẩy cánh
cửa ván ghép đơn giản và bước vào căn phòng vừa thô lậu vừa chật hẹp giống như
trại nuôi thú, chỉ có một quầy rượu thấp và dựa vào bức tường đối diện là hai
dãy ghế lưng cao trông thật kỳ dị. Quán rượu vắng khách, ngoại trừ một người
đàn ông nhỏ con đang đứng trong góc xa phía sau quầy, lúc này đang đối đầu với
hai kẻ đột nhập. Đó là một con người thật tròn trịa, có cặp môi giống như môi
cô gái trẻ và đôi mắt cừu u ám đang quan sát họ một cách cảnh giác nhưng không
có vẻ gì là chống đối. Điểu đứng ngay bên cánh cửa nhìn trả lại. Dần dần ký ức
về người bạn trẻ Kikuhiko hiện về qua nụ cười mơ hồ nở ra trên gương mặt người
đàn ông.
“Thật không
tin nổi, Himiko đấy à, xem kìa!” Người đàn ông mím môi nói, mắt vẫn nhìn Điểu.
“Tôi biết anh này, lâu lắm rồi, nhưng có phải người ta thường gọi anh ta là
Điểu không?”.
“Có lẽ chúng
ta hãy ngồi xuống đã”, Himiko nói. Nàng tỏ vẻ như sắp khám phá một trong khí
căng thẳng của vở bi kịch tái hợp này. Chẳng phải chuyện Kikuhiko đang gợi nên
những cảm xúc sâu sắc nơi Điểu. Anh đã quá đỗi mệt mỏi và buồn ngủ: anh cảm
thấy như đinh đóng cột rằng không có điều gì trên cõi đời này lại có thể làm
cho anh sinh động được. Điểu nhận ra mình ngồi cách xa Himiko một khoảng ngắn.
“Giờ thì
người ta gọi anh này là gì hả Himiko?”.
“Điểu”.
“Cô không
định nói thế chứ? Vẫn còn tên Điểu à? Đã bảy năm rồi”, Kikuhiko đi về phía
Điểu. “Anh uống gì, anh Điểu?”
“Làm ơn cho
whisky. Không pha”.
“Còn Himiko?”
“Tôi cũng thế”.
“Cả hai người trông có vẻ mệt mỏi quá mà đêm vẫn còn quá
sớm!”.
“Chẳng có vấn đề tình dục ở đây đâu - chúng tôi mới mất nửa
ngày lái xe chạy loanh quanh”.
Điểu với tay cầm lấy ly whisky vừa được rót cho anh và cảm
thấy ngực như thắt lại, anh ngần ngừ Kikuhiko –hắn chưa thể quá 22 tuổi mà
trông già hơn mình nhiều, mặt khác, hắn có vẻ như còn giữ lại nhiều nét ở độ
tuổi 15 – trông giống như một con vật lưỡng cư ở hai độ tuổi khác nhau.
Kikuhiko cũng uống whisky không pha. Hắn rót thêm một ly cho
mình và rót cho Himiko một ly sau khi nàng đã uống một hơi cạn ly rượu đầu
tiên. Điểu nhận ra mình đang nhìn Kikuhiko và Kikuhiko liếc nhìn lại anh, những
sợi gân trên cơ thể hắn cong như lưng của một con mèo đang hù chuột. Cuối cùng
hắn quay thẳng về phía Điểu và nói: “Anh Điểu, anh còn nhớ tôi không?”
“Dĩ nhiên là còn “, Điểu trả lời. Thật lạ lung, anh cảm thấy
như mình đang nói chuyện với ông chủ một quán rượu đồng tính luyến ái (đây là
lần đầu tiên của anh) hơn là một người bạn đã lâu ngày không gặp.
“Nhiều năm rồi phải không anh Điểu. Kể từ ngày chúng ta qua
thị trấn kế bên và thấy một anh lính G.I. bị bắt bắn nát nửa khuôn mặt dưới
đang nhìn ra ngoài cửa sổ xe lửa”.
“Chuyện anh lính G.I. đó như thế?” Himiko hỏi. KIkuhiko kể
cho nàng nghe, mắt trơ tráo nhìn Điểu.
“Lúc ấy thời kỳ chiến tranh Triều Tiên và những tên lính kỳ
dị ấy bị thương đầy dẫy trên chiến trường được đưa lên tàu để trở lại các căn
cứ trên đất Nhật. Những chiếc xe lửa chất đầy thương binh và một hôm chúng tôi
trông thấy họ. Anh Điểu, anh có nghĩ rằng lúc nào họ cũng đi ngang qua khu vực
của chúng ta không?”.
“Không phải lúc nào cũng đậu”.
“Người ta thường kể chuyện những người buôn bán nô lệ đã bắt
nam sinh Nhật Bản và bán họ làm lính chiến, rồi có những lời đồn đại rằng chính
phủ sẽ đưa chúng ta xuống tàu qua Triều Tiên – lúc ấy, tôi sợ kinh khủng”.
Dĩ nhiên! Kikuhiko đã sợ khiếp vía. Vào cái đêm họ cãi nhau
và chia tay, hắn đã kêu lên: “Anh Điểu ơi, tôi sợ lắm!” Điểu nghĩ đến đứa con
của mình và cho rằng chẳng có gì phải sợ. Anh cảm thấy nguôi ngoai, một sự
nguôi ngoai đáng ngờ, dễ tan vỡ. “Chắc chắn những lời đồn đại kia là phi lý”,
anh nói, cổ đổi hướng suy nghĩ của mình khỏi đứa bé.
“Anh nói thế, chứ riêng tôi đã làm mọi cách vì những lời đồn
đại ấy. Anh Điểu, tôi nhớ lại rồi. Anh có gặp rắc rối nào khi bắt thằng cha điên
khùng mà chúng ta tìm kiếm đó không?”.
“Hắn đã chết khi tôi tìm ra hắn, hắn tự treo cổ trên đồi
Castle. Tôi đã vội vàng mà không được gì”. Nỗi ân hận cũ quay về với mùi vị
chua chát trên đầu lưỡi Điểu. “Chúng tôi tìm thấy hắn vào lúc hừng đông, lũ chó
và tôi. Chúng ta đang nhắc đến một điều vô nghĩa!”.
“Tôi không muốn nói điều đó. Anh tiếp tục săn đuổi cho đến
sang, còn tôi thì bỏ cuộc và chạy trốn giữa đêm.Kể từ hôm đó, cuộc sống của hai
chúng ta hoàn toàn khác nhau. Anh không còn giao thiệp với tôi và hạng người
như tôi, anh vào đại học ở Tokyo,
phải không? Còn tôi thì rớt đài kể từ cái đêm hôm ấy và bây giờ hãy nhìn tôi
xem nào – chẳng có tí gì là đẹp đẽ, thoải mái trong cái quán rượu nhỏ như
chuồng chim này. Anh Điểu à, nếu như đêm hôm ấy anh không… tiếp tục đi một
mình, có lẽ hôm nay tôi đã là người có nếp sống khác hẳn”.
“Nếu anh Điểu không bỏ rơi anh đêm hôm ấy thì anh sẽ không
trở thành một kẻ đồng tính luyến ái chứ gì?” Himiko hỏi một cách cay độc.
Điểu bối rối phải nhìn đi nơi khác.
“Kẻ đồng tính luyến ái là kẻ tự chọn yêu một người cùng
giới: và tôi đã tự quyết định như thế. Vì thế trách nhiệm là do chính tôi cả”.
Giọng của Kikuhiko thật trầm tĩnh.
“Chắc là anh có đọc thuyết hiện sinh”, Himiko nói.
“Khi điều hành một quán rượu dành cho giới đồng dâm nam, anh
cần phải biết mọi chuyện!” Như đụng phải máu nghề nghiệp, Kikuhiko thuyết một
tràng. Sau đó anh ta quay sang Điểu nói với giọng bình thường, “Tôi chắc là
trong thời gian tôi vấp ngã thì anh vươn tới đỉnh cao. Bây giờ anh làm gì anh
Điểu?”.
“Tôi đang dạy ở một trường luyện thi, nhưng hóa ra là bị sa
thải vào kỳ hè này, tôi làm sao mà “vươn tới đỉnh cao” được”. Điểu nói: “Và
không phải chỉ có thế, hết chuyện xui xẻo này đến chuyện khác”.
“Giờ tôi mới nghe anh nói như thế. Một anh chàng Điểu ở tuổi
20 mà to6ibie61t không bao giờ là một kẻ bi quan ủ rũ như thế này. Dường như có
điều gì đó làm anh khiếp sợ và anh đang cố chạy trốn nó”. Trước mắt Điểu là một
Kikuhiko sắc sảo, tinh tế, không phải là một chàng trai chân chất như Điểu từng
biết: cuộc đời ngoại đạo và sa sút của bạn anh hẳn không dễ dàng hay bằng
phẳng.
“Cậu nói đúng đấy”, Điểu thú nhận: “Tôi đã kiệt sức rồi. Tôi
sợ. Tôi đang chạy trốn”.
“Khi anh ấy ở tuổi 20, anh ấy không biết sợ là gì, tôi chưa
hề thấy anh ấy sợ bất cứ điều gì”, Kikuhiko nói với Himiko. Rồi anh ta quay
sang Điểu tấn công tiếp: “Nhưng tối nay trông anh có vẻ hoảng hốt quá mức,
giống như anh sợ đến nỗi không còn biết đầu mình nằm ở đâu nữa!”.
“Tôi không còn ở tuổi 20 nữa”, Điểu nói.
Gương mặt Kikuhiko đanh lại với vẻ xa lạ lạnh lung. “Một con
ngựa cái già nua không còn biết mình dung để làm gì”, anh ta lên tiếng rồi đột
ngột nhìn về phía Himiko.
Một phút sau, cả hai người chơi trò súc sắc để cho Điểu được
yên thân. Đã nguôi ngoai, anh nâng ly rượu lên. Sau một khoảng cách 7 năm không
gặp, chỉ cần 7 phút trò chuyện để anh và bạn anh hiểu rõ nhau. Tôi không còn 20
tuổi nữa. Và tất cả những gì tôi có được ở tuổi 20 chỉ còn lại điều duy nhất mà
tôi không đánh mất là cái tên cúng cơm thời thơ ấu - Điểu nốc cạn ly whisky đầu
tiên sau một ngày dài dằng dặc. Trong giây lát, một cái gì đó giống như cơn bão
ngầm chầm chậm dấy lên trong long anh. Ly whisky mà anh vừa nốc cạn đã nôn hết
ra ngoài mà không kềm chế được. Kikuhiko nhanh tay chùi sạch quầy rượu và mang
ra một ly nước, Điểu chỉ nhìn xa vắng vào khoảng không. Anh cố chống chọi khỏi
bóng ma thằng bé làm gì để đến nỗi phải bỏ chạy thục mạng và vô liêm sỉ đến
thế? Có cái gì trong anh mà anh phải điên cuồng tự vệ đến thế? Câu trả lời là
sự khiếp sợ - chẳng có gì cả! Một con số 0!
Điểu trượt khỏi chiếc ghế cũ kỹ và từ từ thả chăn xuống sàn.
Anh nói với Himiko đang nhìn mình với đôi mắt lờ đờ, uể oải vì mệt nhọc và hơi
men: “Anhđã quyết định mang thằng bé về lại bệnh viện trường Đại học để cho họ
mổ. Anh không còn muốn tìm bất cứ lối thoát nào nữa”.
“Anh đang nói gì thế?” Himiko ngờ vực hỏi. “Anh Điểu, chuyện
gì xảy ra với anh thế! Giờ đây anh lại nói đến chuyện mổ ư!”.
“Từ cái buổi sang con anh ra đời, anh chỉ có chạy trốn”,
Điểu nói rành mạch.
“Nhưng ngay giờ phút này có khi con anh đã chết rồi, chết vì
bàn tay của anh và của em. Anh gọi cuôc trốn chạy đó thế nào? Ngoài ra chúng ta
sẽ đi châu Phi với nhau!”.
“Anh đã bỏ đứa bé lại cho viên bác sĩ phá thai và trốn chạy
đến đây”, Điểu khăng khăng nói: “Lúc nào anh cũng chạy, chạy và chạy miết. Anh
hình dung ra châu Phi như vùng đất cuối cùng của cuộc chạy trốn, điểm cuối
cùng, nơi tận cùng – Em biết đấy, em cũng đang trốn chạy. Em chỉ là một cô gái
mua vui khác đang bỏ trốn với một tên biến thú”.
“Không, anh Điểu. Em đang tham gia vào, nhúng bẩn tay em
cùng với tay anh. Anh không nói em đang chạy trốn đó sao!” Himiko điên cuồng la
toáng lên:
“Em còn nhớ hôm nay em thà lái chiếc xe vào ổ gà còn hơn là
cán lên xác con chim sẻ không? Có phải đó là điều người ta làm ngay trước lúc
cắt cổ một đứa bé không?’.
Khuôn mặt to lớn của Himiko đỏ bừng lên rồi sạm lại vì giận
dữ và mang một linh cảm thất vọng. Nàng trừng trừng nhìn Điểu, run lên vì bực
tức: nàng đang cố tìm lời trách móc Điểu nhưng vô vọng.
“Nếu anh muốn đối đầu với đứa con kỳ dị này một cách trung
thực thay vì chạy trốn, anh chỉ có hai điều để lựa chọn: anh có thể bóp cổ
thằng bé đến chết hoặc anh có thể chấp nhận và nuôi dưỡng nó. Ngay từ lúc ban
đầu anh đã hiểu như thế, nhưng anh không đủ can đảm để chấp nhận…”.
“Nhưng anh Điểu”, Himiko cắt ngang, vung vẫy các ngón tay
một cách đe dọa, “thằng bé đang yếu vì viêm phổi mà! Nếu giờ này anh cố mang nó
về lại bệnh viện, nó sẽ chết trên xe đấy. Rồi thì anh sẽ ở đâu? Họ bắt anh, vào
tù là cái chắc!”.
“Nếu điều ấy xảy ra có nghĩa là chính tay anh đã giết nó. Và
anh chấp nhận bất cứ điều gì anh làm. Anh nghĩ là anh có thể nhận trách nhiệm”.
Điểu nói một cách bình tĩnh. Anh có cảm tưởng như giờ đây
mình đang tránh khỏi cái bẫy sập cuối cùng của sự tự lừa dối và đang phục hồi
lại long tự tin.
Himiko nghẹn ngào trước mắt, trân trân nhìn Điểu. Dường như
nàng đang tìm một lối tấn công tâm lý mới và cuối cùng khi tìm ra chiến lược,
nàng vội nhảy vào: “Cứ cho rằng để cho họ mổ và cứu sống thằng bé, nhưng rồi
sau đó thì sao anh Điểu? Chính anh nói với em rằng con anh sẽ không bao giờ
thoát khỏi đời sống thực vật mà! Anh không thấy sao, điều đó không phải chỉ tạo
ra sự đáng thương cho chính bản than anh, mà anh còn phải nuôi dưỡng một đời
sống hoàn toàn không có nghĩa gì với thế giới này! Anh có nghĩ đó chính là lợi
ích của thằng bé không, anh Điểu?”.
“Đó là vì lợi ích của chính anh. Vì như thế anh mới có thể
không còn là một kẻ luôn luôn chạy
trốn”. Điểu nói:
Nhưng Himiko vẫn không chịu hiểu. Nàng nhìn Điểu một cách
nghi ngờ, vẫn đầy vẻ thách thức, nàng cố mỉm cười dù nước mắt dâng trào và nói
với vẻ chế giễu: “Vậy là anh sắp nuôi sống một đứa bé chỉ có đời sống thực vật
– Anh Điểu này! Có phải đó là một phần chủ nghĩa nhân đạo mới của anh đó
không?”.
“Tất cả điều anh muốn là thôi không làm kẻ tiếp tục chạy trốn
trách nhiệm”.
“Nhưng… anh Điểu…” Himiko nức nở, “còn lời hứa chúng ta cùng
đi châu Phi thì sao? Lời hứa của chúng ta thì sao?”
“Lạy Chúa, Himiko, bình tĩnh lại đi! Một khi Điểu đã bắt đầu
tự vấn, anh ấy sẽ không nghe cô nói dù cô có khóc to cách mấy đi nữa”.
Điểu thấy có cái vẻ gì giống như ánh sang của lòng căm thù
trong đôi mắt mờ đục của Kikuhiko. Nhưng mệnh lệnh của người bạn cũ của anh đối
với Himiko là tín hiệu mà nàng đang chờ đợi: một lần nữa nàng lại trở thành một
Himiko đã từng chào đón Điểu nhiều ngày trước, khi anh rủ rục trước cửa nhà
nàng với chai Johnny Walker, một cô gái không còn trẻ, vô cùng nhân hậu: một
Himiko dịu dàng, điềm tĩnh.
“Thôi được, anh Điểu. Anh không cần phải nói nữa. Dù sao em
cũng sẽ bán nhà và tài sản để đi châu Phi. Em sẽ mang theo chàng trai đã ăn cắp
bánh xe làm bạn đồng hành. Bây giờ nghĩ lại, em thấy mình cũng có phần quá quắt
đối với hắn”. Mặt vẫn đầm đìa nước mắt, nhưng rõ ràng là Himiko đã vượt qua
được cơn kích động.
“Cô Himiko sẽ ổn ngay thôi”. Kikuhiko nhắc khéo.
“Cám ơn”, Điểu nói ngắn gọn, không phải với một mà với cả
hai người.
“Anh Điểu, anh sẽ phải chịu nhiều đau khổ đấy”, Himiko nói
như để động viên. “Tạm biệt anh, anh Điểu. Hãy bảo trọng!”.
Điểu gật đầu rời khỏi quán rượu.
Chiếc taxi lao xuống những con đường ướt át với một tốc độ
khủng khiếp. Nếu lúc này tôi chết vì tai nạn trước khi cứu kịp đứa con, toàn bộ
27 năm trong cuộc đời tôi sẽ hoàn toàn trở thành vô nghĩa. Một cảm giác sợ hãi
s6u xa hơn bất cứ nỗi sợ hãi nào mà Điểu từng có bỗng xâm chiếm trọn người anh.
Trời cuối thu. Lúc Điểu bước bước cầu thang sau khi chào tạm
biệt viên bác sĩ phẫu thuật, cha mẹ vợ mỉm cười đón anh trước khu chăm sóc đặc
biệt, vợ anh đứng giữa tay bồng con.
“Chúc mừng anh, Điểu”, cha vợ anh nói “Anh trông kìa, nó
giống anh đó chứ”.
“Dạ, có vẻ thế”. Điểu dè dặt nói. Một tuần sau khi mổ, đứa
bé có vẻ gần như bình thường, tuần tiếp theo nó bắt đầu trông giống Điểu. “Vết
mổ trong sọ thằng bé chỉ ngắn vài milimét và bây giờ nó đang liền lại. Con sẽ
chỉ cho ba xem khi về đến nhà, con đã mượn phim X quang. May là não không thò
ra ngoài hộp sọ, vì thế đó không phải là chứng thoát vị não mà chỉ là một khối
u lành tính. Có hai cục bướu cứng, trắng như quả bong bàn nằm trong khối u được
cắt bỏ”.
“Gia đình anh thế là may mắn lắm”. Vị giáo sư nói chen vào
những lời nói thao tháo bất tuyệt của Điểu.
“Anh Điểu đã cho quá nhiều máu để truyền cho cháu trong suốt
thời gian giải phẫu, trông anh xanh xao như một công chúa sau khi hò hẹn với
Dracula”. Bà mẹ vợ đang phấn khởi của Điểu nói với giọng khôi hài hiếm thấy
“Nghiêm túc mà nói, Điểu ạ, con đã can đảm và dai sức như một con sư tử trẻ
đấy”.
Sợ hãi vì sự thay đổi môi trường đột ngột, đứa bé nằm co
quắp không động đậy, dò xét những người lớn bằng cặp mắt hầu như vẫn chưa biết
nhìn. Vì hai người đàn bà cứ dừng bước để âu yếm thằng bé, Điểu và vị giáo sư
vừa đi vừa trò chuyện đã dần dần bỏ xa họ.
“Lần này anh mới thực sự đối đầu với vấn đề của anh đấy
nhé”. Vị giáo sư nói:
“Thực ra, con đã cố trốn chạy. Và hầu như con sắp thoát.
Nhưng hình như thực tại buộc người ta phải sống cho đúng mức khi ở trong một
thế giới thực. Con muốn nói, dù người ta có bị mắc vào cái bẫy tự lừa dối mình,
thì ở đâu đó người ta vẫn tìm thấy rằng sự chọn lựa duy nhất là tránh nó”. Điểu
ngạc nhiên về sự hằn học câm lặng trong giọng nói của anh. “Dù sao, đó cũng là
điều con đã tìm thấy”.
“Nhưng cũng có thể sống trong cuộc đời thực bằng cách hoàn
toàn khác hẳn. Có những kẻ nhảy cóc từ sự lừa dối này qua sự lừa dối khác cho
đến khi nhắm mắt lìa đời”.
Qua cặp mắt nửa nhắm nửa mở, Điểu hình dung lại chiếc tàu
hàng nhổ neo đi Zanzibar
cách đây vài hôm mang theo Himiko. Anh tưởng tượng mình đã giết chết thằng bé,
đứng vào chỗ chàng thanh niên kia bên cạnh nàng. Một viễn cảnh đầy cám dỗ của quỉ
sứ. Và có lẽ một thực tại như thế đang xuất hiện trong một thế giới khác của
Himiko. Điểu mở mắt, quay về với những vấn đề của thế giới mà anh đã lựa chọn ở
lại. “Có khả năng là đứa bé phát triển bình thường”, anh nói “những mối nguy
hiểm khác là nó có thể lớn lên với một chỉ số thông minh rất thấp. Điều đó có
nghĩa là con phải dành dụn tiền bạc tối đacho tương lai của ní cũng như của
chúng con. Tuy nhiên con không yêu cầu ba giúp con tìm một việc làm khác đâu,
nhất là sau khi con đã ói mửa một trận như thế. Con đã quyết định quên nghề dạy
học, con đang muốn trở thành một hướng dẫn viên du lịch cho người nước ngoài.
Con luôn mơ được đến châu Phi và thuê một hướng dẫn viên người bản xứ, vì vậy
con ôm ấp mộng tưởng: con sẽ là hướng dẫn viên bản xứ cho những khách ngoại
quốc đến Nhật”.
Vị giáo sự định trả lời một câu gì đó khi cả hai cùng nép
sang một bên để cho một chàng trai tay bị băng bó đang đi vội xuống hành lang
với đám bạn theo sau lưng. Bọn thanh niên đi lướt qua, không hề biết đến Điểu
và cha vợ anh đứng đó. Cả bọn đều mặc áo jacket nhớp nhúa, bạc màu và có vẻ
quá mỏng manh so với thời tiết lạnh buốt
của mùa thu, Điểu thấy những con rồng thêu trên lưng áo họ và nhận ra đây là
đám thanh niên mà anh đối đầu vào cái đêm đầu mùa hạ khi con anh chào đời.
“Con biết bọn này, nhưng vì một lý do nào đó chúng không để
ý đến con”. Anh nói:
“Chỉ trong một vài tuần, anh hầu như đã trở thành một con
người hoàn toàn khác hẳn, có thể vì thế mà chúng không nhận ra anh”.
“Ba nghĩ thế à?”
“Anh đã thay đổi”. Giọng của vị giáo sư ấm áp với một tình
cảm thân thuộc. “Cái tên cúng cơm Điểu hồi nhỏ của anh không còn thích hợp với
anh nữa rồi”.
Điểu chờ hai người đàn bà bắt kịp và cúi nhìn đứa con trai
đang nằm trong vòng tay đưa nôi của người mẹ. Anh muốn thử soi mặt mình vào đôi
đồng tử của đứa bé. Cái gương trong đôi mắt của thằng bé là tấm gương soi màu
xám trong veo và sâu thẳm, phản chiếu một hình ảnh, nhưng là một hình ảnh quá
đẹp đến nỗi Điểu không thể tin chắc được đó lại là gương mặt mới của mình. Khi
về đến nhà, anh liền nhìn vào gương soi. Sau đó anh lấy quyển tự điển Balkan mà
ông Delchef đã tặng anh trước khi tòa công sứ đưa ông ta lên tàu về nước. Trên
mặt bìa trong, ông Delchef đã viết một từ có nghĩa là hy vọng. Điểu định tra từ
sự chịu đựng.
----------------------------
“William Blake (*) (*)
William Blake: nhà thơ – họa sĩ Anh (1757 – 1827) theo chủ nghĩa duy tâm thần
bí, đã minh họa Kinh Thánh – ND.
HẾT
OE KENZABURO ĐẾN VIỆT NAM
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
So với các
nhà văn Nhật Bản khác như Kawabata Yasunari, Mishima Yukio, thì Ōe
Kenzaburo, Giải thưởng Nobel văn học năm 1994, được giới thiệu và dịch thuật ở
Việt Nam không nhiều lắm. Theo ghi nhận của chúng tôi, tác phẩm của ông được
dịch sang tiếng Việt gồm có truyện vừa Nuôi
thù (Diễm Châu dịch), tiểu
thuyết Một nỗi đau riêng (Lê Ký Thương dịch) và mấy truyện
ngắn: Cây mưa thông minh (Dương Tường dịch), Quái vật trên không (Phan Thu Hiền dịch), Những con cừu người và Người câm bất ngờ (Lê Ngọc Thảo dịch)… Ngoài ra, còn
có một số bài bình luận về tác phẩm Ōe Kenzaburo của Nguyễn Nguyên, Ôn Thị Mỹ Linh, Đào
Thị Thu Hằng, Nguyễn Tuấn Khanh… Ghi nhận này có lẽ chưa đầy đủ, nhưng dù sao
so với sự nghiệp lớn lao của Ōe Kenzaburo, việc giới thiệu này vẫn còn ít ỏi.
Tuy vậy, Ōe Kenzaburo được biết đến ở Việt Nam khá sớm,
gần một phần tư thế kỷ trước khi ông nhận Giải thưởng Nobel. Điều thú vị là cả
hai tác phẩm Nuôi thù và Một nỗi đau riêng được dịch bởi hai nhà thơ có cùng
xu hướng nghệ thuật khuynh tả và cùng được ấn hành ở thành phố phương Nam. Đặc biệt,
cả hai bản dịch tuy ra đời trong hai hoàn cảnh xã hội khác nhau, đều cùng bị
biên tập bỏ những chỗ “nhạy cảm” về tính dục.
1.
Năm 1970, tác phẩm Shiiku,
Giải thưởng văn học mang tên Akutagawa lần thứ 39 (1958), được nhà thơ Diễm
Châu dịch và NXB Trình bầy ấn hành ở Sài Gòn với nhan đề Nuôi thù. Trong “Ghi chú về tác
giả và tác phẩm” in ở cuối sách, dịch giả cho biết bản dịch này căn cứ trên bản
Anh văn The Catch của John Bester, công bố trên hai
tạp chí ở Nhật Bản và Hoa Kỳ. Diễm Châu cũng giải thích rõ là trong tiếng Nhật Shiiku có nghĩa là nuôi (thú vật), dịch
giả chọn nhan đề Nuôi thù chỉ vì lý do âm điệu.
Tuy nhiên, việc chọn nhan đề này không phải không có
yếu tố hợp lý về mặt ý nghĩa: tác phẩm đã khắc họa hình tượng kẻ thù qua số
phận một viên phi công Mỹ bị bắn rơi máy bay trên đất Nhật trong chiến tranh
thế giới lần thứ hai. Đó là câu chuyện về một ngôi làng Nhật Bản hẻo lánh trên
sườn đồi, nơi người ta phải nuôi giữ viên phi công da đen ấy và đám trẻ con
trong làng đã bày những trò chơi với tên tù binh cho đến ngày hắn trở nên hung
hãn vì chống lại quyết định giải đi chỗ khác. Một đứa bé trong đám thiếu nhi đã
có lòng thương xót, giúp đỡ tên tù binh lại bị chính hắn bắt làm con tin và
người cha đứa bé buộc phải ra tay giết chết kẻ địch để cứu con mình. Nhìn cái
chết của tên giặc lái và ông Ký già tàn tật trong khi chính mình cũng bị thương
tích, đứa bé - nhân vật chính và cũng là người kể chuyện - bỗng có ý nghĩ rằng
từ nay nó đã đánh mất tuổi thơ.
Dịch giả đã Việt hoá các tên riêng để gây cảm
giác gần gũi với bạn đọc Việt Nam:
thắng Nhái, Sứt Môi, ông Ký… Nhưng điều chính yếu khiến tác phẩm cộng hưởng với
bạn đọc nước ta là không khí của truyện hô ứng với hoàn cảnh chiến tranh lúc
đó: những chuyến bay thả bom dữ dội, những người lính Mỹ đen, Mỹ trắng dẫm gót
giày trên các làng quê và nhất là những đứa bé bơ vơ trong chiến tranh:
“Em tôi với tôi cũng như những hạt giống nhỏ bao chặt trong lớp vỏ cứng và
khoảng nhân dày, những hạt xanh bọc trong lớp màng quá mềm mại và tươi non
khiến chỉ phơi ra ánh sáng bên ngoài thôi cũng đủ làm cho nó rung chuyển và
tróc đi mất… Bên ngoài cái vỏ cứng, kế mặt biển vươn dài như một sợi băng lấp
lánh, nhỏ hẹp xa xa, chiến tranh đương nôn mửa lớp khí tanh tưởi xuống thành
phố. Cuộc chiến tranh tiếp diễn quá lâu ấy ngày càng thêm rộng lớn và nặng nề
như chuyện hoang đường. Thế nhưng đối với chúng tôi, chiến tranh chỉ có nghĩa
là thiếu bóng những thanh niên trai tráng trong làng và thỉnh thoảng lại một
vài bức điện báo tin tử trận mà người đưa thư phân phát” (1).
Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của viên phi công
da đen không chỉ đánh thức cơn ngái ngủ của làng quê bị bỏ mặc trong lãng quên
mà còn đánh thức điều mà nhà văn Nguyễn Nguyên, với tư cách người đọc Nuôi thù, nhìn thấy nơi một đứa bé con: phẩm
cách Nhật Bản. Giới thiệu tác phẩm này trên tạp chí Trình bầy, ông lưu ý đến Nhái - nhân vật xưng
tôi:
“Nhái
đi lang thang, đánh bạn với Sứt Môi nhưng không bao giờ đồng loã trong những
trò chơi, những nghịch ngợm của Sứt Môi. Nhái thản nhiên nhìn ngắm những cái
táo bạo, những cử chỉ sống sượng nhưng Nhái lại thường e thẹn khi phản tỉnh,
khi soi gương để tự thấy chân dung của mình. Vậy nên
có thể nói Nhái chính là sự thể hiện cái phẩm cách Nhật Bản, cái phẩm cách tiềm
tàng, ẩn chứa bộc lộ ngay ở một đứa trẻ, cái phẩm cách không phải chỉ có ở
những anh hùng, những vĩ nhân” (2).
Hình tượng kẻ thù được Ōe Kenzaburo
thể hiện dưới góc độ nhân bản dễ tìm được sự đồng cảm nơi bạn đọc trí thức Việt
Nam.
Sứt Môi và Nhái nhìn thấy bên trong viên tù binh da đen không chỉ là một tên
địch mà còn là một con người. Nguyễn Nguyên phân tích:
“Người da đen đối với da vàng không phải là kẻ địch mà
chỉ là một người như người ta,
hoàn toàn một người ta.
Nhưng nó hết còn được làm “người ta” khi nó bị đẩy vào đứng trên vị trí một kẻ
địch. Hết còn được làm người
ta, nó không đóng vai một kẻ địch mơ hồ trừu tượng, mà nó trở nên hoàn toàn
một con thú. Nhưng không phải chỉ có tên tù binh da đen trong thế tự vệ mới
biến thành một con thú, mà cha của Nhái, một người đàn ông giàu tình thương,
một người có độ lượng, trong cơn say máu cũng điên cuồng không khác gì một con
thú. Một con người không được làm người, một con người biến thành một con thú,
những đứa trẻ bị mất đi cái trong sáng hồn nhiên của tuổi thơ, hết thẩy chỉ vì
chiến tranh” (3).
Thật là dễ hiểu cái cảm giác bàng hoàng và tuyệt
vọng của Nhái lúc hay tin dân làng phải giao nộp tên tù binh cho nhà chức
trách, khi mà sau nhiều lần phản ứng thăm dò và những cuộc
dạo chơi, nó và đám trẻ con trong làng đã cảm nhận được sự ràng buộc chặt chẽ
với viên phi công bằng một “thứ liên kết thật sâu xa, thật mạnh mẽ gần như của
“con người” với nhau” (4), đến mức nó nghĩ rằng nếu viên phi công bị giao nộp,
thì trong làng chẳng còn lại gì hết “ngoài cái vẻ trống không của một mùa hè”
(5). Chẳng bao lâu cái cảm giác bàng hoàng và trống vắng đó bị thay thế bằng sự
giận dữ đầy thù nghịch cùng nỗi tủi nhục khi “con người” được cảm thông bằng
tình người đó trở thành kẻ phản bội. Ōe Kenzaburo viết thay lời của Nhái:
“Chiến tranh, cũng như những trận lụt cuốn đi những đàn cừu và những bãi cỏ non
xén thấp ở những miền đất xa xăm, đáng lẽ chẳng bao giờ được kéo tới làng chúng
tôi mới phải. Thế mà nó đã tới, làm nát bấy những ngón tay và bàn tay tôi,
khiến cho cha tôi phải khoa cái rìu lên, say trong máu của chiến tranh, và ở
giữa tất cả những xô đẩy, ào ạt đó tôi không làm sao thở được” (6).
Nuôi thù được NXB Trình bầy ấn hành với giấy
phép của Sở Phối hợp nghệ thuật thuộc Bộ Thông tin Chính phủ Việt Nam Cộng hoà
(Sài Gòn). Trước đó, một kiệt tác của văn học Nhật Bản làSembazuru được nhà văn Trùng Dương dịch từ bản
Anh văn Thousand Cranes của Seidensticker với nhan đề Ngàn cánh hạc cũng do nhà xuất bản này ấn hành
năm 1969. Chính việc xuất bản Ngàn
cánh hạc đã cho nhóm chủ
trương NXB Trình bầy một kinh nghiệm cay đắng: trong khi hàng loạt tác phẩm
viết và bàn về tính dục được cho phép xuất bản công khai ở Sài Gòn, thì bản
thảo Ngàn cánh hạc lại bị cấm đoán một thời gian vì
lý do “vi phạm thuần phong mỹ tục”.
Kinh nghiệm đó khiến dịch giả Diễm Châu và nhà xuất bản lần này thận trọng “tự
ý cắt bỏ” một vài chữ, thậm chí cả một câu, để làm vui lòng Sở Phối hợp nghệ
thuật, khiến họ không có lý do gì ngăn cản sự xuất hiện của tác phẩm. Cụ thể,
trong đoạn miêu tả Sứt Môi đùa nghịch với mấy đứa con gái khi chúng tắm ngoài
suối, những chữ “nhạy cảm” bị thay bằng dấu ngoặc đơn và ba chấm: (…). Cách tự
ý biên tập này còn diễn ra sau đó, trong đoạn tác giả tả viên phi công, lúc này
đã trở nên thân thiện, được lũ trẻ kéo ra tắm sông và diễn những trò chơi thô
tục.
Nhưng những chi tiết bị lược bỏ đó thật ra không làm
ảnh hưởng đến chủ đề và thông điệp nghệ thuật của tác phẩm. Trong những ngày
tháng ngộp thở nhất của chiến tranh, bản dịch Nuôi
thù của Diễm Châu đã góp phần đưa một tiếng nói nghệ thuật từ Nhật Bản về
số phận và thái độ của con người trong chiến tranh đến với bạn đọc Việt Nam. Kết cục
của cuộc chiến tranh giữa nước ta với quân Mỹ và cuộc chiến tranh trên quê
hương của Nhái trái ngược nhau: một nước chiến thắng sau bao hy sinh mất mát;
một nước thất bại và đầu hàng. Nhưng có một điều gì tương ứng trong thái độ của
bạn bè Nhái và những em bé Việt Nam:
trong khắc nghiệt của cuộc chiến tranh mà chúng không có quyền chọn lựa, chúng
là hiện thân của phẩm cách dân tộc và phẩm cách nhân loại ngay khi đối mặt với
kẻ thù.
2.
Ra
mắt năm 1964 và được Giải thưởng văn học Shinchosa, 32 năm sau, tiểu thuyết Kojinteki na taiken được nhà thơ Lê Ký Thương dịch qua bản
Anh văn A Personal Matter của John Nathan và được xuất bản
với nhan đề Một nỗi đau riêng (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh,
1997). Cũng như Diễm Châu,
Lê Ký Thương là một nhà thơ khuynh tả đã có tác phẩm công bố trước 1975.
Dựa trên một trải nghiệm trong chính cuộc đời Ōe
Kenzaburo, Một nỗi đau riêng là câu chuyện về một người cha
chứng kiến sự ra đời của đứa con đầu lòng bị dị dạng vì bệnh thoát vị não. Anh
ta tìm cách trốn chạy trách nhiệm với sinh linh bé nhỏ đó và có ý định bỏ mặc
đứa bé cho Thần chết, miễn là không để tay mình vướng vào tội ác, hầu thực hiện
giấc mộng lãng du sang châu Phi mà anh ôm ấp bấy lâu nay. Người bạn tình Himiko
đã tiếp tay cho anh thực hiện âm mưu tội ác đó. Toàn bộ cuốn tiểu thuyết là một
cuộc đấu tranh nội tâm đầy giằng xé giữa lương tâm, trách nhiệm của một người
cha với sự dửng dưng của một trái tim vô cảm.
So với Nuôi thù thì việc miêu tả yếu tố tính dục
trong Một nỗi đau riêng “nghiêm trọng” hơn nhiều. Nhưng việc miêu tả này chỉ tập trung
từ đoạn cuối chương 6 đến hết chương 7. Khi Điểu (Bâdo/ Bird), nhân vật chính
của cuốn tiểu thuyết, bước ra khỏi bệnh viện, trong thời gian chờ đợi ở trạm xe
buýt giữa cái nắng thiêu đốt của mùa hè, bị dằn vặt bởi ý nghĩ phải lấy khoản
tiền dành dụm bấy lâu nay cho chuyến đi du lịch châu Phi để trả chi phí điều
trị cho con, anh ta đã thấy cái “mầm khát khao tính dục” nhú lên như một cách
phản ứng lại nỗi sợ hãi đang xâm chiếm lấy anh. Đó là “khúc dạo đầu” chuẩn bị
cho chương 7, chương “cao trào”, khi Điểu trở lại căn nhà của cô bạn tình
Himiko, và hai người đã quyến rũ nhau trong trò cút bắt tính dục để làm sống
lại cơn khát khao chưa được thoả mãn từ thời sinh viên. Ōe Kenzaburo
miêu tả thật dữ dội cuộc quần thảo giữa hai người bạn cũ, mang dấu ấn xen kẽ
vừa khổ dâm, lại vừa bạo dâm:
“Điểu nhận ra anh đang nhìn Himiko như một chiến binh già đã được tôi luyện
trong những trận mạc của cuộc sống hàng ngày, nhiều kinh nghiệm hơn chính bản
thân anh. Nàng không chỉ là một chuyên gia tính dục mà năng lực của nàng còn
quá sức dồi dào ở nhiều khía cạnh khác của cuộc sống trong thế giới thực tại
này. Điểu nhận ra chính mình chịu ảnh hưởng của Himiko: nhờ nàng mà anh đã vượt
qua một trong những nỗi sợ hãi của mình” (7).
Bản dịch Một
nỗi đau riêng lần đầu được
gửi đến một nhà xuất bản và bị từ chối. Nơi thứ hai mà dịch giả gõ cửa là NXB
Văn nghệ TP Hồ Chí Minh đã đồng ý cấp giấy phép với điều kiện phải cắt bỏ đoạn
cuối chương 6 và toàn bộ chương 7 nói trên vì nội dung tính dục. Do chương 7
không xuất hiện trong văn bản tiếng Việt Một
nỗi đau riêng, chương 8 trong
nguyên bản được đánh dấu bằng chương 7 và cuốn sách kết thúc ở chương 12 thay
vì 13. Như vậy là khác với trường hợp Nuôi
thùphải cắt bỏ những câu ngắn rải rác trong bản dịch, Một nỗi đau riêng cắt gọn và tập trung khoảng 15
trang trong bản dịch tiếng Anh.
Quả thật, nếu tách riêng chương 7 của Một nỗi đau riêng ra khỏi cấu trúc tác phẩm, mặc dù dịch
giả đã cố gắng “lựa lời mà dịch” những chỗ nhạy cảm, người đọc Việt Nam vẫn có
thể bị sốc với cách miêu tả bạo liệt và trần
trụi của tác giả. Nhưng nếu đọc nó trong toàn bộ mạch văn của cuốn tiểu thuyết,
có thể thấy rằng Ōe Kenzaburo không miêu tả tính dục thuần tuý vì tính
dục.
Tác giả đã miêu tả cơn khát tính dục của Điểu như đỉnh
cao của cám dỗ con người trốn chạy và phủi tay trước trách nhiệm, như một cách
“phơi bày hết ra ánh sáng nỗi sợ hãi đang chui vào người anh”. Ngay trong và
sau cơn mây mưa, Điểu vẫn không thôi bị ám ảnh và dằn vặt bởi cảm giác tội lỗi:
“Giấc ngủ đối với Điểu là một ống khói tàu mà anh chui vào qua một lối đi rộng
và dễ dàng, nhưng phải thoát ra bằng ngõ hẹp. Trương phồng như một khinh khí
cầu, cơ thể anh chầm chậm trôi qua vùng không gian lờ mờ vô tận. Anh bị trát đòi hầu tòa ở bên kia
vùng bóng tối, và anh đang suy nghĩ cách qua mặt quan tòa về trách nhiệm của
anh đối với cái chết của con trai mình (HNP
nhấn mạnh). Cuối cùng, anh biết mình không thể lừa bịp các quan tòa, nhưng cùng
lúc anh cảm thấy mình muốn chống án – những kẻ trong bệnh viện đã làm như vậy!
Không lẽ tôi không có cách nào thoát khỏi sự trừng phạt? Nhưng sự đau khổ của
anh lại càng ô nhục thêm khi anh tiếp tục trôi nổi trong chiếc khinh khí cầu
nhỏ bé của mình” (8).
Một nỗi đau riêng của Ōe Kenzaburo gợi nhớ đến Kẻ
xa lạ của Albert Camus ở
phương diện tương giao con người. Meursault của Kẻ xa lạ vô cảm và dửng dưng trước cái chết
của mẹ, rồi giết người với cảm giác không gớm tay. Meursault đã không cưỡng
được áp lực tâm lý dưới cái nóng hừng hực, rát bỏng của mùa hè thiêu đốt từ đất
đá bốc lên, từ trời cao ập xuống. Ngay sau đám tang của mẹ, anh hưởng lạc thú
với người tình là Marie và mặc dù A. Camus hầu như chỉ kể mà không tả những lần
quan hệ ấy, không thể nói là nhân vật - người kể chuyện muốn mình “đạo đức” hơn
dưới mắt kẻ khác. Khi nổ súng giết người, anh hiểu mình “đã huỷ diệt sự bình
yên của ngày, bầu không khí yên lặng phi thường của một bãi biển, nơi mà tôi
cảm thấy hạnh phúc” (9). Và anh buông xuôi trước cái guồng máy pháp luật vô cảm
với những chánh án, biện lý, luật sư… đã vây kín không cho anh một lối thoát,
khiến anh tự đóng dấu mình là một “kẻ xa lạ” trong tương giao nhân loại.
Trái với Meursault, Điểu của Một nỗi đau riêng là một lương tâm tự vấn thường
trực, luôn ở ranh giới giữa thiện và ác, và trong giờ phút quyết định nhất của
hiện sinh, đã kịp rút chân ra khỏi vũng lầy cám dỗ của tội lỗi. Nếu anh tiếp
tục thông đồng với cái hệ thống y tế vô cảm, có thể anh không bị buộc phải đối
mặt với một toà án cụ thể nào như Meursault. Nhưng may mắn là phiên toà bên
trong anh đã mở ra cùng lúc với quá trình đi đến tội ác, qua những lời độc
thoại nội tâm. Điểu đã từng tự kết án mình, rồi cũng từng tự biện hộ để cuối
cùng có một phán quyết nhân bản nhất. Tưởng như anh đã cứu đứa bé, nhưng chính
là đứa bé đã cứu vớt anh khỏi thảm kịch hủy diệt khuôn mặt người. Từ khuôn mặt
với “những giọt mồ hôi nhờn lấp lánh từ trán xuống mũi, đôi môi thì mấp máy
theo hơi thở bồn chồn, đôi mắt vẩn đục thì thất thần: đúng là khuôn mặt của một
kẻ đồi trụy” hiện lên trong chiếc gương soi hình bầu dục khiến Điểu choáng
váng, anh đã có thể tìm
lại khuôn mặt mới của mình qua đôi mắt của đứa con: “Cái gương trong đôi mắt
của thằng bé là tấm gương soi màu xám trong veo và sâu thẳm, phản chiếu một
hình ảnh, nhưng là một hình ảnh quá đẹp đến nổi Điểu không thể tin chắc được đó
lại là gương mặt mới của mình” (10). Con người ta đâu thể nào chà đạp lên tất
cả, dù chỉ là một con chim sẻ dưới mưa. Bằng việc đánh thức cảm quan trách
nhiệm nơi Điểu, Một nỗi đau
riêng đã thể hiện phương diện
tích cực trong nhân sinh quan của chủ nghĩa hiện sinh, đặc biệt là triết học
hiện sinh của J.-P. Sartre mà Ōe Kenzaburo tiếp nhận từ thời trẻ.
Có thể nói, cũng như Nuôi
thù, tiểu thuyết Một nỗi đau riêng thấm đẫm tinh thần nhân bản. Cuốn
trước là thái độ nhân bản trong cuộc tranh đấu với kẻ thù trong một hoàn cảnh
cực đoan và khốc liệt của chiến tranh; còn cuốn sau là tinh thần nhân bản trong
đấu tranh với cái ác của chính bản thân mình trong đời sống thường nhật. Hai
tác phẩm đã chọn hai “điểm rơi” vào hai hoàn cảnh đặc thù ở Việt Nam trong chiến
tranh và sau khi hoà bình. Hai tác phẩm cùng thể hiện sứ mệnh của một nhà tiểu
thuyết là “phải chịu đựng tất thảy những lầm lạc của Con Người”, như một câu
thơ của Wystan Hugh Auden mà Ōe Kenzaburo yêu thích.
3.
Trước Một nỗi đau
riêng, việc xuất bản dịch
phẩm văn học ở Việt Nam đã có một vài sự kiện: Năm 1989, Tạp chí Sông Hương thuộc Hội Văn học Nghệ thuật Bình Trị
Thiên, phối hợp với BáoVũng Tàu - Côn Đảo ấn hành 10.000 bản tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả (bản dịch của Nguyễn Trung Đức)
của G. G. Marquez, Giải thưởng Nobel văn học 1982. Cuốn sách đã bị cấm phát
hành, sau đó bị nghiền thành bột giấy, với lý do “có những đoạn có nội dung
kích dục không thích hợp với thuần phong mỹ tục của Việt Nam”. Mặc dù
tác giả là một người bạn lớn từng đến thăm Việt Nam và đã có nhiều tác phẩm được
xuất bản bằng tiếng Việt, nhưng đến lượt tác phẩm này thì lại bị một bộ phận
công chúng từ chối không tiếp đón. Phải đợi đến năm 1995 Tình yêu thời thổ tả mới được in lại nguyên vẹn. Cũng
năm 1989, tiểu thuyết Chiếc
chìa khoá của Tanizaki
Junichiro (bản dịch của Phạm Thị Hoài) do NXB Phụ nữ ấn hành cũng gây ra những
dư luận trái chiều về nội dung tính dục của nó.
Tình hình xuất bản một số tác phẩm của các nhà văn Nhật Bản
như Tanizaki Junichiro, Kawabata Yasunari, Ōe Kenzaburo… ở Việt Nam gợi lên những suy nghĩ về sự
tương đồng và dị biệt trong thị hiếu và cảm thụ của độc giả Việt Nam và Nhật
Bản, cũng như sự chuyển biến của nó trong bối cảnh xã hội Đông Á hiện nay. Cùng
chịu ảnh hưởng của khu vực văn hoá chữ Hán, nhưng Việt Nam và Nhật Bản
đã đi vào thế giới hiện đại bằng những con đường khác nhau. Nhật Bản bảo tồn
truyền thống văn hoá của mình thật cẩn trọng, đồng thời với sự cởi mở và phá
chấp trong tiếp thu văn minh và nhân sinh quan phương Tây. Điều đó tạo điều
kiện cho sự tiếp nhận những tác phẩm hội hoạ, văn học, điện ảnh… miêu tả sinh
hoạt tính dục và nhục cảm như một phương diện của đời sống thường nhật không có
gì mâu thuẫn gì với phẩm cách cao thượng của con người.
Trái lại, ở Việt Nam,
một đất nước mà ảnh hưởng sâu đậm của Nho giáo vẫn còn tranh chấp với quan niệm
và lối sống hiện đại thì tình hình lại khác. Một mặt, Việt Nam vẫn mang
gánh nặng của văn hoá cổ truyền và sức ép của những tabou văn hoá vẫn tạo nên một hàng rào cấm
kỵ trong văn chương. Sự thật là lịch sử và đạo đức biện hộ cho những cấm kỵ đó,
khi mà một bộ phận công chúng trẻ đã tỏ ra không đủ bản lĩnh để miễn nhiễm
trước cám dỗ của sự tha hoá. Mặt khác, những định kiến về “chủ nghĩa tự nhiên”
như một “tà phái” từng áp đặt lên việc đánh giá ngay những nhà văn hiện thực
như Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài… vẫn tiếp tục phát
huy tác dụng và cộng hưởng với quan niệm đồng nhất đối tượng miêu tả với thái độ
miêu tả, dẫn đến sự cảnh giác với những đề tài thường bị xem là “lai căng”, có
tính chất học đòi. Sự cảnh giác này không phải chỉ có ở những độc giả có chức
phận “coi sóc” nền văn học mà ngay cả ở những nhà phê bình, những nhà giáo dục,
những bậc phụ huynh luôn nghi ngờ khả năng điều chỉnh của những thước đo về
phẩm hạnh trong lòng độc giả trẻ tuổi.
Việc chính quyền thực dân, dưới áp lực của dư luận, tịch thu và
tiêu huỷ Truyện nàng Hà Hương (Hà Hương phong nguyệt) của
Lê Hoằng Mưu vào những năm 20 thế kỷ trước, việc gây khó khăn khi xuất bản Ngàn cánh hạc của Kawabata Yasunari vào những
năm 60, việc tiêu huỷ Tình yêu
thời thổ tả của G. Marquez
vào những năm 80, việc biên tập cắt bỏ nội dung Một nỗi đau riêng của Oe Kenzaburo vào những năm 90
là những sự kiện được xâu chuỗi trong non một thế kỷ. Những sự kiện đó diễn ra
trong những bối cảnh xã hội rất khác nhau, mà sự giải thích có lẽ phải căn cứ
trên lý do văn hoá hơn là lý do chính trị. Thậm chí, nếu có, lý do chính trị
cũng phải ẩn giấu sau lý do văn hoá, bởi đây là lý do dễ được đồng tình của dư
luận hơn cả. Nó có thể tìm sự biện minh trong sự va chạm và bất hoà có thật
giữa phong tục vốn quy định cách ứng xử của con người với những sản phẩm tinh
thần sản sinh trong một môi trường văn hoá khác lạ.
Hơn 80 năm trước, để đáp lại lời kết án tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt “làm cho bại hoại phong tục, suy
đồi luân lý”, Lê Hoằng Mưu đã viết: “Tôi thầm nghĩ nếu phong hoá vì tiểu thuyết
tình tự lả lơi mà ra thì phong hoá các nước suy đồi biết mấy” (11). Không biết
khi nói “các nước” ở đây, nhà văn này đã nghĩ đến nước Nhật Bản “đồng văn” với
Việt Nam
hay chưa.
Thật là cảm kích khi đọc những nhận xét mang tính tự
phê phán dân tộc của Ōe Kenzaburo trong Diễn từ nhận Giải thưởng Nobel:
“Quá trình hiện đại hoá của Nhật Bản đã
được xác định theo chiều hướng học tập và bắt chước phương Tây. Tuy vậy, Nhật
Bản nằm trong châu Á và vẫn bền bỉ duy trì những truyền thống văn hoá của mình.
Định hướng nhập nhằng đó của Nhật Bản đưa đất nước này vào vị thế một kẻ đi xâm
lấn ở châu Á. Một đằng, nền văn hoá của Nhật Bản hiện đại hoàn toàn mở ra
phương Tây, một đằng thì ít nhất cũng ngăn không cho người phương Tây hiểu nó.
Và hơn nữa, Nhật Bản bị đẩy vào thế cô lập với các quốc gia châu Á khác không
chỉ về chính trị mà còn cả về xã hội và văn hoá” (12).
Ngày hôm nay, gần hai thập niên sau khi Ōe Kenzaburo
nhận Giải thưởng Nobel, thiết nghĩ, từ “cô lập” đã không còn thích hợp. Nhưng
“khoảng cách” thì chắc chắn vẫn còn. Về mặt văn hoá, khoảng cách đó không chỉ
là do cách ứng xử và thích nghi với văn minh phương Tây mà ngày nay không một
nước châu Á nào không đối mặt, mà còn do chính sức mạnh, quán tính và áp lực
của nền văn hoá bản địa và bản thân những mâu thuẫn bên trong từng nền văn hoá.
Sự va chạm và bất hoà tiềm tàng từ trong quan hệ giữa
văn học dân gian với văn học quan phương, được gia tăng bởi những nhân tố nước
ngoài trong quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá, chắc chắn sẽ còn kéo dài.
Một hệ quả của tiến trình hiện đại hoá văn học là tình trạng biến đổi của cấu
trúc độc giả, bị chi phối bởi hệ quy chiếu gồm những chuẩn mực được hình thành
từ kinh nghiệm thưởng thức văn học đã tích lũy. Khoảng cách và sự đứt quãng
giữa chuẩn mực có sẵn với những hiện tượng văn học “không được chờ đợi” có thể
dẫn đến sự phản ứng quyết liệt do những khác biệt, thậm chí xung đột không thể
nào hoá giải được. Vì vậy, không thể nhìn nhận và đánh giá một chiều đối với
tác động của hiện đại hoá và phương Tây hoá. Đã có những trả giá về tinh thần,
những tổn thương và cả những bi kịch phải tìm cách cứu chữa để có sự
nhượng bộ, chấp nhận và dung hoà với cái khác và cái mới. Những hố sâu ngăn
cách giữa các thế hệ và các nền văn hoá phải mất nhiều thời gian mới được hàn
gắn.
Nếu biết tác phẩm của mình bị biên tập, cắt bỏ khi xuất
bản ở Việt Nam, trong hai hoàn cảnh xã hội và hai chế độ khác nhau, có lẽ Ōe Kenzaburo
không khỏi ngạc nhiên và phiền lòng. Nhưng nếu ông biết rằng những chuẩn mực
văn hoá cứng rắn vẫn còn chi phối chân trời tiếp nhận văn học của công chúng
Việt Nam, đã từng gây phiền phức cho tác phẩm của những người cùng thời như
Kawabata Yasunari, G. Marquez… , hẳn ông sẽ thông cảm. Chắc còn lâu lắm bản
dịch Nuôi thù của Diễm Châu và bản dịch Một nỗi đau riêng của Lê Ký Thương mới được tái bản với văn bản
trọn vẹn như nguyên tác.
HUỲNH
NHƯ PHƯƠNG
(1) Ōe Kenzaburo: Nuôi thù (Bản dịch của Diễm Châu), NXB Trình bầy, Sài Gòn, 1970, tr. 13.
(2), (3) Nguyễn Nguyên: Nuôi thù, Tạp chí Trình bầy, số 6, ngày
15-10-1970, tr. 73.
(4), (5), (6) Ōe Kenzaburo: Nuôi
thù, Sđd, tr. 64, 80, 100.
(7), (8) Bản dịch của Lê Ký Thương.
(9) Albert Camus: Kẻ
xa lạ (Bản dịch của Lê Thanh
Hoàng Dân), NXB Hội nhà văn, Hà Nội, 2001, tr. 79.
(10) Ōe Kenzaburo: Một
nỗi đau riêng (Bản dịch của
Lê Ký Thương), NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1997, tr. 266.
(11) Xem Võ Văn Nhơn: Văn học quốc ngữ trước 1945 ở TP Hồ
Chí Minh, NXB Tổng hợp TP HCM
– NXB Văn hoá Sài Gòn, 2007, tr. 278, 279.
(12) Ōe Kenzaburo: Nhật
Bản, sự nhập nhằng và bản thân tôi (Bản
dịch của Phùng Thanh Phương). Trong: Đoàn Tử Huyến (chủ biên):Các nhà văn
Giải Nobel, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006, tr. 938.
* Bài viết này đã đăng trong Tạp chí NGHIÊN CỨU VĂN HỌC của Viện Văn Học - Viện KHXH Việt Nam số tháng 2-2012